Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Ghiên Cứu Về Vấn Đề Quan Điểm, Chính Sách, Pháp Luật Của Đảng Và Nhànước Về Dân Tộc Và Chính Sách Dân Tộc Trong Thời Kỳ Quá Độ Lên Cnxh Ở Việt Namhiện Nay.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.7 KB, 13 trang )

lOMoARcPSD|38590726

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
***

BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐỀỀ TÀI: Quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước vềề chính sách dân
tộc trong thời kì quá độ lền CNXH ở Việt Nam.

1. Họ và tên SV: Nguyễn Việt Anh
2. Lớp tín chỉ: Chủ nghĩa xã hội khoa học(222)_15
3. Mã SV: 11216504

GVHD: TS Lê Ngọc Thông

Downloaded by BINH NGUYEN ()

lOMoARcPSD|38590726

HÀ NỘI, NĂM 2023

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................2

1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..................................................2
1.1. Mục đích......................................................................................2
1.2. Nhiệm vụ.....................................................................................2
1.3. Đối tượng.....................................................................................2

2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài.................................................3


Chương 1: Quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước
về dân tộc.................................................................................................3

1. Khái niệm về dân tộc và chính sách dân tộc..................................3
2. Quan điểm của Đảng về dân tộc và chính sách dân tộc................4
3. Chính sách và pháp luật của Nhà nước về dân tộc.......................5
Chương 2: Thực hiện chính sách dân tộc trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam..................................................................6
Chương 3: Giải pháp tăng cường việc thực hiện chính sách dân tộc
trong thời kỳ lên chủ nghĩa xã hội.........................................................7
KẾT LUẬN............................................................................................11
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................12

Downloaded by BINH NGUYEN ()

lOMoARcPSD|38590726

MỞ ĐẦU

1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
1.1. Mục đích

Nắm được quan điểm, chính sách, pháp luật cơ bản của Đảng và Nhà nước về dân
tộc. Thấy rõ được chính sách dân tộc trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam; từ đó
xác định trách nhiệm của bản thân góp phần tuyên truyền và thực hiện chủ trương, chính
sách, pháp luật về dân tộc của Đảng và Nhà nước.
1.2. Nhiệm vụ

Xác định quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về dân tộc: khái
niệm dân tộc và chính sách dân tộc; quan điểm của Đảng về dân tộc và chính sách dân

tộc; chính sách của Nhà nước về dân tộc. Tìm hiểu việc thực hiện chính sách dân tộc
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tìm hiểu giải pháp tăng cường
việc thực hiện chính sách dân tộc trong thời kỳ lên chủ nghĩa xã hội 3. Đối tượng và
phạm vi nghiên cứu
1.3. Đối tượng

Đề tài nghiên cứu về vấn đề quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước về dân tộc và chính sách dân tộc trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
hiện nay.
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài

Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm 54 dân tộc chung sống. Cộng đồng
các dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển cùng với tiền trình lịch sử hàng
ngàn năm dựng nước và giữ nước tạo nên một dân tộc Việt Nam thống nhất. Các dân
tộc ở nước ta sinh sống gắn bó cùng nhau từ lâu đời, đã rất sớm có ý thức đoàn kết,
giúp nhau trong chinh phục thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm và xây dựng đất nước.
Sự đoàn kết gắn bó giữa các cộng đồng dân tộc đã tạo nên một quốc gia đa dân tộc
bền vững, thống nhất. Ngày nay, trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, dưới sự

Downloaded by BINH NGUYEN ()

lOMoARcPSD|38590726

lãnh đạo của Đảng, các dân tộc tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, tăng cường
đoàn kết, nỗ lực phấn đấu xây dựng nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh tiến lên chủ nghĩa xã hội

NỘI DUNG
Chương 1: Quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về


dân tộc

1. Khái niệm về dân tộc và chính sách dân tộc
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân tộc là quá trình phát triển lâu

dài của xã hội lồi người, trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao, bao gồm:
thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc. Sự biến đổi của phương thức sản xuất chính là nguyên
nhân quyết định sự biến đổi của cộng đồng dân tộc. Dân tộc được hiểu theo hai nghĩa
rộng và nghĩa hẹp:

Theo nghĩa rộng, dân tộc là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng người ổn
định làm thành nhân dân một nước, có lãnh thổ riêng, nền kinh tế thống nhất, có ngơn
ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi
chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt
quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, khái niệm dân tộc
dùng để chỉ một quốc gia, nghĩa là toàn bộ nhân dân của một nước.

Ví dụ, dân tộc Ấn Độ, dân tộc Trung Hoa, dân tộc Việt Nam... Theo nghĩa hẹp,
dân tộc là khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng người được hình thành trong lịch sử,
có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có chung ý thức tự giác tộc người, ngơn ngữ và
văn hóa. Cộng đồng này xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc, kế thừa và phát triển cao hơn
những nhân tố tộc người của các cộng đồng đó. Với nghĩa này, dân tộc là một bộ phận
hay thành phần của quốc gia. Chẳng hạn, Việt Nam là quốc gia có 54 dân tộc, tức 54
cộng đồng tộc người. Sự khác nhau giữa các cộng đồng tộc người ấy biểu hiện chủ
yếu ở đặc trưng văn hóa, lối sống, tâm lý, ý thức tộc người. Chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước ta là một hệ thống các chủ trương, giải pháp, nhằm thực hiện
quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc, trong đó có sự
quan tâm đến các dân tộc thiểu số có trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp.

Downloaded by BINH NGUYEN ()


lOMoARcPSD|38590726

2. Quan điểm của Đảng về dân tộc và chính sách dân tộc
Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta

ln xác định vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đồn kết dân tộc có vị trí chiến lược
quan trọng trong cách mạng nước ta. Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng ta đã đề ra các chủ trương,
chính sách dân tộc, với những nội dung cơ bản là: “Bình đẳng, đồn kết, tương trợ
giúp đỡ nhau cùng phát triển”

Chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân tộc từ thời kỳ đổi mới đất
nước đến nay được thể hiện thông qua văn kiện các kỳ đại hội và các chỉ thị, nghị
quyết chuyên đề của Đảng, được ban hành cụ thể trong từng nhiệm kỳ, từng giai đoạn,
với nội dung cơ bản thống nhất, đó là: “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình
đẳng, đồn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau thực hiện thắng lợi sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc. Phát triển
tồn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh -quốc phòng trên địa bàn vùng
dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực
hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị; bản sắc văn hóa
truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng
dân tộc Việt Nam thống nhất”.

Với những nội dung trên, chủ trương, đường lối của Đảng về cơng tác dân tộc
đã mang tính tồn diện trên các lĩnh vực và phủ kín địa bàn vùng dân tộc và miền núi
và luôn được sửa đổi, bổ sung theo từng giai đoạn nhằm phù hợp với sự phát triển
kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc và miền núi cùng với sự phát triển chung của đất nước.

Theo đó, chủ trương, đường lối của Đảng về cơng tác dân tộc trong thời kỳ đổi mới đã
được thể chế hóa trong nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị định, nghị quyết, quyết
định, chỉ thị, thông tư… của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã tiếp tục bổ sung,
phát triển chủ trương đường lối về dân tộc và chính sách dân tộc: “Đồn kết các dân
tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Tiếp tục hồn hiện các
cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tơn trọng, đồn kết, giải quyết hài
hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tọa chuyển biến rõ rệt trong
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các
vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây duyên hải miền Trung. Nâng cao
chất lượng giáo dục - đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội
ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các dân
tộc. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính

Downloaded by BINH NGUYEN ()

lOMoARcPSD|38590726

sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những
âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đồn kết dân tộc”.

3. Chính sách và pháp luật của Nhà nước về dân tộc
Bình đẳng giữa các dân tộc là một nguyên tắc cơ bản có ý nghĩa quan trọng

hàng đầu của chính sách dân tộc về quyền của các dân tộc thiểu số. Các dân tộc không
phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát triển cao hay thấp đều ngang nhau về quyền
lợi và nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội và được bảo đảm
bằng Hiến pháp và pháp luật. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, trước hết là quyền
bình đẳng về chính trị, chống mọi biểu hiện chia rẽ kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi,

dân tộc cực đoan, tự ti dân tộc…Quyền bình đẳng về kinh tế, đảm bảo sự bình đẳng
trong quan hệ lợi ích giữa các dân tộc. Nhà nước có trách nhiệm giúp các dân tộc có
kinh tế chậm phát triển để cùng đạt được trình độ phát triển chung với các dân tộc
khác trong cả nước. Bình đẳng về văn hóa, xã hội bảo đảm cho việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa của các dân tộc, làm phong phú và đa dạng nền văn hóa Việt
Nam thống nhất. Do phần lớn các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay có trình độ phát
triển thấp, vì vậy bên cạnh việc bảo đảm quyền bình đẳng tồn diện về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội cần phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để đồng bào các dân tộc thiểu
số có cơ hội phát triển bình đẳng với các dân tộc khác. Sự quan tâm tương trợ, giúp
đỡ nhau cùng phát triển, đó chính là biểu hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc đặc
trưng nhất ở Việt Nam.

Trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân tộc, chính sách
dân tộc, Quốc hội đã ban hành Hiến pháp năm 2013; Chính phủ đã xây dựng và trình
Quốc hội xem xét, thơng qua hệ thống pháp luật, từ đó góp phần hồn thiện thể chế
chính sách pháp luật liên quan đến cơng tác dân tộc, chính sách dân tộc. Hiến pháp
2013 chỉ rõ: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của
các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đồn kết,
tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân
tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết,
giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp
của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các
dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước.

Chương 2: Thực hiện chính sách dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam

Do có chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp và sự vào cuộc của cả hệ thống
chính trị nên trong những năm qua, công tác dân tộc đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng. Tính riêng trong giai đoạn 2016 - 2020, vùng đồng bào dân tộc và miền núi có

những chuyển biến quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Trong phát triển kinh
tế, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới đạt kết quả bước đầu đáng ghi nhận.

Downloaded by BINH NGUYEN ()

lOMoARcPSD|38590726

Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt 7%/năm; tỷ lệ hộ nghèo vùng dân tộc và
miền núi giảm 4%/năm; các huyện nghèo giảm 4 - 5%, có nơi giảm trên 5%; tỷ lệ hộ
cận nghèo tồn vùng giảm 1,2%; đã có 22 huyện, 125 xã, 1.298 thơn ra khỏi tình
trạng đặc biệt khó khăn; có 1.052 xã (chiếm 22,3%) đạt chuẩn nơng thơn mới, có 27
huyện (chiếm 6%) đạt chuẩn nông thôn mới.

Kết cấu hạ tầng cơ sở được đầu tư đồng bộ, hệ thống giao thông từ tỉnh đến
trung tâm các huyện đã được rải nhựa hoặc bê tơng hóa 100%; các xã có đường ơ- tơ
đến trung tâm đạt 98,4%; tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số được sử dụng điện lưới quốc gia
đạt 96,7%; 100% xã có trường tiểu học, trung học cơ sở; 99,7% xã có trường mầm
non, mẫu giáo; 99,5% xã có trạm y tế; 76,7% thơn có nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng
đồng; tỷ lệ thơn có đường giao thơng được kiên cố tăng 16,7% so với năm 2015.

Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề ngày càng phát triển, tỷ lệ
người đủ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết tiếng phổ thông tăng 1,7%; tỷ lệ đi học
đúng độ tuổi cấp tiểu học tăng 8%, trung học cơ sở tăng 9%, trung học phổ thông tăng
14,7%. Đến hết năm 2020 cả nước đã xây dựng được 316 trường phổ thông dân tộc
nội trú, 1.097 trường phổ thông dân tộc bán trú, 4 trường và 3 khoa dự bị đại học dân
tộc. Bên cạnh đó, cơng tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động dân
tộc thiểu số đạt được một số kết quả quan trọng.

Trong việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa cũng đạt được kết quả đáng ghi
nhận, trong đó, tiếp tục cơng nhận 4 di tích quốc gia đặc biệt, 8 di tích lịch sử văn hóa

quốc gia; phong tặng, truy tặng 559 nghệ nhân dân gian là người dân tộc thiểu số;
hàng năm đã tổ chức tốt ngày hội văn hóa của các dân tộc thiểu số… Có 95% số xã
được phủ sóng phát thanh truyền hình; phát sóng được 22 thứ tiếng dân tộc, phù hợp
với từng vùng, miền. Ngoài ra, đến hết năm 2020 đã xây dựng được hơn 16.000 điểm
bưu điện văn hóa xã; có hàng triệu tờ báo được cấp không thu tiền.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn những hạn chế, yếu
kém, đó là: “Kết quả thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu, cấp bách đối với vùng đồng
bào dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, tây duyên hải miền Trung
chưa đạt được như mong muốn. So với mặt bằng chung của cả nước, đời sống của
đồng bào dân tộc thiểu số vẫn thuộc diện khó khăn nhất. Tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo,
tái nghèo còn cao; khoảng cách so với vùng phát triển có xu hướng gia tăng; khả năng
tiếp cận dịch vụ xã hội cịn thấp; tình trạng di cư tự phát chưa được giải quyết hiệu
quả; cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số nhiều nơi chưa đạt tỷ lệ
theo đúng quy định; hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan ở một số nơi chưa được khắc phục,
vẫn còn tiềm ẩn yếu tố phức tạp về an ninh, trật tự”.

Những hạn chế, yếu kém trên được xác định có nhiều nguyên nhân, trong đó có
cả khách quan và chủ quan, đó là: Điểm xuất phát của vùng đồng bào dân tộc và miền

Downloaded by BINH NGUYEN ()

lOMoARcPSD|38590726

núi cịn thấp; địa hình hiểm trở, chia cắt, giao thơng khó khăn, khí hậu khắc nghiệt;
thiên tai, bão lũ xảy ra thường xuyên; chất lượng nguồn nhân lục cịn thấp. Bên cạnh
đó, một số cấp ủy, chính quyền, nhậ n thức chưa đầy đủ về công tác dân tộc; công tác
lãnh đạo, chỉ đạo chưa thực sự quyết liệt; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành chưa
chặt chẽ, đồng bộ; một số chính sách cịn chồng chéo, nguồn lực đầu tư cịn nhiều hạn
chế. Ngồi ra, một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số còn có tư tưởng bằng lịng với

hiện tại, thiếu ý chí phấn đấu vươn lên.

Chương 3: Giải pháp tăng cường việc thực hiện chính sách dân tộc trong
thời kỳ lên chủ nghĩa xã hội

Đường lối, chính sách về vấn đề dân tộc, cơng tác dân tộc là một bộ phận hữu
cơ của đường lối, chính sách chung của Đảng, Nhà nước ta, được thể hiện rõ trong
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung,
phát triển năm 2011), bao gồm những nội dung mang tính tổng hợp, toàn diện, đồng
bộ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh,.. Để thực
hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc
trong thời kỳ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trước hết cần tập trung giải quyết một
số vấn đề:

Thứ nhất, nắm vững quan điểm, mực tiêu của Đảng, Nhà nước về vấn đề dân
tộc, công tác dân tộc trong thời kỳ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Về quan điểm, cần nắm vững một số nội dung cơ bản:

Tiếp tục quán triệt sâu sắc chính sách bình đẳng, đồn kết, tương trợ giữa các
dân tộc; phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là phát triển kinh tế để nâng mức sống của
các dân tộc và để các dân tộc có sự phát triển ngang nhau là vấn đề có ý nghĩa quyết
định cho việc thực hiện thắng lợi chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, bảo đảm
cho đất nước ổn định và phát triển trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội.

Phát triển kinh tế - xã hội miền núi luôn gắn với vấn đề dân tộc, coi đây là một
bộ phận hữu cơ trong chiến lược phát triển nền kinh tế quốc dân.

Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi là
trách nhiệm chung của cả nước, trước hết và trực tiếp là trách nhiệm của Đảng, chính

quyền, đồng bào các dân tộc thiểu số; đồng thời, đồng bào các dân tộc thiểu số phải
vương lên tự lực, tự cương, chống tư tưởng tự ti, ỷ lại.

Phát triển tồn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh, quốc
phịng; gắn tăng trưởng kinh tế với việc giải quyết những nhu cầu bức xúc về mặt xã
hội ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi.

Về mục tiêu, cần nắm vững một số nội dung cơ bản và cụ thể:

Downloaded by BINH NGUYEN ()

lOMoARcPSD|38590726

Đẩy mạnh phát triển sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân các dân tộc. Xóa
hộ nghèo; giảm khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng và các dân tộc. Thu
hẹp khoảng các về thu nhập bình quân giữa các dân tộc và các vùng và chênh lệch về
trình độ phát triển kinh tế, văn hóa.

Bảo vệ sức khỏe của nhân dân các dân tộc, thực hiện được 100% số xã có trạm
y tế, có đủ cán bộ và đủ thuốc chữa bệnh. Khống chế bệnh sốt rét, không để xảy ra
dịch. Có đủ nước sạch cho nhân dân các dân tộc.

Nâng cao trình độ văn hóa và đời sống tinh thần của nhân dân các dân tộc; bảo
tồn và phát triển các giá trị văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; thanh tốn nạn mù chữ,
đưa thơng tin bằng sóng phát thanh và truyền hình đến hầu hết các vùng của đất nước,
góp phần nâng cao dân trí của nhân dân các dân tộc.

Hồn thành cơng tác định canh, định cư ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số
và miền núi.


Xây dựng cơ sở chính trị, đội ngũ cán bộ và đảng viên ở vùng đồng bào các dân
tộc thiểu số và miền núi trong sạch và vững mạnh, trước hết là đối với cấp cơ sở và
cấp huyện.

Thứ hai, thực hiện tốt bình đẳng giữa các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam. Bình đẳng, đồn kết, tương trợ nhau giữa các dân tộc để cùng phát triển
vừa là nguyên tắc, vừa là mục tiêu của chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta,
được thực hiện nhất quán trong suốt quá trình cách mạng, kể từ khi có Đảng. Trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước phải luôn coi
trọng vấn đề này, coi đó là một chiến lược đại đồn kết dân tộc. “Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” khẳng định: “Thực hiện
chính sách bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi
điều kiện để các dân tộc cùng phát triển”. Điều 5 Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh
sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau
cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là
tiếng Viêt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc,
phát huy phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực
hiện chính sách phát triển tồn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy
nội lực, cùng phát tiển với đất nước”.

Bình đẳng giữa các dân tộc là nguyên tắc cơ bản, có ý nghĩa quan trọng hàng
đầu của chính sách dân tộc. Các dân tộc, khơng phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ
phát triển cao hay thấp, đều ngang nhau về quyền lợi và nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực
hoạt động của đời sống xã hội và được bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật. Thực
hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, trước hết là thực hiện quyền bình đẳng về

Downloaded by BINH NGUYEN ()

lOMoARcPSD|38590726


chính trị, bởi vậy, cần chống mọi biểu hiện chia rẽ, kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi, dân
tộc cực đoan, tự ti dân tộc,… Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc về kinh tế
là bảo đảm sự bình đẳng trong quan hệ lợi ích giữa các dân tộc. Nhà nước có trách
nhiệm giúp các dân tộc có kinh tế chậm phát triển để cùng đạt được trình độ phát triển
chung của các dân tộc khác trong cả nước. Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân
tộc về văn hóa - xã hội là bảo đảm cho việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của
các dân tộc; qua đó làm phong phú và đa dạng nền văn hóa Việt Nam.

Phần lớn các dân tộc thiểu số hiện nay có trình độ phát triển thấp, vì vậy, bên
cạnh việc bảo đảm quyền bình đẳng tồn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
Nhà nước cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để các dân tộc thiểu số có cơ hội phát triển
bình đẳng với các dân tộc khác. Sự quan tâm, tương trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển
là biểu hiện đặc trưng nhất về quyền bình đẳng giữa các dân tộc ở Việt Nam trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Các dân tộc Việt Nam đã cùng chung sống lâu đời bên
nhau, gắn bó máu thịt với nhau, no đói có nhau, vinh nhục cùng nhau, đồng cam cộng
khổ, một lòng sát cánh cùng nhau dựng nước và giữ nước. Truyền thống đồn kết đó
được gìn giữ và phát triển trong suốt hàng nghìn năm lịch sử. Kế thừa truyền thống
đồn kết q báu đó của dân tộc, Đảng và Nhà nước ta phải ln xác định đồn kết
dân tộc là một nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc, công tác dân tộc trong suốt
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; hướng theo hệ tiểu chí của chủ nghĩa
xã hội mà Đảng và nhân dân ta đang thực hiện, đó là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”. Trong thời kỳ quá độ, nguyên tắc đó phải được củ thể hóa
trong chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, trong các chương trình, dự án
đầu tư phát triển cho vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi, trong các chính
sách, các quy định cụ thể ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại,…

Thứ ba, xây dựng chiến lược về công tác cán bộ đối với vùng đồng bào các dân
tộc thiểu số và miền núi. Vấn đề cán bộ là khâu then chốt để tổ chức thực hiện thắng
lợi mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng đề ra trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. Vì vậy, cần xác định một chiến lược công tác
cán bộ đối với vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó cần chú
trọng một số nội dung chủ yếu:

Có quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số từ
cơ sở đến Trung ương, nghĩa là đề ra được nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng từng
loại cán bộ trong từng thời kỳ theo mục tiêu, chiến lược cán bộ chung của cả nước.
Theo đó, số cán bộ của từng dân tộc thiểu số được đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng tương
ứng với tỷ lệ dân số của mỗi dân tộc đó. Trên cơ sở quy hoạch đó, củng cố, phát triển
hệ thống trường dân tộc nội trú, bán trú từ xã đến Trung ương, làm nhiệm vụ giáo dục,
đào tạo con em người dân tộc thiểu số có đủ trình độ kiến thức để thi vào đại học. Hệ
thống trường này phải được tiếp tục củng cố, hồn thiện về cơ sở vật chất và có chính

Downloaded by BINH NGUYEN ()

lOMoARcPSD|38590726

sách tuyển sinh chặt chẽ, theo nhu cầu của từng dân tộc và địa bàn cụ thể, tránh tình
trạng có dân tộc đã nhiều cán bộ nhưng học sinh, sinh viên vẫn chiếm đa số trong
trường. Chủ trương cử tuyển vào đại học và cao đẳn chỉ là giải pháp tình thế, vì vậy,
cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để tiến tới bỏ hệ cử tuyển như hiện nay. Theo đó,
học sinh học lên các cấp đều phải thi, có đạt trình độ thì mới cho học tiếp, bởi có như
vậy mới đào tạo được nhân tài. Có chính sách thu hút, chế độ đãi ngộ xứng đáng đối
với cán bộ công tác ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi. Theo đó, ra sức
bồi dưỡng, đào tạo cán bộ là người xuất thân ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và
miền núi, đồng thời có chính sách khuyến khích cán bộ từ nơi khác đến phục vụ lâu
dài tại vùng này. Ngồi ra, từng bước có sự điều chuyển cán bộ giữa các vùng và các
dân tộc. Chẳng hạn, cán bộ là người miền núi, người dân tộc thiểu số có thể xuống
cơng tác ở vùng địng bằng và ven biển. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ, chúng ta đã làm như vậy. Nếu như thực hiện từng bước, rồi tiến tới xóa bỏ

được sự ngăn cách về cơ cấu cán bộ giữa các dân tộc thì ngay trong thời kỳ quá độ,
chúng ta đã thực hiện được cơ bản sự bình đẳng, đồn kết dân tộc một cách thực sự,
theo đúng nghĩa của nó về công tác cán bộ.

Thứ tư, xây dựng Luật Dân tộc, làm cơ sở cho việc đổi mới công tác dân tộc.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cần thể chế hóa những tư tưởng, quan
điểm, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, làm cơ sở pháp lý cho việc giải quyết
những vấn đề phát sinh trong quan hệ giữa các dân tộc, cũng như cho việc tiếp tục đổi
mới công tác dân tộc. Bởi vậy, việc sớm xây dựng, ban hành Luật Dân tộc là rất cần
thiết. Nội dung của Luật Dân tộc cần quy định những vấn đề có tính ngun tắc về
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, quyền và nghĩa vụ của các dân tộc (quyền
và nghĩa vụ tham gia quản lý nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn bản sắc
văn hóa,…) và quản lý nhà nước về dân tộc.

Luật Dân tộc cần phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan đảm trách
công tác dân tộc, trong đó, trước hết là Ủy ban Dân tộc (thuộc Chính phủ), là cơ quan
giúp Chính phủ quản lý nhà nước về dân tộc và trực tiếp quản lý một số chương trình,
dự án ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi. Theo đó, Ủy ban Dân tộc tập
trung vào việc xây dựng chính sách dân tộc và giúp Chính phủ kiểm tra, đơn đốc việc
thực hiện chính sách dân tộc. Trong Luật Dân tộc, cần quy định rõ, các ngành ở Trung
ương, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình, có chủ trương, biện pháp chỉ đạo
tồn ngành về việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước. Đồng thời, có
những quy định cụ thể về tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan
làm công tác dân tộc ở các địa phương.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hồn thiện các luật, bộ luật có nội
dung liên quan đến vấn đề dân tộc, công tác dân tộc nhằm ngày càng thể chế hóa sát

Downloaded by BINH NGUYEN ()


lOMoARcPSD|38590726

thực và tốt nhất đương lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về vấn đề dân tộc, công
tác dân tộc trong thời kỳ lên chủ nghĩa xã hội.

KẾT LUẬN

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã chú
trọng giải quyết tốt vấn đề dân tộc và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trên tất
cả các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phịng - an ninh. Thơng
qua việc tiếp thu và phát huy những quan điểm, tư tưởng trước đó về dân tộc, Đảng
và Nhà nước ta đã khái quát được tình hình dân tộc của đất nước Việt Nam hiện nay
để từ đó thể hiện quan điểm về vấn đề dân tộc và đề ra những chính sách, chủ trương,
pháp luật để phát triển phù hợp với thời đại và với từng vùng riêng biệt toàn diện về
mọi mặt, từng bước khắc phục tình trạng chênh lệch phát triển giữa các dân tộc. Dù là
một quốc gia đa dạng về tộc người nhưng tuyệt nhiên khơng có bất kì dân tộc nào bị
bỏ lại. Chính tư tưởng tiến bộ và nhân văn này đã nâng cao tinh thần đoàn kết giữa
các dân tộc sống chung một lãnh thổ, phát huy nội lực của mỗi dân tộc, ngăn chặn từ
đầu bất cứ tư tưởng kỳ thị, bất kỳ âm mưu chia rẽ dân tộc nào.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng, Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.2018
2. Ban tư tưởng – văn hóa Trung ương, Tài liệu nghiên cứu các Nghị quyết Hội nghị
lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX.

Downloaded by BINH NGUYEN ()

lOMoARcPSD|38590726


3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.2018.
4. Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về Tiếp tục thực hiện
Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về Cơng tác dân
tộc trong tình hình mới.

Downloaded by BINH NGUYEN ()


×