Phân tích đa cấp độ các động thái
nơng nghiệp tỉnh Bắc Kạn (Việt Nam):
Từ chẩn đoán ở địa phương tới nghiên cứu tổng hợp
các thay đổi không gian nông thôn miền núi
Jean-Christophe Castella
Viện Nghiên cứu vì sự Phát triển (IRD),
213 rue Lafayette, 75480 Paris Cedex 10, France; và
Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI),
DAPO Box 7777, Metro Manila, Philippines
Đặng Đình Quang
Viện Khoa học Kỹ thuật Nơng nghiệp (VASI), Thanh Trì, Hà Nội, Việt Nam
Trần Đình Long
Viện Khoa học Kỹ thuật Nơng nghiệp (VASI), Thanh Trì, Hà Nội, Việt Nam
Lê Quốc Doanh
Viện Khoa học Kỹ thuật Nơng nghiệp (VASI), Thanh Trì, Hà Nội, Việt Nam
Tóm tắt
Tại Việt Nam, các cải cách chính sách sau thời kỳ đổi mới đã đẩy nhanh q trình phân hố
nơng hộ và làm thay đổi sâu sắc các mối quan hệ sản xuất. Chỉ trong một vài năm, nền nông
nghiệp tập thể đã được thay thế bằng nền nơng nghiệp gia đình. Tại miền núi, tốc độ thay đổi
cùng với sự đa dạng cao của môi trường tự nhiên và nhân văn đã dẫn đến sự phức tạp của các
động thái sử dụng đất. Điều này địi hỏi phải có các nghiên cứu chun khảo chẩn đốn nơng
nghiệp.
Từ năm 1999, Chương trình SAM-Regional đã phát triển một phương pháp mới, phù hợp với
bối cảnh đặc thù của miền núi Việt Nam. Chúng tơi đã phân tích các tương tác giữa: (i) chiến
lược mang tính cá nhân của người dân (quá trình ra quyết định dựa trên nguồn tài ngun của
gia đình), (ii) chính sách, thể chế liên quan đến việc sở hữu và sử dụng tài nguyên, và (iii) môi
trường sinh thái và kinh tế-xã hội.
Kết quả thu được trong tỉnh Bắc Kạn chỉ ra rằng tính phức tạp của các động thái nơng nghiệp
đang diễn ra thúc đẩy sự mở rộng dần các cấp độ phân tích (từ cấp độ thơn bản đến cấp độ
tỉnh), phạm vi lý thuyết và các hướng tiếp cận (hướng tiếp cận liên ngành liên kết khoa học tự
nhiên với khoa học xã hội), và dành một vị trí xứng đáng cho sự tham gia của các tác nhân
phát triển (từ nơng dân cho đến nhà hoạch định chính sách) trong q trình nghiên cứu. Các
cơng cụ nghiên cứu mới tỏ ra phù hợp và cần thiết để giải đáp các vấn đề có tính phương pháp
luận nêu trên.
Tham luận tại Hội thảo Quốc tế "Phổ biến tiếp cận mới trong nghiên cứu
và phát triển nông nghiệp ", 23-27/09/2002, Hà Nội, Việt Nam
1. Đặt vấn đề
Sự chuyển dịch nền kinh tế ở Việt Nam bắt đầu từ những năm 1980 với công
cuộc Đổi mới bao gồm hai cải cách kế tiếp nhau: giao tư liệu sản xuất cho
các hộ cá thể, tiếp đó là tự do hóa nền kinh tế và mở cửa với các thị trường
nước ngoài. Các cải cách này đã đưa đất nước từ tình trạng thiếu lương thực
sang giai đoạn tăng trưởng chưa từng có trong lĩnh vực nông nghiệp. Tổng
sản phẩm quốc nội trong khoảng thời gian từ 1991 đến 2000 đã tăng gấp đôi
và an ninh lương thực đã được đảm bảo. Sự phát triển kinh tế vượt bậc này
chủ yếu dựa trên nông hộ mà nay đã trở thành đơn vị sản xuất cơ bản trong
nông nghiệp. Những thay đổi về mặt kỹ thuật, kinh tế và xã hội gắn liền với
thời kỳ chuyển tiếp đã làm biến đổi phương thức sản xuất nông nghiệp, quản
lý tài nguyên, sử dụng đất và những thể chế quy định quyền sử dụng và phân
phối nguồn tài nguyên. Tuy nhiên, những thay đổi này có tác động khác
nhau tùy theo từng vùng. Các phân tích kinh tế vĩ mô chỉ ra rằng sự tăng
trưởng nông nghiệp trong suốt thập kỷ qua có lợi cho các vùng đồng bằng
nhiều hơn các vùng miền núi (Kerkvliet và Porter, 1995; Poverty Task
Force, 1999; Minot và Baulch, 2002).
Miền núi chiếm tới 75% diện tích đất liền Việt Nam và 21% dân số cả nước
nhưng lại ít được hưởng các thành quả của sự tăng trưởng nhất. Sự chênh
lệch về mức độ phát triển kinh tế và phân bố giàu nghèo giữa vùng châu thổ
và miền núi sẽ có thể tăng lên trong thập kỷ tới. Ví dụ, tỷ lệ nghèo đói ở
miền núi phía bắc được dự đốn là sẽ tăng từ 28,1% năm 1998 đến 34,4%
năm 2010, trong khi tỷ lệ này ở vùng châu thổ sông Hồng sẽ giảm từ 15%
xuống 3,8% trong khoảng thời gian tương ứng (Trung tâm Khoa học Xã hội
và Nhân văn Quốc gia, 2001; World Bank, 2001). Một số tác giả đã dự đoán
miền núi vẫn ở trong chiếc vòng luẩn quẩn với dân số tăng, suy thối mơi
trường, nghèo đói gia tăng và sự tụt hậu của các dân tộc thiểu số (Kerklievt
và Porter, 1995; Rambo và cộng sự, 1995; Lê Trọng Cúc và Rambo, 2001).
Donovan và cộng sự (1997) đã xác định bảy khó khăn chính mà người dân ở
miền núi gặp phải: (i) những hạn chế về mặt lý-sinh học (độ dốc và địa hình
chia cắt lớn, những khó khăn về mặt tiếp cận, đất chua và độ phì kém, khí
hậu khắc nghiệt với lượng mưa phân bố không đều và nhiệt độ xuống thấp
vào mùa đơng), (ii) mơi trường suy thối (nạn phá rừng, xói mịn, lũ lụt), (iii)
những hạn chế về cơ sở hạ tầng (mạng lưới giao thông và thông tin chưa
phát triển), (iv) những hạn chế về kinh tế (nền nông nghiệp tự túc, thiếu vốn
và khả năng tiếp cận với thị trường kém), (v) áp lực dân số cao (tỷ lệ tăng
dân số cao, đất đai manh mún, di cư, tỷ lệ thất nghiệp cao), (vi) những hạn
chế về mặt văn hóa (trình độ nhận thức kém, đa dạng ngơn ngữ, bất đồng
giữa các nhóm dân tộc) và (vii) những hạn chế về tri thức (thiếu kiến thức
khoa học về miền núi, luôn giữ cách nghĩ là một kế hoạch phát triển duy
nhất có thể áp dụng cho tất cả các khu vực miền núi). Khó khăn cuối cùng
này là một vấn đề chính trong các kế hoạch phát triển cho miền núi. Kinh
nghiệm cho thấy những kế hoạch phát triển đã được thực hiện thành công tại
2
các vùng châu thổ thường không đạt kết quả mong muốn khi áp dụng trong
môi trường tự nhiên và nhân văn đa dạng ở miền núi (Jamieson và cộng sự,
1998). Khó khăn khi làm việc trong mơi trường với tính đa dạng cao của
miền núi lại tăng thêm bởi thiếu các số liệu thực địa. Những thông tin thu
được từ nguồn sẵn có thường là chắp vá và được tổng hợp lại từ những
nghiên cứu cụ thể có phạm vi địa lý hẹp. Như vậy, để giải quyết các thách
thức trong phát triển nông nghiệp và nông thôn, cần phải xây dựng các
phương pháp chẩn đốn mới để có thể phân tích dữ liệu ở các cấp độ khác
nhau. Một khó khăn khác khi nghiên cứu ở miền núi là các phân tích đã
được thực hiện thường chỉ đề cập đến từng lĩnh vực (ví dụ như chỉ tập trung
vào rừng, chăn ni gia súc, nghèo đói hay sự bất bình đẳng giữa các giới).
Tất nhiên chúng tơi khơng có ý định phê phán các nghiên cứu trên mà chúng
tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng chúng chưa bao quát được đầy đủ sự phức tạp
của các biến đổi đang diễn ra. Mối tương tác giữa các lĩnh vực nêu trên cần
được nghiên cứu kỹ hơn vì chính chúng sẽ hướng các hệ thống nơng nghiệp
miền núi hoặc quay lại vịng luẩn quẩn đói nghèo hoặc tới sự phát triển (Lê
Trọng Cúc và Rambo, 2001).
Từ năm 1998, Chương trình Nghiên cứu Hệ thống Nông nghiệp Miền núi
(SAM1) đã tiến hành nghiên cứu những mối quan hệ tương hỗ phức tạp giữa
các tác nhân địa phương, sản xuất nông nghiệp, sử dụng đất và những biến
đổi mơi trường. Những phân tích bao quát về các biến đổi ở khu vực nông
thôn miền núi đã đưa chúng tôi tới việc (i) xác định những động lực chính
theo sau những cải cách của cơng cuộc Đổi mới và (ii) đánh giá tác động của
những cải cách đó đến sử dụng đất và chiến lược sản xuất của nông dân.
Chúng tôi hy vọng rằng các nghiên cứu này có thể giúp hiểu rõ những lo
ngại trong những năm gần đây về tình hình miền núi, đồng thời giúp các nhà
nghiên cứu xác định những vấn đề để có thể phát triển tiềm năng nơng
nghiệp của vùng. Những phân tích về chuyển đổi nơng nghiệp miền núi này
đã đưa tới việc (i) phát triển các phương pháp chẩn đốn thích ứng với
những đặc thù về mặt lý-sinh học và kinh tế-xã hội của khu vực miền núi
(Castella và cộng sự, 1999; Castella và cộng sự, 2001), và (ii) những tiến bộ
về kỹ thuật và tổ chức để nông nghiệp phát triển bền vững (Husson và cộng
sự, 2000, Bal và cộng sự, 2000).
Trong bài viết này, đầu tiên chúng tơi sẽ trình bày phương pháp chẩn đốn
hệ thống được thực hiện ở Bắc Kạn từ năm 1998 đến 2001. Tiếp theo, chúng
tôi sẽ giới thiệu những đặc điểm chính của tỉnh Bắc Kạn. Sau đó, phần tổng
hợp các kết quả thu được sẽ giúp chúng tôi xác định và phân cấp các động
thái nông nghiệp đã và đang diễn ra. Trong phần cuối, chúng tôi sẽ phân tích
tác động của các nhân tố biến đổi này tới cnh quan nụng nghip, s tin
1 Chương trình SAM đi vào hoạt động theo cơ chế đối tác giữa Viện Khoa häc Kü
tht N«ng nghiƯp ViƯt Nam (VASI, Hà Nội), Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI,
Philippines), Viện Nghiên cứu vì sự Phát triển (IRD, cộng hoà Pháp) và Trung tâm
Hợp tác Quốc tế Nghiên cứu Nông nghiệp phục vụ Phát triển (CIRAD, cộng hoà
Pháp).
3
triển của các chiến lược nông dân, tới môi trường và các chính sách phát
triển. Cuối cùng sẽ là phần kết luận về những bài học đối với công tác
nghiên cứu và phát triển được rút ra trong thời gian chúng tôi làm việc ở tỉnh
Bắc Kạn. Chúng tôi hy vọng các công việc được giới thiệu ở đây sẽ cho
phép định hướng quá trình nghiên cứu-hành động sâu sát hơn các vấn đề
được ưu tiên để phục vụ công cuộc phát triển miền núi trong những năm tới.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1 Những hạn chế về phương pháp nghiên cứu ở miền núi
Các chương trình nghiên cứu phát triển ở miền núi phía bắc Việt Nam
thường gặp phải ba trở ngại chính khiến cho các phương pháp chẩn đốn
truyền thống trở nên khơng thích hợp.
Thứ nhất, tính đa dạng cao về mặt xã hội và sinh thái là trở ngại chính cho
việc khái qt hóa các kết quả ở địa phương lên những khu vực lớn hơn. Sự
đa dạng cao này tạo ra một hình ảnh rất phức tạp, khó có thể xác định được
một huyện, xã hay thơn đại diện được đầy đủ cho sự đa dạng ở cấp độ cao
hơn, do vậy, các quá trình chọn mẫu, thu thập số liệu và ngoại suy kết quả
càng thêm phức tạp.
Thứ hai, những thay đổi thể chế nhanh chóng trong vùng (đặc biệt từ khi
giải thể các hợp tác xã nông nghiệp, giao quyền sử dụng đất và các cải cách
chính sách trong q trình Đổi mới) đã làm thay đổi sâu sắc mối quan hệ
giữa nông dân và môi trường tự nhiên, cũng như mối quan hệ giữa nơng dân
với nhau. Người nơng dân nói riêng và các cộng đồng nơng thơn nói chung
ln phải thích ứng với hồn cảnh mới. Những thay đổi nhanh chóng của bối
cảnh kinh tế-xã hội (cơng nghiệp hố, hội nhập thị trường, di cư, v.v.) thúc
đẩy họ thường xuyên phải cải tiến các hệ thống sản xuất mà khơng có sự hỗ
trợ kỹ thuật để đảm bảo tính bền vững của chúng. Họ khơng những nhanh
chóng áp dụng những kết quả nghiên cứu phù hợp với các chiến lược và hạn
chế của mình mà cịn tự phát triển một số giải pháp thay thế mà tác động của
chúng đôi khi gây nên những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội và sinh thái về
lâu dài. Trong một bối cảnh như vậy, các cơng việc nghiên cứu cần phải
thích ứng để theo kịp những thay đổi nhanh về nông nghiệp - sinh thái và
kinh tế - xã hội.
Cuối cùng, những ảnh hưởng từ bên ngồi có tác động lớn đến miền núi
thuộc lưu vực sơng Hồng. Những thay đổi về chính sách và sự can thiệp của
Nhà nước, ảnh hưởng của thị trường Trung Quốc hay phương Tây, v.v. có
vai trị ngày càng tăng đối với các động thái nông nghiệp. Nghiên cứu ở cấp
địa phương cần phải có cái nhìn tổng quát hơn: khi đề xuất những thay đổi
kỹ thuật và thể chế thì phải tính đến cả những ưu điểm cũng như hạn chế của
chúng. Quả thực, giữa các cấp độ khơng gian - thời gian khác nhau ln có
4
những xung đột. Kết quả là các nghiên cứu được cho là hiểu được các động
thái nông nghiệp ở cấp vùng, nhưng lại ít có khả năng để áp dụng ở ngồi
cấp độ mà nó đã được thực hiện.
Ngồi các vấn đề phương pháp khoa học, chúng tôi cho rằng điều quan trọng
là phải phát triển một khuôn khổ thể chế phù hợp để khuyến khích các hoạt
động nghiên cứu tổng hợp. Trong mỗi giai đoạn của quá trình nghiên cứu, sự
tham gia của các tác nhân địa phương, đặc biệt là nông dân, sẽ cho phép đảm
bảo rằng kết quả nghiên cứu đáp ứng được nhu cầu thực sự của người dân
địa phương. Các chuyên gia không thể chờ áp đặt các giải pháp khác nhau
cho cộng đồng dân cư, mà thay vào đó, họ cần phải cộng tác với các tác nhân
địa phương trong một quá trình học hỏi lẫn nhau để hướng tới phát triển bền
vững.
1.2 Phương pháp tiếp cận của dự án SAM
Phát huy tính đa dạng như một nguồn thơng tin. Tính đa dạng cao về mặt
lý-sinh học, kỹ thuật và xã hội tỏ ra là một vốn q vì chúng cho phép có thể
thích ứng với các mơi trường ln thay đổi. Tính đa dạng biến đổi tuỳ theo
các cấp độ khác nhau: (i) nông hộ: phân loại hộ, (ii) thôn bản: phân loại các
hệ thống nông nghiệp - sinh thái cấp thôn bản, (iii) cấp vùng: khái quát đặc
điểm các hệ thống nông nghiệp. Tại các cấp độ khác nhau, chúng tôi đưa ra
giả thuyết rằng sự đa dạng cho phép phản ánh động thái các hệ thống sản
xuất ở các giai đoạn khác nhau trong nhiều hướng phát triển và rằng các dữ
liệu địa lý có thể hỗ trợ cho việc tái hiện lịch sử nơng nghiệp. Nói cách khác,
sự khơng đồng nhất cao được phân tích như là kết quả tổng hợp của các quỹ
đạo phát triển khác nhau ở các địa phương. Việc xây dựng mơ hình phân loại
các hệ thống nông nghiệp - sinh thái cấp thôn bản không những cho phép
phân tích sự đa dạng của các phương thức khai thác mơi trường ở cấp vùng
mà cịn làm rõ sự tiến triển của các phương thức này. Các phân loại nêu trên
là một phương tiện thích hợp để nghiên cứu cách thức phát triển, sự mở rộng
trong không gian và động thái của các hệ thống nông nghiệp.
Chuyển đổi cấp độ từ giải thửa đến cấp vùng. Sự bền vững, khả năng tái
sản xuất của một hệ thống nơng nghiệp phụ thuộc vào sự tương thích giữa
các phương thức quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên ở các cấp độ khác
nhau. Sự không thống nhất trong quản lý giữa các cấp độ là một trong những
nguyên nhân của phần lớn những thất bại trong quản lý nguồn tài nguyên
thiên nhiên. Vì thế, khi nghiên cứu sự bền vững của các hệ sinh thái-nơng
nghiệp cấp thơn cần phải tính đến các quá trình tự nhiên, các động thái xã
hội và quản lý tài nguyên ở các cấp độ cao hơn và thấp hơn cấp độ được
nghiên cứu: thôn bản hoặc tiểu lưu vực. Cũng cần phải thiết lập các mối
quan hệ giữa những cấp độ phân tích này bằng những phương pháp chuyển
đổi cấp độ khác nhau (các chỉ số, hệ thông tin địa lý đa cấp độ, v.v.).
5
Tiếp cận hệ thống và liên ngành. Việc phân tích các mối quan hệ giữa môi
trường lý-sinh và kinh tế-xã hội luôn biến đổi buộc chúng tôi phải phối hợp
nghiên cứu nhiều thành phần của một hệ thống phức tạp. Với việc sử dụng
tiếp cận hệ thống, chúng tôi liên kết thông tin từ những chuyên ngành khác
nhau (sinh thái học, thống kê sinh học, kinh tế xã hội, địa lý, v.v.), nhằm đạt
tới một sự hiểu biết toàn diện về các q trình đang diễn ra. Mơ hình hố đa
cấp độ đã được sử dụng để mô tả sự vận hành của hệ thống nông nghiệp -
sinh thái cấp thôn bản và đặc biệt là mối tương tác giữa hoạt động nông
nghiệp với bảo vệ tài nguyên rừng.
Các mô hình đa tác nhân là cơng cụ chuyển đổi cấp độ. Thực vậy, trên một
cấp độ tổ chức nào đó, chúng cho phép quan sát kết quả tổng hợp của các
tương tác giữa các tác nhân ở cấp thấp hơn. Dạng mơ hình này sẽ hỗ trợ cho
sự hợp tác giữa các chuyên gia thuộc những chuyên ngành khác nhau khi
cùng đề cập đến một thực tế. Do đó, cơng cụ này sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động nghiên cứu liên ngành. Hơn nữa, khơng khí làm việc thoải
mái cho phép thảo luận cởi mở với các tác nhân phát triển về hệ thống. Mơ
hình được sử dụng như một phịng thí nghiệm ảo để thử nghiệm với tác nhân
địa phương các kịch bản phát triển khác nhau và xác định các cải tiến về tổ
chức để kết hợp với các tiến bộ kỹ thuật. Trị chơi đóng vai, vốn được hình
thành từ các mơ hình tin học, sẽ dần được kết hợp với các phương pháp điều
tra nhanh để làm sáng tỏ vấn đề xung đột giữa các nhóm tác nhân mà nếu
dùng các phương pháp điều tra truyền thống thì khó phát hiện được (Boissau
và cộng sự, 2001; Castella và cộng sự, 2001).
Hướng tiếp cận coi con người là trung tâm nhằm tập trung vào những mối
quan hệ qua lại giữa người dân địa phương và môi trường tự nhiên, xã hội
xung quanh họ. Để làm được điều này, nhà nghiên cứu phải dành rất nhiều
thời gian ở thực địa, sống chung và chia sẻ kinh nghiệm với người dân địa
phương. Bằng cách này, chúng tôi có thể gây được lịng tin với người dân
địa phương, một bước quan trọng trong việc thực hiện những cuộc đối thoại
trung thực giữa nhà nghiên cứu với những người tham gia vào q trình phát
triển.
1.3 Khn khổ nghiên cứu
Khn khổ nghiên cứu của chúng tôi chịu ảnh hưởng bởi cả những vấn đề
liên quan tới phương pháp luận trình bày ở phần trên và các cơ chế đối tác
được thoả thuận từ năm 1998.
6
Một cách tiếp cận mới trong việc chuyển đổi cấp độ
Nghiên cứu chúng tôi bao gồm ba giai đoạn như mơ tả trong Hình 1.
A. Nghiên cứu chun khảo. Những nghiên cứu này được thực hiện ở sáu
huyện của tỉnh Bắc Kạn, bao gồm bốn bước, được thực hiện trong khoảng
hơn một năm:
• Đầu tiên, phân vùng sinh thái-nơng nghiệp của một huyện dựa trên các
đặc điểm của sự đa dạng về điều kiện tự nhiên và nhân văn, để từ đó chọn
một xã mang tính đại diện nhất cho những đặc trưng chính đã được xác
định của vùng. Công việc này dựa trên sự phân tích các bản đồ và các số
liệu thống kê và trên các cuộc phỏng vấn nhanh có sự tham gia.
11..NNhhữữnngg nngghhiiêênn ccứứuu 22..NNhhữữnngg nngghhiiêênn ccứứuu
cchhuuyyêênn kkhhảảoo đđịịaa pphhưươơnngg ccấấpp vvùùnngg
Phạm vi khơng gian rộng
Phạm vi khơng gian hẹp
Đặc trưng hố Biểu diễn trạng thái
các quá trình môi trường và tài
của hệ sinh thái nguyên. Giá trị của
nông nghiệp chỉ số tại thời điểm t
33..CChhuuyyểểnn đđổổii
ccấấpp đđộộ
Kết hợp tiếp cận hệ thống
cấp địa phương (A) và tiếp
cận địa lý vùng (B).
Hình 1. Chuyển đổi cấp độ : quá trình kết hợp giữa phân tích hệ thống cấp
địa phương và biểu diễn địa lý cấp vùng
7
• Sau đó, các sinh viên Việt Nam và nước ngoài đến nghiên cứu trực tiếp
tại địa bàn (từ 5-7 tháng) và tái hiện lịch sử nông nghiệp của xã nhờ các
cuộc phỏng vấn những người có trình độ hiểu biết về lịch sử và địa lý của
vùng. Dựa vào đó, chúng tơi xác định những động lực chính của những
biến đổi ở địa phương cũng như những yếu tố dẫn đến sự phân hóa nơng
hộ.
• Tiếp theo, lấy mẫu những nơng hộ mang tính đại diện (khoảng 50 hộ một
xã) để thực hiện những cuộc phỏng vấn sâu. Qua 2 hoặc 3 lần tới thăm,
chúng tôi xây dựng lại (cùng với chủ hộ và/hoặc vợ chủ hộ) lịch sử của
hộ đó, các chiến lược sản xuất và sự tiến triển của chúng theo thời gian,
hoạt động của các hệ thống trồng trọt và chăn nuôi, các nguồn thu nhập
phi nơng nghiệp, và sự hội nhập của gia đình trong cộng đồng thôn bản,
xã và nhiều chủ đề khác.
• Cuối cùng, chúng tơi tổng hợp những thơng tin điều tra nhằm phân tích
các xu hướng phát triển của hệ thống nông nghiệp và sự phân hóa nơng
hộ. Các thơng tin thực địa này được kết hợp với dữ liệu địa lý thu được từ
việc giải đoán ảnh hàng không tại một số thời điểm. Các bản đồ sử dụng
đất với tỷ lệ 1:25.000 đã được thiết lập cho từng xã tại các giai đoạn quan
trọng: thường là năm 1954, thời kỳ trước hợp tác xã; năm 1977, thời kỳ
trong hợp tác xã; và năm 1998, thời kỳ sau hợp tác xã. Với một số xã,
chúng tôi cũng đã xây dựng bản đồ từ ảnh vệ tinh SPOT chụp các năm
1990, 1995 và 1998 để tái hiện các động thái nông nghiệp - sinh thái
trong thời kỳ đổi mới. Các bản đồ cho phép khẳng định những quá trình
đã được miêu tả trong các cuộc phỏng vấn, đánh giá tầm ảnh hưởng và
xác định tác động về mặt sinh thái của chúng, đặc biệt là những thay đổi
ở các khu vực có rừng.
B. Tiếp cận địa lý vùng. Trong quá trình nghiên cứu, Chương trình SAM
được thừa hưởng kết quả của một dự án được thực hiện trước đó ở tỉnh Bắc
Kạn, đặc biệt là một cơ sở dữ liệu địa lý gồm khoảng hai mươi lớp thông tin
lý-sinh học (địa chất, thủy văn, thổ nhưỡng, địa hình, khí hậu, v.v.) (Brabant
và cộng sự, 1999). Chúng tôi bổ sung vào cơ sở dữ liệu địa lý (GIS) này các
dữ liệu kinh tế-xã hội thu được từ các cuộc điều tra, từ số liệu thống kê của
tỉnh (dân số, dân tộc, tỷ lệ nghèo đói, khả năng tiếp cận, v.v.) và bản đồ sử
dụng đất các năm 1990, 1995 và 1998. Thông tin địa lý thu được ở cấp vùng
chủ yếu mang tính mô tả và tách rời (trạng thái của một biến số tại thời điểm
t). Thông tin này, được sắp xếp trong các lớp khác nhau của hệ thông tin địa
lý, phải được xử lý bằng cách thiết lập mối tương quan giữa các dữ liệu định
lượng và định tính do giai đoạn trước tạo ra.
C. Chuyển đổi cấp độ được thực hiện nhờ sự kết hợp giữa hợp phần hệ thống
nông nghiệp cấp địa phương (A) và hợp phần địa lý cấp vùng (B). Để khái
quát hóa các dữ liệu ra một vùng lớn hơn, chúng tôi dựa trên những chỉ số
mà có thể xác định được ở cấp vùng thông qua viễn thám và GIS. Những chỉ
số đã được kiểm tra và xác nhận trong phân tích các hệ sinh thái-nông
8
nghiệp thôn bản cho thấy ở cấp độ lớn hơn cũng xảy ra các q trình giống
như chúng tơi đã quan sát thấy ở địa phương.
Việc phân tích so sánh các điểm nghiên cứu khác nhau cho phép áp dụng
những kết quả nghiên cứu ở cấp độ thôn bản ra phạm vi địa lý rộng lớn hơn
(huyện, tỉnh), mà vẫn khơng bỏ qua tính khơng đồng nhất nội tại của chúng.
Sau đó chúng tơi sử dụng các phương pháp dựa trên GIS, các cơng cụ mơ
hình hóa đa tác nhân và trị chơi đóng vai (Castella và cộng sự, 2001) để
kiểm nghiệm những chỉ số được thiết lập trong các giai đoạn trước đó. Giai
đoạn kiểm nghiệm của nghiên cứu này vẫn đang trong q trình thực hiện
nên khơng được trình bày kỹ ở đây nhưng chúng vẫn được đề cập đến vì đó
là tổ hợp của các phương pháp nêu trên. Bước cuối cùng này sẽ xác nhận
rằng (i) những chỉ số đã được lựa chọn có ý nghĩa cho cả các thành viên địa
phương và vùng trong quá trình phát triển nơng thơn, và (ii) có ích trong việc
đi từ nghiên cứu tới các hoạt động phát triển.
Mối tương tác chặt chẽ giữa chẩn đoán và hành động
Trong bối cảnh ô thi đua cải tiến ằ đặc thù được miêu tả ở trên, bước chẩn
đốn khơng được phép kéo dài quá lâu. Sức ép không chỉ đè nặng lên người
nơng dân để thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của bối cảnh sản
xuất mà nó cịn tác động đến các nhà nghiên cứu trong việc khẩn trương đề
xuất những hướng đi hứa hẹn. Công việc nghiên cứu tại đây bị hối thúc
mạnh hơn so với các vùng khác của Việt Nam và trên thế giới để vừa có thể
phổ biến nhanh nhất các kết quả lại vừa có đủ thời gian để kiểm chứng nhằm
tránh những tác động tiêu cực mà giới khoa học chưa kịp tính toán hết. Các
hoạt động nghiên cứu thực địa sẽ trở nên vơ ích nếu chúng chỉ dừng lại ở
bước chẩn đốn mà khơng đưa ra được kết quả và giải pháp cụ thể. Chính vì
thế chúng tơi đã quyết định chọn phương pháp nghiên cứu - hành động.
Phương pháp này đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ với các dự án nghiên cứu và
đối tác phát triển khác (Castella và cộng sự, 2001a ; Castella và cộng sự,
2002). Dựa trên cơ sở các vấn đề đã được xác định và phân cấp nhờ khâu
chẩn đốn được trình bày ở trên, chúng tôi đã lựa chọn và thử nghiệm một số
tiến bộ kỹ thuật cùng với các tổ chức nghiên cứu - phát triển hoạt động ở
Bắc Kạn và cơ quan khuyến nông (Bal và cộng sự, 2000 ; Husson và cộng
sự, 2000). Đổi lại, kết quả thu được sẽ được các đối tác của chúng tôi sử
dụng để định hướng các hoạt động của họ và mở rộng chúng ra tồn tỉnh. Sự
hợp tác tạo ra một khơng khí tin tưởng, thuận lợi cho các trao đổi liên ngành
và giữa các tổ chức. Trong bài này, chúng tơi khơng trình bày các hoạt động
phát triển được tiến hành theo cơ chế đối tác với các dự án khác, chúng được
giới thiệu kỹ trong các bài viết khác (Bal và cộng sự, 2000). Tuy nhiên,
chúng tôi cũng xin ghi nhận rằng khn khổ thể chế trong chương trình
nghiên cứu của chúng tôi đã quyết định cho sự thành công trong bước chẩn
đốn. Thực vậy, nó đặt nhà nghiên cứu vào vị trí cầu nối giữa các tác nhân
phát triển cấp địa phương, cấp vùng với những người quyết sách. Chính
9
những người này sẽ đảm bảo cho việc áp dụng các kết quả nghiên cứu và tác
động thực sự, cụ thể tới sự phát triển (Castella và cộng sự, 1999). Ngược lại,
kinh nghiệm chỉ ra rằng các hoạt động phát triển cũng góp phần làm phong
phú sự chẩn đốn trong mối quan hệ tương hỗ (Castella và cộng sự, 2002).
Quy trình lựa chọn điểm nghiên cứu
Một trong những tiêu chí then chốt trong tiếp cận nghiên cứu- tác động là
các tác nhân địa phương phải cùng nhận thức về một vấn đề chung. Nhận
thức này bảo đảm sự cam kết và sự tham gia tích cực của họ vào các hoạt
động của dự án. Vai trò của nhà nghiên cứu là làm sáng tỏ các khía cạnh của
vấn đề ở các cấp độ từ các quan điểm khác nhau. Vì lý do này, chúng tôi
chọn các điểm nghiên cứu xuất phát từ quan điểm hướng tới các vấn đề cụ
thể.
Các cơ quan đối tác của Chương trình SAM đã lựa chọn tỉnh Bắc Kạn trong
số nhiều tỉnh miền núi khác ở phía bắc Việt Nam dựa trên các tiêu chí sau:
• Kinh tế-xã hội: Tỉnh Bắc Kạn được xếp là một trong những tỉnh nghèo
nhất Việt Nam. Tỉnh nằm giữa Thái Nguyên (ở phía nam), một tỉnh được
hưởng lợi nhiều nhờ ở gần các vùng châu thổ và Cao Bằng (ở phía bắc)
có nhiều nguồn lợi kinh tế do có chung biên giới với Trung Quốc (trao
đổi buôn bán). Do các hoạt động công nghiệp và thương mại không phát
triển, nên nông dân Bắc Kạn chủ yếu sống dựa vào nền nông nghiệp tự
túc. Vì lý do đó, tỉnh là đối tượng quan tâm của các chương trình quốc
gia và quốc tế với mục đích phát triển nơng thơn và xố đói giảm nghèo.
• Sinh thái: Do hệ thống canh tác nương rẫy vẫn còn phổ biến, các nguy cơ
về môi trường gắn liền với tập quán này, áp lực dân số gia tăng và nguồn
tài nguyên đã suy thoái trầm trọng nên Bắc Kạn là một trong những điểm
thu hút sự quan tâm đặc biệt của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nơng
thơn.
• Chính trị: Do tỉnh mới được tái lập năm 1997, nên lãnh đạo tỉnh có mối
quan tâm lớn tới những nghiên cứu liên quan đến thực trạng của tỉnh, để
lấy đó làm cơ sở điều chỉnh các chính sách về nơng nghiệp và mơi trường
cho phù hợp với hồn cảnh của tỉnh.
• Tổ chức thực hiện: Bắc Kạn là một điểm thích hợp cho dự án nghiên cứu
của chúng tơi vì có nhiều dự án khác đang làm việc ở đây. Cùng với họ,
chúng tơi có thể tạo ra các mối quan hệ hợp tác. Việc có sẵn một cơ sở dữ
liệu địa lý như đã nói đến ở phần trước (Brabant và cộng sự, 1999) tạo
điều kiện thuận lợi cho việc lựa chọn các điểm nghiên cứu trong tỉnh.
Hiện tại và q khứ là hai yếu tố đóng vai trị đáng kể trong việc lựa chọn
điểm nghiên cứu trong tỉnh Bắc Kạn. Các phân tích lịch sử địi hỏi những
điểm được chọn để nghiên cứu cần có đầy đủ các dữ liệu lịch sử. Trong khi
đó, các phân tích hiện trạng yêu cầu những điểm nghiên cứu phải thể hiện
được giai đoạn hiện nay trong quá trình phát triển của chúng (hội nhập thị
10
trường, cơ sở hạ tầng, di cư ra các đô thị, v.v.). Để đáp ứng được cả hai yêu
cầu này, chúng tơi chọn những điểm nghiên cứu sao cho có thể bao quát
được sự đa dạng của vùng theo hai hướng sau: sự đa dạng sinh thái-nông
nghiệp và các mức độ hội nhập thị trường khác nhau (Castella và cộng sự,
1999). Trước khi chọn các xã điểm, chúng tôi đã nghiên cứu các yếu tố biến
đổi theo hai hướng trên. Nghiên cứu tập trung trên sự phân vùng nông
nghiệp - sinh thái, được thực hiện từ hệ thông tin địa lý của tỉnh và điều tra
nhanh có sự tham gia trong mỗi huyện. Vì thế, các điểm được lựa chọn bao
quát sự đa dạng cao của các phương thức sản xuất nơng nghiệp tại mỗi
huyện (Hình 2).
Cuối cùng, chúng tơi liên hệ các kết quả nghiên cứu của mình với kết quả
của các dự án đối tác tại tỉnh Bắc Kạn để đồng thời so sánh theo các hướng
tiếp cận chuyên ngành và xác định tính đại diện của các nghiên cứu của
chúng tơi (Hình 2).
Ranh giới xã
Ranh giới huyện
Điểm nghiên cứu của Chương trình
Điểm nghiên cứu của các dự án đối tác
Hình 2. Bản đồ tỉnh Bắc Kạn và các điểm nghiên cứu
11
2. Kết quả đạt được
2.1 Giới thiệu tỉnh Bắc Kạn
Bắc Kạn là một tỉnh miền núi ở phía bắc Việt Nam, nằm ở 21048’-22044’ vĩ
độ Bắc và 105026’-106014’40” kinh độ Đơng. Một số con sơng bắt nguồn từ
tỉnh này đóng vai trò quan trọng về mặt sinh thái đối với các tỉnh ở hạ lưu, ví
dụ như tỉnh Thái Nguyên.
Đặc điểm khí hậu của vùng là cận nhiệt đới miền núi, với lượng mưa trung
bình hàng năm là 1.500 mm. Đó là khí hậu gió mùa được đặc trưng bởi hai
mùa rõ rệt (Hình 3) và chúng ảnh hưởng nhiều tới các hoạt động sản xuất
nông nghiệp (Bal và cộng sự, 1997).
Mùa mưa, nóng kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9. Lượng mưa lớn nhất rơi vào
tháng 7, trung bình là 263 mm. Lượng mưa mùa này chiếm 82% lượng mưa
cả năm. Nhiệt độ biến động từ 22,90C đến 27,30C.
Lượng mưa (mm) Nhiệt độ (°C)
300 35
250 30
200 25
20
150
15
100
10
50 5
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 0
Tỷ lệ bốc hơi nước Phân tích xác suất 20%
Lượng mưa trung b×nh Nhiệt độ tối đa
Phân tích xác suất 80% Nhiệt độ tối thiểu
Phân tích xác suất 50%
Hình 3. Dữ liệu khí tượng tỉnh Bắc Kạn (1985-1995)
12
Mùa khô, lạnh kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung
bình hàng tháng trong mùa này dao động từ 13,0 (tháng 12) đến 70,5 mm, và
nhiệt độ trung bình là 180C. Nhiệt độ mùa đơng có thể giảm đột ngột, gây ra
sương muối. Nhiệt độ thấp nhất là 2,20C vào tháng giêng.
Với tổng số 122 xã, tỉnh Bắc Kạn được chia thành 6 huyện (Bạch Thơng,
Chợ Mới, Na Rì, Ngân Sơn, Ba Bể, Chợ Đồn) và một thị xã là thị xã Bắc
Kạn (Hình 2). Tổng diện tích đất tự nhiên tồn tỉnh là 4.857 km2, dân số năm
2000 là 281.872 người; mật độ dân số 58 người/km2. Từ năm 1991 đến năm
2000, dân số trong tỉnh gia tăng với tỷ lệ 2,2% một năm và có xu thế giảm
nhẹ trong các năm gần đây: từ năm 1999-2000, tỷ lệ này chỉ còn 1,5%. Theo
cuộc điều tra dân số năm 1999, có năm nhóm dân tộc chính sống ở tỉnh Bắc
Kạn: người Tày (55%), người Dao (17%), người Kinh (13%), người Nùng
(9%), và người H’mông (5%). Các dân tộc khác (Sán Chay, Hoa, v.v.) chiếm
gần 1% dân số tỉnh.
Dân cư trong tỉnh được chia thành hai nhóm chính:
- Người Tày, Nùng và Kinh sống ở thị xã Bắc Kạn, thị trấn các huyện và dọc
theo các tuyến giao thơng chính, gần sơng suối. Họ chủ yếu canh tác lúa
nước. Do có khả năng tiếp cận và hội nhập thị trường tốt nên họ có thể tiêu
thụ được phần lớn nông sản (chè, rau quả, mật ong, vật nuôi...) và lâm sản
(gỗ, măng...) của mình.
- Số dân cư cịn lại (Dao, H’mơng, Sán Chay, v.v.) sống ở các vùng sâu,
vùng xa khó tiếp cận và có rất ít đất ruộng để trồng lúa nước. Những nơng
dân này thường sống dựa vào các hệ thống canh tác nương rẫy trên diện
tích rộng, nhưng năng suất dễ bị ảnh hưởng bởi sự bất thường của thời tiết.
Hiện nay, phần lớn các cộng đồng dân cư này đã định canh, định cư.
Từ thời kỳ thực dân cho đến năm 1965, tỉnh Bắc Kạn đã từng tồn tại. Năm
1976, tỉnh được chia làm hai: các huyện ở phía nam được hợp nhất với tỉnh
Thái Nguyên để thành lập tỉnh Bắc Thái còn hai huyện ở phía bắc (Ngân Sơn
và Ba Bể) được sát nhập vào tỉnh Cao Bằng. Năm 1997, tỉnh Bắc Kạn được
tái lập với địa giới tương tự như thời kỳ thực dân. Đây cũng là một trong
những tỉnh nghèo nhất miền Bắc Việt Nam vì trong suốt thời kỳ hợp nhất
với Thái Nguyên, các huyện thuộc Bắc Kạn cũ gặp nhiều bất lợi hơn so với
các huyện khác do có hệ thống giao thông kém phát triển.
Nền nông nghiệp tự túc ở tỉnh Bắc Kạn dựa chủ yếu vào canh tác lúa nước
với diện tích chiếm 2,6% diện tích tự nhiên của tỉnh nằm ở một số ít các
thung lũng. Những cây trồng quan trọng khác trong tỉnh là ngô (21.000 ha
năm 2000) và sắn (26.700 ha), thường không được đem bán mà chủ yếu
dùng cho chăn ni. Cây hàng hóa, mặc dù có diện tích canh tác nhỏ nhưng
lại là những khoản thu nhập đáng kể của nông dân, bao gồm đậu tương
(1.080 ha), mía (460 ha), lạc (400 ha) và thuốc lá (175 ha). Ngoài ra, chăn
13
ni đại gia súc (trâu và bị) có xu hướng ổn định hoặc giảm trong những
năm gần đây do vấn đề quản lý chăn nuôi: nguồn thức ăn khan hiếm, trình
trạng phá hoại cây trồng, dịch bệnh v.v. (Eguienta và cộng sự, 2002). Cuối
cùng, việc trồng cây lâu năm (cây ăn quả và cây lấy gỗ) cũng đã phát triển
nhanh trong những năm gần đây do có các dự án trồng rừng nhưng người
dân cũng phải đối mặt với sự hạn chế trong các loại cây và sự thất thường
của thị trường. Sản xuất nơng nghiệp chiếm 58% GDP tồn tỉnh, trong khi
dịch vụ chiếm 31%, công nghiệp và xây dựng chiếm 11%. Phần lớn hai
ngành này vẫn thuộc lĩnh vực Nhà nước. GDP của tỉnh Bắc Kạn đã tăng gần
60% trong khoảng thời gian từ 1996-2000 nhờ phát triển nông nghiệp và đầu
tư xây dựng tăng gấp đôi trong thời gian này. Tuy nhiên, ngân sách của tỉnh
vẫn bị thâm hụt lớn và phải nhờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước (Chi cục Thống
kê Bắc Kạn, 2001).
Những người được hưởng lợi chính từ sự phát triển của xây dựng và dịch vụ
là các hộ ở thành thị, chiếm 14% số hộ trong tỉnh, trong khi đa số các gia
đình nghèo nhất lại sống ở các vùng nơng thơn. Sự phát triển trong nông
nghiệp đã khiến cho tỷ lệ đói nghèo giảm từ 29% xuống 17% trong giai đoạn
1998-2000. Những nghiên cứu cấp xã và thôn của chúng tôi đã tìm ra các cơ
chế đằng sau những thay đổi kinh tế vĩ mô này.
2.2 Tiếp cận hệ thống : những động lực biến đổi chính trong
thời kỳ đổi mới
Sự phát triển của các hệ thống nơng nghiệp có thể được diễn giải như là sự
kế thừa của bốn phương thức khai thác môi trường:
A. Trước năm 1954, phương thức khai thác hệ sinh thái mang đặc trưng ít
thâm canh: ruộng lúa một vụ, canh tác phát nương - làm rẫy trên đất dốc
với chu kỳ bỏ hoá dài. Hệ thống nông nghiệp được đặc trưng bởi sự độc
tôn khai thác phần đất ruộng của người Tày, còn người Dao khai thác đất
dốc.
B. Trong thời kỳ hợp tác xã, đất ruộng được thâm canh nhờ những tiến bộ
kỹ thuật của cuộc cách mạng Xanh, trong khi canh tác trên đất dốc bị
cấm. Người Dao chuyển đến sống ở các vùng thung lũng để tham gia hợp
tác xã cùng với người Tày. Hệ thống nông nghiệp tập trung trên đất ruộng
và được đặc trưng bởi mức độ sử dụng thấp tiềm năng của tài nguyên
rừng so với trữ lượng của mơi trường cũng như nguồn nhân cơng sẵn có.
Rừng được tái sinh đáng kể.
C. Khi dân số tăng, sản lượng nơng nghiệp tính theo đầu người khơng còn
đủ đáp ứng nhu cầu lương thực nữa, trong khi đó mơi trường chưa được
khai thác hết tiềm năng. Nguồn tài nguyên thiên nhiên được bảo vệ trong
khi tình hình lương thực của người dân khơng được đảm bảo. Điều đó tạo
ra tình trạng bất ổn của hệ thống hợp tác xã và hệ thống này bị giải tán
dần dần với việc áp dụng ba chính sách cải cách trong vịng 8 năm. Từ
năm 1982 đến năm 1990, người dân đua nhau khai thác cạn kiệt tài
14
nguyên rừng. Nạn phá rừng hàng loạt này có thể được lý giải bởi (i) tình
trạng thiếu đói của người dân, (ii) hiệu suất cao của đất dốc so với đất
ruộng do hợp tác xã quản lý, (iii) chiến lược chiếm hữu đất dốc.
D. Từ năm 1990, quyền sử dụng đất ruộng của người Tày đi vào ổn định.
Điều này khuyến khích họ tăng cường đầu tư lao động vào trồng lúa nước
và sản lượng đã tăng nhanh chóng. Ngồi ra, họ cịn đầu tư trung và dài
hạn trên đất dốc với các mơ hình nơng-lâm kết hợp. Tuy nhiên, việc
người Tày lấy lại ruộng “ông cha” đã khiến cho các nhóm dân tộc khác bị
gạt ra khỏi tư liệu sản xuất quan trọng mà họ đã gắn bó hơn 20 năm trong
thời kỳ hợp tác xã. Họ buộc phải quay lại phương thức phát nương - làm
rẫy mà giờ đây khơng cịn bền vững nữa do sức ép dân số và sự suy thoái
tài nguyên rừng từ giai đoạn trước đó. Chính sách giao đất rừng đã chặn
đứng nạn phá rừng nhưng cũng khiến cho các hệ thống canh tác nương
rẫy lâm vào thế bế tắc vì người dân khơng được khai thác ngồi diện tích
đã được giao cho họ. Họ rơi vào hồn cảnh nghèo khó trong khi những
điều kiện nông nghiệp - sinh thái cũng như kinh tế - xã hội của các bản
người Tày lại được cải thiện rõ rệt trong thập kỷ qua.
Những biến động trên không chỉ xảy ra ở tỉnh Bắc Kạn mà chúng còn tác
động đến tồn bộ các vùng núi phía bắc Việt Nam. Từ những hiện tượng
thường thấy ở tỉnh Bắc Kạn và các tỉnh lân cận, chúng tôi rút ra 3 động lực
thay đổi chính:
• sức ép dân số dẫn đến sự khan hiếm (so với số nông hộ) các nguồn tài
nguyên phục vụ sản xuất,
• sự thay đổi các quy tắc sử dụng tài nguyên của các gia đình, đặc biệt là tài
nguyên đất đai,
• q trình hội nhập với thị trường.
Các hệ thống sản xuất tiến triển và có sự phân hố giữa các nông hộ dưới tác
động của 3 nhân tố trên tuỳ theo đặc điểm nội tại của mỗi gia đình. Chúng
tơi nhóm các đặc điểm này thành 2 chỉ số :
• Số lao động so với số nhân khẩu của gia đình, mà chúng ta có thể gắn với
các giai đoạn trong vòng đời của các gia đình. Trong thời kỳ trước hợp
tác xã và trong cuộc “chạy đua phát nương” từ năm 1982 đến năm 1986,
khả năng sản xuất của nông hộ phụ thuộc trực tiếp vào nhân tố này vì
chưa có cơ giới hố.
• Diện tích đất ruộng được thừa kế với các gia đình người Tày: họ đã đóng
góp ruộng vào hợp tác xã trong những năm 1960 và lấy lại vào đầu
những năm 1990. Sự kiện này rất phổ biến trong toàn tỉnh Bắc Kạn (cũng
như tỉnh Cao Bằng và các tỉnh có người Tày chiếm đa số) nhưng nó lại
khơng có giá trị ở miền Tây Bắc Việt Nam, nơi không hề có hiện tượng
địi lại đất ruộng của tổ tiên sau khi giải thể hợp tác xã (Đào Minh
Trường và Sikor, 2000). Tâm điểm của hệ thống sản xuất nông nghiệp là
15
hoạt động trồng lúa nước, diện tích đất ruộng của một gia đình là yếu tố
quyết định các chiến lược sản xuất của họ (Erout và Castella, 2001).
Các con đường phát triển trong hệ thống nông nghiệp - sinh thái cấp thôn
bản hoặc của nông hộ là kết quả của sự kết hợp giữa các ô xu thế chung ằ
với các ô đặc điểm nội tại ằ của mỗi gia đình như đã trình bày ở trên. Chúng
được áp dụng cho các hoàn cảnh địa phương khác nhau ở miền núi. Từ một
số lượng hạn chế các biến số, chúng tôi xin khái quát đặc điểm sự đa dạng
mang tính địa phương như sau :
• Đặc điểm tự nhiên, chúng quyết định kích thước các đơn vị cảnh quan
khác nhau và số lượng (diện tích đất ruộng, đất chân dốc thích hợp cho
hoạt động thâm canh cây trồng, v.v.) cũng như chất lượng các nguồn tài
nguyên (khả năng tiếp cận nguồn nước tưới để chuyển sang 2 vụ lúa,
trạng thái độ che phủ rừng, v.v.),
• Chính sách phát triển của địa phương và các hoạt động can thiệp của Nhà
nước ảnh hưởng tới quyền sử dụng tài nguyên của các gia đình : các quy
tắc giao đất dốc hoặc quản lý chăn nuôi của địa phương, khoanh nuôi các
khu rừng, thực hiện các chương trình trồng rừng và/hoặc phát triển, v.v.
• Khả năng tiếp cận là mối liên hệ giữa các khía cạnh tự nhiên và các khía
cạnh kinh tế-xã hội của hai điểm nêu trên. Khi đã xác định được khả năng
sản xuất của nông hộ (nhân cơng, diện tích ruộng) thì khả năng tiếp cận
sẽ quyết định khả năng thích ứng với các biến đổi của họ. Khả năng tiếp
cận tốt sẽ (i) cung cấp đầu ra cho các nông sản, điều này cho phép nông
dân thoát khỏi chiến lược tự cung tự cấp và mở cửa ra thị trường, (ii) tạo
ra cơ hội mới để tăng nguồn thu phi nông nghiệp và tạo điều kiện thuận
lợi cho việc đa dạng hoá các hoạt động của hộ, (iii) tăng thêm cơ hội
được hưởng lợi từ các dự án phát triển và tiếp cận với thông tin kỹ thuật
từ cơ quan khuyến nông, (iv) tạo đà cho sự di cư đến các khu vựa làm ăn
thuận tiện hơn ở trong xã hoặc đến các tỉnh khác (Alther và cộng sự,
2002). Hiện nay, các gia đình sống ở vùng sâu vùng xa nhất là những
người chịu thiệt thịi nhất nhưng tình hình của họ sẽ nhanh chóng được
cải thiện nhờ các khoản đầu tư lớn của Nhà nước để xây dựng cơ sở hạ
tầng giao thông.
Để đúc kết lại phần này, chúng tôi thấy cần nhấn mạnh rằng những thay đổi
sau khi giải thể hợp tác xã nông nghiệp đã dẫn đến sự cá thể hoá trong quản
lý tài nguyên. Trong một vài năm, công tác quản lý tập thể và tập trung sản
xuất nông nghiệp của hợp tác xã được thay thế bằng quản lý cá thể các hoạt
động của hộ gia đình mà nay là đơn vị sản xuất độc lập. Các vấn đề của hệ
thống hợp tác xã trước kia và sự biến đổi nhanh chóng của thời kỳ chuyển
đổi sau này đã làm cho người nông dân khơng muốn tham gia vào q trình
hợp tác hoặc quản lý tập thể trong thời điểm hiện nay (Trần Trọng Hiếu và
cộng sự, 2002). Tập quán đổi công truyền thống vẫn tồn tại, nhưng khác với
vùng châu thổ nơi có sự liên kết xã hội chặt chẽ giữa các cộng đồng làng xã
trước thời kỳ hợp tác xã, chúng tôi ít thấy các tập quán quản lý tài nguyên
16
mang tính cộng đồng ở các vùng nghiên cứu của mình (Lê Trọng Cúc và
Rambo, 2001 ; Trần Trọng Hiếu và cộng sự, 2002). Các quy tắc mới về quản
lý tài nguyên ở địa phương thường được áp đặt từ trên xuống (từ chính
quyền cấp cao hơn) hoặc là sự phổ biến cùng một tập quán cho tất cả các hộ.
Sự biến đổi của các hệ thống nông nghiệp - sinh thái cấp thôn bản cho tới
cấp tỉnh như được trình bày trên đây là kết quả từ sự thích ứng của các gia
đình với bối cảnh sản xuất của họ và từ đó hình thành nên các quy tắc tại cấp
độ cao hơn. Các điều kiện xã hội và thể chế này sẽ là những yếu tố quan
trọng cần tính đến để xây dựng các chính sách và có các hoạt động can thiệp
thích hợp.
2.3 Tiếp cận chuyên ngành : tác động của các động thái nông
nghiệp tới môi trường và tới các chiến lược của nông dân
Hậu quả của các động thái đã diễn ra với mơi trường đã được phân tích kỹ
trong các tài liệu theo dõi trạng thái rừng. Các giai đoạn suy thoái và tái sinh
rừng được nhận thấy rất rõ trên các công cụ viễn thám và chúng khẳng định
tác động tích cực của chính sách giao đất rừng (Castella và cộng sự, 2002b).
Trên quy mơ tồn tỉnh, các điều kiện môi trường đã được cải thiện đáng kể,
đặc biệt là với các bản người Tày. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số vùng
nhỏ bị suy thoái và chúng tương ứng với các bản khơng có ruộng. Trước
mắt, hệ thống phát nương - làm rẫy vẫn là giải pháp duy nhất cho người dân
của các bản này mặc dù tất cả mọi người đều nhận thức được rằng hệ thống
này khơng cịn bền vững (cả về mặt mơi trường và kinh tế) trong bối cảnh
hiện nay nữa (Husson và cộng sự, 2001). Các cải cách chính sách đất đai đã
củng cố quyền sử dụng truyền thống (trước hợp tác xã) cho một số nhóm dân
tộc (đặc biệt là người Tày, người Nùng) nhưng chúng lại tước bỏ quyền sử
dụng đất ruộng của một số nhóm dân tộc khác (người Dao, người H’mông,
v.v.), điều này buộc họ phải quay lại hệ thống nương rẫy. Trong một vài
năm, nạn phá rừng trước đây rất khó kiểm sốt thì nay đã bị chế ngự, rừng
đã tái sinh trên diện rộng và chỉ cịn lại một số diện tích nhỏ có nguồn tài
ngun bị suy thoái.
Trong khi sự bổ trợ giữa đất ruộng và đất dốc cho phép người dân đa dạng
hoá các hoạt động sản xuất thì đối với những người khơng có ruộng, họ
khơng thể thực hiện dạng chiến lược này (Erout và Castella, 2001). Đó là
trường hợp của người Dao, người H’mơng nhưng cũng là tình cảnh của
những cặp vợ chồng người Tày cịn trẻ, được thừa kế ít ruộng nên không đủ
đảm bảo nhu cầu lương thực của gia đình. Trong bối cảnh khan hiếm nguồn
tài nguyên, điều thiết yếu là phải biết dựa vào sự kết hợp giữa đất ruộng và
đất dốc, và tình đồn kết giữa các hộ để cùng nhau quản lý tốt hơn các nguồn
tài ngun. Hoạt động chăn ni trâu bị (Eguienta và cộng sự, 2002) đã
minh hoạ cho những nguy cơ suy thoái tài nguyên và nguy cơ xung đột do
thiếu sự phối hợp giữa các tác nhân trong cùng một bản. Vào thời điểm phi
tập thể hố, trâu bị được bán rẻ cho các gia đình. Sau đó, số lượng đại gia
súc đã tăng đáng kể : tại một số xã, đàn trâu bị đã tăng gấp đơi trong vịng
17
10 năm, điều này tạo ra một sức ép lớn cho nguồn thức ăn gia súc. Tập quán
thả rông rất phổ biến trong phần lớn thời gian trong năm do thiếu người đi
chăn. Gia súc chủ yếu tìm thức ăn trên đất dốc bỏ hố hoặc trong rừng. Đơi
khi chúng còn phá hoại cây trồng trên đất dốc, rừng trồng và gây ra xích
mích giữa các nhóm dân tộc và/hoặc giữa các gia đình (Castella và cộng sự,
2002a). Thiệt hại do gia súc đã khiến các gia đình có những biện pháp bảo
vệ như đào hào sâu (việc này càng làm trầm trọng hiện tượng xói mịn) và
làm hàng rào. Với những biện pháp như vậy, đất bỏ hoá càng bị nghèo kiệt
do bị nén chặt, chua hoá, nhiễm độc nhơm, v.v. và q trình tái sinh rừng bị
chậm lại (Husson và cộng sự, 2001). Tác động trở lại với chăn ni là rất lớn
vì với việc giao quyền sử dụng đất đai, phần lớn các thửa được bảo vệ, việc
chăn thả quá mức trên các bãi chăn chung đã khiến cho chúng nhanh bị suy
thoái và nguồn thức ăn gia súc bị hạn chế trong mùa đơng. Tình trạng thiếu
thức ăn khiến cho dịch bệnh phát triển vì thế nên năm 1999 và 2000, trâu bò
bị chết hàng loạt.
Song song với các mặt tích cực do các cải cách trong thời kỳ đổi mới đem
lại: môi trường được cải thiện đáng kể, chất lượng sống của người dân được
nâng cao; chúng ta cũng chứng kiến (i) hiện tượng suy thối tài ngun tại
một số địa phương, một số nhóm dân tộc vẫn chưa được hưởng lợi từ Đổi
mới và (ii) sự bất lực của các cộng đồng trong việc phối hợp với nhau để
quản lý tài nguyên tốt hơn và khi dân số tăng, tài nguyên càng trở nên khan
hiếm. Mặt khác, các chính sách nơng nghiệp hoặc mơi trường được áp đặt từ
bên ngồi rất khó có thể thay đổi được các động thái địa phương hoặc chiến
lược cá nhân của mỗi nông hộ. Mặc dù người dân biết rằng tập quán phát
rừng làm rẫy là bị cấm nhưng họ không được cung cấp giải pháp thay thế
nên họ vẫn phải tiếp tục làm để đảm bảo cuộc sống trước mắt (Zingerli và
cộng sự, 2002). Một số giải pháp kỹ thuật và tổ chức đã được thử nghiệm và
một phần trong số chúng đã được người dân áp dụng. Để sâu sát các tiến bộ
này và phổ biến chúng ra quy mơ lớn hơn thì điều cần thiết là các chính sách
phát triển cần phải (i) gắn liền với sự hiểu biết cặn kẽ thực tế các địa phương
và (ii) được xây dựng dựa trên sự tham gia và sự phối hợp của tất cả các tác
nhân tại các cấp độ khác nhau.
3. Kết luận : từ chẩn đoán đến hành động... và
từ hành động đến chẩn đốn
Tác động tích cực của các cải cách trong thời kỳ đổi mới đối với sự phát
triển ở miền núi là điều không thể phủ nhận. Nhưng nếu như chúng đã góp
phần khắc phục nhiều trở ngại thì chúng cũng làm xuất hiện một số vấn đề
mới trong phát triển và trong nghiên cứu. Chúng tôi xin tổng hợp các vấn đề
này theo 3 trục như sau:
18
3.1 Quản lý hiệu quả tài nguyên sẵn có và phục hồi
các nguồn tài nguyên
Công việc nghiên cứu có thể và phải đóng góp vào sự phát triển các tiến bộ
kỹ thuật phù hợp với hệ sinh thái kém bền vững của miền núi. Một số hệ
thống trồng trọt cải tiến trên đất dốc hiện đang được phát triển và thử nghiệm
tại môi trường nông dân ở tỉnh Bắc Kạn bởi Hợp phần Hệ thống cây trồng
thuộc Chương trình SAM (Husson và cộng sự, 2000). Nghiên cứu của chúng
tôi đã cho thấy các nguồn tài nguyên ở miền núi có thể được sử dụng một
cách có hiệu quả hơn thông qua những tiến bộ kỹ thuật sinh thái-nơng
nghiệp (ví dụ như quản lý đất bỏ hóa tốt hơn, gieo hạt trực tiếp trên lớp phủ
thực vật, những cây trồng làm thức ăn gia súc đa năng, v.v.). Các tiến bộ kỹ
thuật này dựa trên các yếu tố chẩn đốn được trình bày ở trên có mục đích
cải thiện các bãi chăn tập thể, tổ chức về mặt không gian các hệ thống chăn
nuôi, v.v. Chúng cho phép những nơng dân khơng có đất ruộng có thể sử
dụng đất dốc hiệu quả hơn, và những nông dân có đất ruộng thâm canh để
đẩy mạnh sản xuất: chuyển sang 2 vụ lúa, trồng hoa màu vụ đông trên ruộng,
v.v. Nhiều dự án và tổ chức đã có những đề xuất kỹ thuật theo chiều hướng
này để giảm sức ép lên đất dốc.
Trong khi những tiến bộ kỹ thuật làm tăng hiệu suất nơng nghiệp một cách
bền vững, thì kinh nghiệm cho thấy rằng việc tiếp nhận tiến bộ kỹ thuật
thường không gắn liền với giá trị nội tại của các kỹ thuật mà bị chi phối bởi
các trở ngại cũng như các cơ hội của mỗi gia đình. Do đó, chúng tơi đã làm
việc theo cơ chế đối tác với các dự án nghiên cứu - phát triển khác trong tỉnh
Bắc Kạn và nhận thấy rằng các tiến bộ kỹ thuật cần phải đi kèm với những
tiến bộ về mặt tổ chức để người nơng dân có thể tìm thấy một (hoặc những)
tiến bộ phù hợp với hồn cảnh của mình (Trần Trọng Hiếu và cộng sự,
2002). Cuối cùng, chúng tôi cũng thấy rằng trong một số trường hợp, trở
ngại cho việc phổ biến các tiến bộ kỹ thuật lại khơng nằm trong q trình
tiếp nhận của các cá nhân mà trong các điều kiện thể chế và xã hội ở thơn
bản (sự kiểm sốt lỏng lẻo đối với việc thả rông gia súc, trồng cây ở các bãi
chăn thả tập thể, nạn trộm cắp, v.v.). Do đó, các trở ngại cho quá trình phổ
biến tiến bộ kỹ thuật phải được nghiên cứu trên cộng đồng thôn bản và các
cấp độ cao hơn.
3.2 Phát triển lợi thế về mặt xã hội để quản lý
nguồn tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng
Cho đến nay, những tiến bộ kỹ thuật mà chúng tôi quan sát được đều là
những sáng kiến cá nhân. Khi các nguồn tài nguyên ngày càng trở nên khan
hiếm thì tất cả các thành viên trong một cộng đồng cần hợp tác với nhau để
tăng sức sản xuất của hệ sinh thái. Các trường hợp thành công trong lĩnh vực
quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng thường rất hiếm trong lịch
sử. Các dự án phát triển thử nghiệm phương thức này cũng chỉ đạt được mục
đích trong thời gian hoạt động của mình (Lê Trọng Cúc và Rambo, 2001).
19
Nếu muốn có kết quả lâu dài, cần phải áp dụng một q trình thích nghi cụ
thể cho từng địa phương sao cho tận dụng được những lợi thế về mặt xã hội.
Cơng việc nghiên cứu có thể hỗ trợ các cộng đồng địa phương và góp phần
đào tạo các nhân viên khuyến nông với những phương pháp khoa học xã hội
(Võ Tòng Xuân và cộng sự, 1999; Castella và cộng sự, 2001).
Nghiên cứu của chúng tôi đã chỉ ra rằng các cải cách trong thời kỳ đổi mới
đã làm cho một số cộng đồng dân cư rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Những
người này có rất ít khả năng lựa chọn trong các hoạt động sản xuất. Các dự
án thường rất khó đến được với họ vì họ ở quá xa (Alther và cộng sự, 2002).
Nghèo nhất trong số những người nghèo, những nơng dân này sẽ chỉ có thể
tự mình phát triển nhờ tình đồn kết của cộng đồng và các ưu đãi xã hội của
địa phương. Sự gắn kết xã hội có thể giúp những thành viên nghèo nhất và
tụt hậu nhất trong cộng đồng cũng được hưởng lợi gián tiếp từ các hoạt động
phát triển và sự phân bố hợp lý hơn các thành quả của sự tăng trưởng.
Sự phát triển trong tương lai sẽ được dựa trên sự phối hợp giữa các tác nhân.
Do đó, tình đồn kết phải vượt qua phạm vi gia đình, chứ không chỉ như
điều đã từng xảy ra từ những năm 1980 khi có sự cạnh tranh chiếm đoạt tài
nguyên sau khi phi tập thể hoá. Viện Khoa học Kỹ thuật Nơng nghiệp Việt
Nam và các đối tác của mình trong Chương trình đồng bằng Sơng Hồng
(VASI-GRET, 2000) đã thử nghiệm một số hình thức tổ chức nơng dân kiểu
mới và thu được kết quả đầy hứa hẹn. Việc thể chế hóa những hình thức này
sẽ góp phần chun nghiệp hố các tác nhân ở nơng thơn, đặc biệt là nơng
dân. Họ sẽ đại diện cho địa phương mình để đề đạt những quan điểm của họ
và trở thành những đối tác thực sự trong q trình hoạch định chính sách
nông nghiệp và thực hiện các dự án phát triển.
3.3 Đa dạng hóa các nguồn thu nhập
Trước mắt, nơng nghiệp vẫn giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển
nơng thơn của tỉnh Bắc Kạn và chính vì thế, ngành này là đối tượng của
nhiều chương trình phát triển nơng thơn và xố đói giảm nghèo. Nơng
nghiệp miền núi luôn kém lợi thế hơn so với vùng đồng bằng cả về mặt hiệu
suất lẫn khả năng tiếp cận với thị trường. Tuy nhiên, cũng như vùng châu thổ
sông Hồng, chỉ riêng ngành nông nghiệp Bắc Kạn sẽ không đủ để nuôi sống
số dân ngày càng gia tăng của tỉnh. Và trong tương lai, các hộ gia đình sẽ
phải tìm kiếm các nguồn thu khác trong các hoạt động phi nông nghiệp.
Chúng tôi nhận thấy khả năng tiếp cận là một yếu tố then chốt cho sự hội
nhập của các vùng sâu vùng xa nhất với kinh tế thị trường. Từ năm 1997,
việc cải tạo cơ sở hạ tầng giao thông và thông tin liên lạc đã và đang là một
trong những ưu tiên hàng đầu của tỉnh Bắc Kạn. Nó đã có tác động đáng kể
đến chất lượng sống của tồn bộ nhân dân và đã chuyển biến tích cực các
điều kiện sản xuất cũng như thương mại hoá sản phẩm. Ngồi ra, nó cũng
tạo đà cho sự di cư để tìm việc làm. Việc phát triển ngành cơng nghiệp nông
20