lOMoARcPSD|38590726
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
KHOA: KẾ TOÁN – QUẢN TRỊ KINH DOANH
BÀI TIỂU LUẬN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
CHỦ ĐỀ 3: “Phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong
sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao đời sống nhân dân theo Tư
tưởng Hồ Chí Minh”
Nhóm thực hiện: Nhóm 10
Năm 2021
2
Downloaded by BINH NGUYEN ()
lOMoARcPSD|38590726
A. MỤC LỤC:
I. Mở đầu: ……………………………………………………………….………….....2
1. Giới thiệu Tư tưởng Hồ Chí Minh……………………………………………….…..2
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh………………………………………………….…3
3. Nội dung về đoàn kết dân tộc trong sản xuất và nâng cao năng suất nông nghiệp…..4
II. Nội dung:
1. Nội dung cốt lõi trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về phát triển nơng nghiệp toàn
diện………………………………………………………………………………………5
2. Tinh thần đồn kết, tương trợ lẫn nhau trong sản xuất nơng nghiệp trong thời kì chiến tranh
của nhân dân ta………………………………………………………………………..…9
3. Phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao
đời sống nhân dân theo Tư tưởng Hồ Chí Minh của Thành phố Thái Nguyên………….11
4. Tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong sản xuất nông nghiệp hiện nay cả
nước……………………………………………………………………………………...15
III. Kết luận:
Bài học………………………………………………………………………….…….…17
Lớp trẻ hiện nay cần làm gì……………………………………………………………..18
IV.Đánh giá ……………………………………………………………………………19
B. CƠ SỞ LÝ THUYẾT:
I. MỞ ĐẦU:
1. Giới thiệu Tư tưởng Hồ Chí Minh:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản vơ giá, đó chính là tư tưởng của
Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành bởi chính khả năng tư duy và trí tuệ; phẩm chất
đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn của Người. Đó là tư duy độc lập, sáng tạo trong nhận
xét, đánh giá các sự vật, sự việc; là bản lĩnh kiên định; nhạy bén với cái mới; có phương pháp
biện chứng, đầu óc thực tiễn. Đó là tâm hồn của một nhà yêu nước chân chính, hết lịng u
thương nhân dân, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc ấm no của đồng
bào; đồng thời cũng là một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành. Đó cũng là q trình rèn luyện từ học
tập, nghiên cứu đến trải nghiệm thực tiễn, khám phá các quy luật vận động xã hội, đời sống văn
hóa và cuộc đấu tranh của các dân tộc để khái quát thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động
thực tiễn, kiểm nghiệm trong thực tiễn nên mang giá trị khách quan, cách mạng và khoa học.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được xác định là một hệ tư tưởng chính thống của Đảng Cộng
sản Việt Nam bên cạnh chủ nghĩa Mác Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh khơng hình thành ngay
một lúc mà đã trải qua một q trình tìm tịi, xác lập, phát triển trên cơ sở kế thừa, chọn lọc
những tư tưởng, giá trị truyền thống của dân tộc, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và
gắn liền với quá trình hoạt động cách mạng phong phú của Người, để từ đó hoàn thiện một loạt
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam: Về đường lối chiến tranh nhân dân “toàn dân, toàn
diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”; về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là
3
Downloaded by BINH NGUYEN ()
lOMoARcPSD|38590726
thuộc địa nửa phong kiến, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội không trải qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, trong điều kiện đất nước bị chia cắt và có chiến tranh; về xây dựng Đảng với tư cách là
Đảng cầm quyền; về xây dựng Nhà nước “của dân, do dân, vì dân”; về củng cố và tăng cường
sự đoàn kết nhất trí trong phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế.... . Cùng với đó là truyền
thống yêu nước, kiên cường, bất khuất; tinh thần cần cù, chịu khó, nhân nghĩa và ý thức gắn kết
cộng đồng; ý chí vượt khó; q trọng hiền tài. sự tiếp thu và vận dụng sáng tạo tinh hoa văn hóa
phương Đơng, phương Tây trên nền tảng những tri thức được chắt lọc, hấp thụ, tích lũy qua
thực tiễn. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định lấy “Chủ nghĩa Mác-Lênin” và “Tư tưởng Hồ Chí
Minh” là “kim chỉ nam cho mọi hành động và thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.
2. Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh:
Trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nhà nước dân chủ “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân”; có nền dân chủ lập hiến, quản lý đất nước bằng pháp luật luôn được Đảng ta vận dụng
sáng tạo, ngày một hoàn thiện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng qua các thời kỳ. Ngày nay, trước yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới và hội nhập, Đảng ta tiếp tục kế thừa tư tưởng của Người để xây dựng Nhà nước
pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là điều vơ cùng cần thiết và đúng đắn.
Về đồn kết quốc tế:
Đảng ta luôn phát huy chủ nghĩa quốc tế trong sáng, cao cả, thủy chung, làm hết sức mình để góp
phần quan trọng xây dựng tình đồn kết giữa các đảng cộng sản và cơng nhân, giữ gìn và củng cố
sự đồn kết trong phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế; đồng thời, tăng cường xây dựng và
phát triển quan hệ quốc tế trong tình hình mới, coi đó là một trong những yếu tố quan trọng đảm
bảo cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cùng
với quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta đã đề ra và thực hiện nhất quán đường lối, chính sách đối
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Việt Nam là bạn, là
đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, độc
lập và phát triển.
Về phát huy nhân tố con người trong xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay:
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln đề cao vấn đề con người. Tư tưởng về phát huy nhân tố con người
được thể hiện một cách đa dạng, phong phú, trở thành tư tưởng xuyên suốt trong toàn bộ hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhân tố con người khẳng định bản lĩnh, trí tuệ, tâm hồn và sức
mạnh con người Việt Nam trong thời kì kháng chiến. Hơn bất cứ dân tộc nào trên thế giới, dân
tộc Việt Nam thấu hiểu sự vô giá của độc lập, tự do. Để giành được độc lập, tự do ấy, dân tộc ta
đã phải đổi bằng xương máu và nước mắt của lớp lớp các thế hệ. Đó là sự hy sinh tự nguyện và
anh dũng, là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hung cách mạng. Chủ nghĩa yêu nước ấy
được dẫn dắt bởi nhà tư tưởng lỗi lạc Hồ Chí Minh với tư tưởng phát huy cao độ nhân tố con
người. Trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay, tư tưởng này của Người vẫn còn nguyên giá
trị. Trong điều kiện mới, cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh về phát huy nhân tố con người để biến truyền thống, bản lĩnh, khí phách và trí tuệ người
Việt Nam thành sức mạnh to lớn nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, tự do của Tổ quốc.
Trong giáo dục cán bộ, đảng viên hiện nay:
4
Downloaded by BINH NGUYEN ()
lOMoARcPSD|38590726
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của những giá trị cao đẹp về đạo đức của người chiến sĩ cách
mạng, là “hiện thân của nền văn hóa tương lai”. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có nội dung vô
cùng phong phú, rộng lớn nhưng lại rất cụ thể, bình dị, gần gũi với cán bộ, đảng viên (CBĐV)
và quần chúng nhân dân. trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm tới cơng tác giáo dục ĐĐCM cho CBĐV, coi đó là một vấn đề
đặc biệt quan trọng của sự nghiệp cách mạng, của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn đảng.
Trong giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn hiện nay:
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên trong giai đoạn
hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng, giúp cho thanh niên tự giác học tập, rèn luyện theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trở thành lực lượng kế tục sự nghiệp cách mạng của dân tộc
Việt Nam. Trong bối cảnh đất nước đang ngày càng hội nhập quốc tế sâu rộng với nền khoa học
và kỹ thuật phát triển như vũ bão hiện nay, thanh niên Việt Nam càng cần phải trau dồi cho
mình đạo đức cách mạng, có khả năng thích ứng với sự phát triển của xã hội, có tư duy đột phá,
vững bước vượt qua mọi khó khăn, xứng đáng với niềm tin và sự kỳ vọng của Đảng và Nhân
dân đối với mình. Với nhiệt huyết, nghị lực, ý chí vươn lên mạnh mẽ và đang được sống trong
mơi trường hồ bình, đổi mới, phát triển của đất nước, thanh niên Việt Nam nhất định sẽ nêu
cao tinh thần tiên phong, bản lĩnh, đồn kết, sáng tạo góp phần cùng tồn Đảng, toàn quân, toàn
dân giữ vững và phát huy các thành quả cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
3. Nội dung về đoàn kết dân tộc trong sản xuất và nâng cao năng suất nông nghiệp:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Đại đồn kết” tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân,
mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là
nền gốc của đại đồn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, cái gốc của cây. Nhưng đã có nền vững,
gốc tốt, cịn phải đồn kết các tầng lớp nhân dân khác”. Tư tưởng về đại đoàn kết tiếp tục được
Hồ Chí Minh cụ thể hóa hơn trong các cụm từ như: “đại đồn kết toàn dân”, “đoàn kết toàn
dân”, “đoàn kết dân tộc”, “toàn dân tộc ta đoàn kết”. Tuy cách diễn đạt có thể khác nhau, nhưng
nội hàm của các khái niệm trên đều thống nhất khi khẳng định lực lượng của khối đại đoàn kết
là của toàn thể nhân dân Việt Nam.
“Đoàn kết là một truyền thống quý báu của nhân dân tộc Việt Nam”. Đại đoàn kết là tập
hợp sức mạnh của tồn dân tộc, trong đó liên minh giữa nơng dân, cơng nhân và trí thức là
nòng cốt.
Hồ Chí Minh khẳng định đồn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam.
Người ln đề cao vai trị của mọi tầng lớp nhân dân và sức mạnh đoàn kết của nhân dân trong
bất kì hoạt động nào. Cốt lõi của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân dân lao động mà trước
hết là nông dân, công nhân.
Theo Hồ Chí Minh:
“Ngày nay đồng bào khơng cịn bị bọn đế quốc áp bức khổ sở như trước, phải làm cho đời
sống nhân ngày càng ấm no hơn. Muốn thế đồng bào phải tang gia sản xuất. Muốn có nhiều lúa,
ngơ, khoai, sắn, bơng,… thì phải đồn kết, thương u nhau, tổ chức nhau lại”
Nông nghiệp, nông dân và nông thôn Việt Nam đóng vai trị quan trọng trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai
5
Downloaded by BINH NGUYEN ()
lOMoARcPSD|38590726
trị của nơng dân trong chiến đấu, trong sản xuất; là lực lượng to lớn của khối liên minh và đại
đoàn kết dân tộc.
Để phát triển nơng nghiệp tồn diện, Hồ Chí Minh nhắc nhở trong nơng nghiệp phải có kế
hoạch, thể hiện tính chủ động, có tầm nhìn xa, “Làm chỗ nào, làm cái gì, thì phải làm thật kỹ,
phải săn sóc luôn” và phải đẩy mạnh tăng gia sản xuất. Lãnh đạo và kế hoạch phải thật sát với
thực tế, bởi “…tình hình vùng này khơng giống tình hình vùng khác. Vì vậy, áp dụng chủ
trương và chính sách phải thật sát với tình hình thực tế của mỗi nơi. Tuyệt đối chớ rập khn,
chớ máy móc, chớ nóng vội”.
Để nông dân thực hiện được vai trò to lớn đối với cách mạng, Người căn dặn những người
lãnh đạo, chính phủ các cơng việc cần phải làm, đó là: “Nơng vận là phải:
- Tổ chức thật chặt chẽ.
- Đồn kết thật khăng khít.
- Huấn luyện thật giác ngộ.
Lãnh đạo nông dân hăng hái đấu tranh cho lợi ích của nơng dân, của Tổ quốc. Vận động
nơng dân là phải vận động thế nào cho tồn thể nông dân động, nghĩa là: làm cho nông dân hiểu
rõ quyền lợi của dân tộc và của giới mình; làm cho nông dân vào Hội nông dân cứu quốc cho
đơng để phấn đấu cho mục đích của mình và tích cực tham gia cơng cuộc kháng chiến kiến
quốc.
Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn được Đảng ta xác định là vấn đề có tầm chiến
lược đặc biệt quan trọng. Xây dựng nền nơng nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng
dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm; nâng
cao giá trị gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu.
Đẩy nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nền nơng nghiệp sinh thái phát triển
tồn diện, thúc đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công
nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý nông nghiệp và đẩy nhanh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nơng nghiệp, nơng thơn. Bên cạnh đó, chú trọng đầu tư vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp,
chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới và quá trình đơ thị hóa
một cách hợp lý đồng thời phát huy vai trị chủ thể của hộ nơng dân và kinh tế hộ….
Tư tưởng, chủ trương, đường lối, chính sách của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nơng dân, gắn
với phát triển nơng nghiệp và xây dựng nông thôn mới đã được Đảng và Nhà nước ta quán triệt,
vận dụng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới tư tưởng,
chủ trương, đường lối, chính sách đó đã trở thành “kim chỉ nam” để Đảng ta xây dựng đường
lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung, trong đó có vấn đề nơng dân, nông nghiệp
và nông thôn.
II. NỘI DUNG:
1. Nội dung cốt lõi trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về phát triển nơng nghiệp tồn diện:
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng và nhấn mạnh vai trò quan trọng của nông
nghiệp, nông dân, nông thôn: “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nơng nghiệp ta thịnh thì nước
ta thịnh” và khẳng định: “Phải phát triển nông nghiệp một cách tồn diện”. Phát triển nơng
6
Downloaded by BINH NGUYEN ()
lOMoARcPSD|38590726
nghiệp toàn diện là một tất yếu khách quan, là cơ sở để phát triển các ngành kinh tế khác, tạo
điều kiện cho cơng nghiệp hóa nước nhà.
Nơng dân làm giàu, nơng thơn sạch đẹp, tạo ra vai trị mới của nông nghiệp, nông thôn về bảo
vệ môi trường, làm giàu sinh thái, tái tạo và bảo vệ tài nguyên; phát triển quan hệ cộng đồng,
gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc… Nơng dân khơng chỉ đóng vai trị người sản xuất, kinh doanh
nơng nghiệp, nguồn cung lao động cho nền kinh tế mà còn là đối tượng cung cấp các dịch vụ
công cộng về môi trường, văn hóa… và đóng vai trị quan trọng trong nhiều lĩnh vực khác.
*Thứ nhất, đó là sự cân đối, hợp lý trong cơ cấu ngành nông nghiệp và với các ngành khác
Sau Cách mạng Tháng Tám, tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc
ngày 10-01-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương: “Chúng ta phải thực hiện nhiệm vụ: Làm
cho dân có ăn, Làm cho dân có mặc, Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành.” Khi nói
về vị trí, vai trị của nơng nghiệp trong mối quan hệ với các ngành kinh tế khác, Người ví cơng
nghiệp và nơng nghiệp như hai chân của con người, người không thể thiếu một chân, thì nước
khơng thể thiếu một bộ phận kinh tế: “Công nghiệp và nông nghiệp như hai chân con người, hai
chân có mạnh thì đi mới vững chắc”. Người phê phán sự “khập khiễng” trong phát triển không
đồng bộ giữa cơng nghiệp và nơng nghiệp, để lưu ý tồn Đảng, toàn dân phải chú ý đúng mức
đến phát triển nông nghiệp. Người chỉ rõ “giữa các ngành Công nghiệp, Nơng nghiệp, Thương
nghiệp, Văn hóa, Giáo dục… với nhau và trong mỗi ngành phải phát triển cân đối” Người luôn
lưu ý rằng, việc phát triển sản xuất lương thực không tách rời mà phải gắn bó, tác động hỗ trợ
lẫn nhau với các ngành sản xuất khác, như thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu… tạo
nên sự thống nhất, hài hịa, cân đối cho tồn bộ nền kinh tế phát triển. Xuất phát từ đặc điểm,
điều kiện, vị trí, vai trị của nơng nghiệp, phải bắt đầu trước hết từ giải quyết vấn đề phát triển
nông nghiệp để bảo đảm đời sống cho nhân dân. Tuy nhiên, không chỉ ngành Nông nghiệp phát
triển, sự phát triển của nông nghiệp phải được đặt trong mối quan hệ khăng khít và tác động qua
lại với phát triển công nghiệp và thương nghiệp. Có nghĩa là, phát triển tồn diện phải là nông
nghiệp bảo đảm sự phát triển cân đối, hợp lý giữa các ngành của nền kinh tế.
*Thứ hai, phát triển nơng nghiệp tồn diện là giải pháp quan trọng để phát triển bản thân nền
nông nghiệp.
Kinh tế nông nghiệp bao gồm các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. Sự phát triển
của từng bộ phận trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp sẽ làm cho tồn ngành Nơng
nghiệp phát triển và bảo đảm sự phát triển cân đối. Ngành Nông nghiệp tồn diện khơng chỉ ở
tăng quy mơ, diện tích mà còn ở năng suất, sản lượng và sự phù hợp trong cơ cấu với các loại
cây trồng, ngành, nghề khác. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền nơng nghiệp tồn diện trước hết
phải là một nền nơng nghiệp có ngành trồng trọt phát triển, mà đầu tiên là phải chú ý trồng cây
lương thực, bởi vì “nơng nghiệp là nguồn cung cấp lương thực”. Trong các cây lương thực,
Người xác định cây lúa là chủ lực, sau đó trồng các loại cây hoa màu, như ngô, khoai, sắn để
phục vụ chăn ni: “Sản xuất phải tồn diện, sản xuất thóc là chính, đồng thời phải coi trọng
hoa màu, cây ăn quả, cây công nghiệp, chăn nuôi, thả cá và nghề phụ”. “Trong trồng trọt phải
chú ý toàn diện. Trồng cà phê, trồng lúa nhưng đồng thời phải chú ý trồng lạc, trồng vừng vì
lạc, vừng là thứ hàng xuất khẩu rất tốt để đổi lấy máy móc…”.Người nhắc nhở: “Trung ương
7
Downloaded by BINH NGUYEN ()
lOMoARcPSD|38590726
thường nói nơng nghiệp phải tồn diện. Mình khơng những cốt gạo, ngơ, khoai, sắn, bơng mà
cịn cốt các thứ khác nữa. Cho nên phải toàn diện. Tăng diện tích mà khơng tăng sản lượng là
vơ ích, mất cơng. Nhưng tăng sản lượng cũng phải toàn diện. Lúa là chính, nhưng ngơ, khoai,
sắn cũng phải có, cũng phải chú trọng. Nếu chỉ chú trọng lúa mà không chăm nom ngô, khoai,
sắn cũng không được. Hoặc chỉ chăm về cây lương thực mà không chăm về cây công nghiệp
cũng là khuyết điểm”. Không chỉ ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi phải phát triển để bảo đảm
có thêm thịt ăn, thêm sức kéo, thêm phân bón phục vụ cho trồng lúa, hoa màu, đồng thời phát
triển ngành ngư nghiệp và các ngành kinh tế gắn liền với biển. Sinh thời, Người luôn nhắc phải
chú ý phát triển lâm nghiệp, ngư nghiệp, trồng cây, gây rừng và đồng thời chăm sóc bảo vệ
rừng. Người luôn quan tâm chú ý đến đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số và nhắc nhở “Phải
có kế hoạch chu đáo, phải chấm dứt tình trạng khai thác bừa bãi”. Bởi “cây rừng là nguồn lợi
lớn”. Để nông nghiệp phát triển, đời sống nông dân được cải thiện, Người chỉ rõ cần phải phát
triển thêm các nghề phụ gia đình ở nơng thơn. Bởi, đặc điểm của nghề nơng mang tính thời vụ
có nhiều ngày nơng nhàn và do diện tích đất canh tác hạn chế, ở nhiều vùng thị trường hàng hóa
chưa phát triển, để bảo đảm cuộc sống ổn định, các hộ gia đình nơng thơn đã có thêm nghề phụ
để tận dụng lao động và tăng thêm thu nhập. Những nghề phụ dần dần phát triển thành nghề
chính ở các làng nghề nhưng vẫn tồn tại song song với nghề nơng. Người nói “miếng vườn của
mỗi gia đình xã viên và các loại nghề phụ là nguồn lợi để tăng thu nhập”; “phải chú ý vận động
đồng bào trồng cây ăn quả như: Cam, chanh, chuối… và trồng cây lấy gỗ như: Xoan, tre...”.
Người hướng dẫn bà con một cách dễ hiểu: “Muốn lúa tốt, hoa màu tốt, cần nhiều phân…
Muốn có nhiều phân chuồng, phải ni nhiều trâu, bị, lợn”. Nơng nghiệp tồn diện cịn bao
gồm các ngành, nghề phụ và ngành nghề truyền thống ở nông thôn. Do vậy, đồng thời với phát
triển ngành nông nghiệp, cần phát triển nghề phụ gia đình, như nghề mây, tre đan, nghề gỗ,
chạm khảm, nghề dệt… Phát triển các ngành nghề phụ ở nông thôn vừa nâng cao đời sống của
người dân, vừa duy trì bản sắc của các làng nghề truyền thống, vừa thúc đẩy phát triển ngành
nông nghiệp.
*Thứ ba, phát triển nông nghiệp tồn diện cịn được thể hiện ở sự hợp lý trong trình tự phát
triển và điều kiện phát triển.
Trong nhiều bài nói và viết của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trước hết ở việc tăng
gia sản xuất lương thực, kể cả lúa và màu. Phát triển nơng nghiệp tồn diện và mở rộng ngành,
nghề ở nơng thôn, không chỉ nhằm khai thác, tận dụng các yếu tố sản xuất, giải quyết việc làm,
cải thiện đời sống người lao động mà cịn có tác dụng góp phần bảo vệ, giữ gìn và cải tạo mơi
trường sinh thái, cũng như ảnh hưởng tích cực đến trạng thái tâm lý và thái độ của con người
đối với thiên nhiên và xã hội.
Tuy nhiên, tăng gia, mở rộng sản xuất phải phù hợp với điều kiện của từng địa phương. Điều
kiện ở đây được hiểu theo nghĩa tương đối rộng, đó khơng chỉ là lợi thế về vị trí địa lý, thổ
nhưỡng, thời tiết mà còn là sự phù hợp về trình độ phát triển của hệ thống máy móc trong nông
nghiệp, con người, sự phù hợp với cơ cấu các ngành của nền kinh tế quốc dân và nhiệm vụ của
từng thời kỳ. Người khẳng định: “Phải phát triển nơng nghiệp một cách tồn diện. Tùy điều
kiện của mỗi địa phương mà trồng nhiều lúa và nhiều hoa màu để bảo đảm lương thực cho nhân
8
Downloaded by BINH NGUYEN ()
lOMoARcPSD|38590726
dân và nghĩa vụ đối với Nhà nước… Phải kết hợp chặt chẽ: Công nghiệp địa phương, thủ công
nghiệp và nông nghiệp; sản xuất và chế biến, thương nghiệp và giao thông…”Người khẳng
định: “Muốn lãnh đạo cho đúng tất nhiên phải theo đường lối chung. Song cách làm phải tùy
theo chỗ, tùy theo mùa, tùy theo hoàn cảnh thực tế địa phương”9 và “đừng máy móc” như lấy
kinh nghiệm cải cách ruộng đất ở miền đồng bằng mà lấp vào miền biển là không được, là sai.
Đồng thời, phải theo từng mùa vì có mùa thì bà con bận hơn, có mùa thì bà con rảnh hơn…Sự
phát triển của tồn diện của nơng nghiệp được Người ví như sự vận động của “guồng máy”:
“Trong một cơng xưởng, có nhiều loại máy móc hình dạng khác nhau và cơng dụng khác nhau.
Những máy móc khác nhau ấy phải bố trí và kết hợp thật ăn khớp với nhau thì sản xuất mới tốt”
và nơng nghiệp cũng có “guồng máy” của nó. Nghĩa là “từ lúc chọn giống đến ngày đưa thóc
vào kho, mọi cơng việc phải ăn khớp, nhịp nhàng với nhau, thì kết quả mới tăng”. Người minh
chứng, muốn tăng thu hoạch phải tăng vụ, tăng diện tích, muốn tăng vụ, tăng diện tích phải cải
tiến nơng cụ, muốn dùng máy thì phải cày sâu, bừa kỹ và muốn ruộng đất tốt phải bón nhiều
phân, muốn có nhiều phân phải đẩy mạnh chăn nuôi, muốn phát triển chăn nuôi phải tăng diện
tích trồng thức ăn cho trâu bị… và Người lưu ý, nông nghiệp phải coi trọng 3 điều: Thiên thời -
mùa nào thì cần phải làm việc gì, nhất là phải làm kịp thời vụ.
Cùng với kế hoạch, tầm nhìn, phải thực hiện nhiều giải pháp, các giải pháp phải phù hợp với
nhiệm vụ cách mạng và điều kiện cụ thể để phát triển nông nghiệp. Người nhiều lần nhấn mạnh,
quan trọng nhất trong đời sống của nhân dân là vấn đề ăn. Để giải quyết tốt vấn đề ăn thì sản
xuất lương thực phải dồi dào. Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy
móc để sản xuất một cách thật rộng rãi: Dùng máy móc cả trong cơng nghiệp và trong nông
nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và
giúp người làm những việc phi thường. Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành cơng
nghiệp làm ra máy, ra gang, thép, than, dầu... đó là con đường phải đi của chúng ta, con đường
cơng nghiệp hóa nước nhà. Muốn như vậy, thì cơng nghiệp phải giúp cho nơng nghiệp có nhiều
máy làm thủy lợi, máy cày, máy bừa, nhiều phân hóa học,... Cùng với đó, phải từng bước xây
dựng quan hệ sản xuất mới trong nông nghiệp bằng các hình thức tổ đổi cơng, hợp tác xã…
nhằm thực hiện liên kết, tạo sức mạnh tập thể trong phát triển nơng nghiệp.
Như vậy, qua các tác phẩm, bài nói và bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có thể khẳng định
một cách ngắn gọn quan niệm của Người về một nền nơng nghiệp tồn diện phải là nền nơng
nghiệp phát triển. Phát triển nơng nghiệp tồn diện khơng phải là một nền kinh tế thuần nông,
không phải theo lối manh mún, tự cấp, tự túc, mà trên cơ sở có quy hoạch của một nền sản xuất
hàng hóa phát triển theo quy mơ lớn, đó là một nền nông nghiệp bền vững hiện đại, với sự
phong phú về ngành, nghề, đa dạng hóa về sản phẩm có cơ cấu kinh tế nội bộ ngành hợp lý, cân
đối, hài hòa, bổ sung cho nhau cùng phát triển mạnh mẽ, hiệu quả kinh tế cao và bền vững.
2. Tinh thần đồn kết, tương trợ lẫn nhau trong sản xuất nơng nghiệp trong thời kì chiến
tranh của nhân dân ta:
Ngay từ trong thời kì kháng chiến đất nước khó khăn nhất, khi ngành cơng nghiệp cịn
chưa xuất hiện và phát triển thì sản xuất nơng nghiệp là 1 ngành đóng vai trị rất to lớn trong
9
Downloaded by BINH NGUYEN ()
lOMoARcPSD|38590726
việc cứu chính dân mình và phát triển đất nước. Tinh thần đoàn kết dân tộc, tương trợ lẫn nhau
trong sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao đời sống nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh là
yếu tố rất cần thiết và quan trọng.
Trải qua 72 năm xây dựng và phát triển, ngành Nơng nghiệp Việt Nam dù có nhiều khó
khăn, thách thức, song trong bất kỳ hồn cảnh khó khăn nào, ngành Nông nghiệp nước nhà vẫn
luôn giành được nhiều thành tựu to lớn, làm tròn vai trò nền tảng, trụ đỡ cho kinh tế nước nhà.
Trong các cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc (1945-1975), nông nghiệp, nơng dân
và nơng thơn đã chiến thắng nạn đói, tham gia hiệu quả cơng cuộc kháng chiến, kiến quốc, hồn
thành vẻ vang sứ mệnh của "hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn".
Trong thư “Gửi nông gia Việt Nam” ngày 7 tháng 12 năm 1945 , Hồ Chủ tịch trực tiếp kêu
gọi: “Hiện nay chúng ta có hai việc quan trọng nhất: Cứu đói ở Bắc và kháng chiến ở Nam.
“Thực túc” thì “binh cường”, cấy nhiều thì khỏi đói. Chúng ta thực hiện “tấc đất - tấc vàng” thì
chúng ta quyết thắng lợi trong hai việc đó. Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia
sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững
quyền tự do độc lập. Hỡi anh em nhà nông, tiến lên”.
Thực hiện lời kêu gọi của Bác, Chính phủ yêu cầu tất cả ruộng đất đều phải được canh tác.
Phong trào thi đua sản xuất được phát động sâu rộng trong cả nước bằng nhiều hình thức. Bộ
Canh nơng cũng đã phát động phong trào phát huy sáng kiến, tìm cách quay vụ, tăng vụ. Nhiều
sáng kiến đã xuất hiện, giúp nông dân có thêm lương thực.
Nhờ các phong trào thi đua, sức mạnh tương trợ và tinh thần đồn kết của nơng dân được
khơi dậy, tăng gia sản xuất lương thực, thực phẩm nhanh chóng được đẩy mạnh. Vụ mùa năm
1946 ở Bắc Bộ đã đạt gấp đơi năm 1945. Nạn đói đã bị đẩy lùi. Trong diễn văn kỷ niệm một
năm Quốc khánh 2 tháng 9 (năm 1946), Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp ngày ấy tuyên
bố: “Cách mạng đã chiến thắng nạn đói. Thực là một kỳ công của chế độ dân chủ”.
Sau khi giải quyết được nạn đói, ngành nơng nghiệp đã khơng ngừng vượt qua nhiều khó khăn,
thách thức, đóng góp to lớn cho cuộc kháng chiến kiến quốc. Đường lối về nơng nghiệp từng
bước được Đảng và Chính phủ hoạch định rõ nét qua các chủ trương lớn về tăng gia sản xuất,
triệt để tiết kiệm, cải cách điền địa, giải phóng sức dân, đồn kết, huy động mọi lực lượng và
hình thành kinh tế tập thể.
Phát triển nông nghiệp thực sự là nền tảng của kinh tế kháng chiến. Từ một nền kinh tế canh
nông đã bị tê liệt trước năm 1945, nông nghiệp kháng chiến khơng những khơng bị suy thối
tiếp, mà đã được duy trì và phát triển, với sản lượng lương thực, thực phẩm và hàng hóa ngày
càng dồi dào hơn, đáp ứng kịp thời các nhu cầu của cuộc kháng chiến và đời sống nhân dân.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ,
toàn dân toàn diện, tự lực cánh sinh đầy gian khổ của nhân dân ta. Lịch sử đã ghi nhận những
thành tựu rất đáng tự hào về kinh tế nông nghiệp kháng chiến.
Chặng đường 20 năm (1955-1975) là thời kỳ đặc biệt của quá trình xây dựng và phát triển
ngành Nông nghiệp nước ta, khi đất nước bị chia cắt làm hai miền, tiến hành hai chiến lược
cách mạng khác nhau, chịu nhiều thách thức to lớn trong và ngoài nước, dưới chịu ảnh hưởng
nặng nề của chiến tranh. Trong khi nông nghiệp miền Nam phát triển không ổn định, không đáp
ứng được đầy đủ nhu cầu lương thực, thực phẩm của xã hội, thì nơng nghiệp miền Bắc đã hồn
thành vai trị mặt trận hàng đầu trong xây dựng hậu phương lớn, chi viện đắc lực cho cuộc đấu
tranh giải phóng miền Nam.
10
Downloaded by BINH NGUYEN ()
lOMoARcPSD|38590726
Trong những năm tháng của thời kỳ khôi phục đất nước sau chiến tranh (thời kỳ 1975-
1985), dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp, nông dân và nơng thơn đã phấn đấu vượt qua
khó khăn đi tiên phong trong công cuộc Đổi mới đất nước.
Ngay sau khi đất nước thống nhất, Đại hội Đảng lần thứ IV năm 1976 đã đề ra những nhiệm
vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm 1976-1980 có nội dung: “Tập trung cao độ sức của cả nước, của
các ngành, các cấp tạo ra một bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp; ra sức đẩy mạnh lâm
nghiệp, ngư nghiệp; .. nhằm giải quyết vững chắc nhu cầu của cả nước về lương thực, thực
phẩm và một phần quan trọng hàng tiêu dùng thơng dụng”. Thực hiện chủ trương đó nhiều biện
pháp đã được triển khai thực hiện để phát triển sản xuất nông nghiệp trên phạm vi cả nước,
đồng thời cải tạo nông nghiệp ở Nam Bộ. Trong quá trình đó, những nhân tố Đổi mới đã hình
thành. Dựa trên những thử nghiệm thành công từ cơ sở tại Hải Phịng, Vĩnh Phúc, ngày
13/1/1981, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị 100 CT/TW về “cải tiến cơng tác khốn, mở rộng
khốn sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp” đã tạo ra
động lực mới trong nông nghiệp. Ngành Thủy sản đã thực hiện thí điểm cơ chế “tự cân đối, tự
trang trải” tháo gỡ được nhiều khó khăn, tiếp cận được nhiều thị trường các nước, tạo ra hướng
phát triển mới quan trọng.
Giai đoạn 5 năm (1981-1985), sản xuất nơng nghiệp đã đạt mức tăng trưởng bình qn hằng
năm 4,9% ; sản xuất lương thực đạt bình quân đạt 17 triệu tấn/năm so với mức tương ứng là
1,9%/năm và 13,4 triệu tấn/năm trong các năm 1976-1980.
Thực hiện đường lối Đổi mới của Đảng (thời kỳ 1986-2015), nông nghiệp và nông thôn
liên tục giành được những thành tựu to lớn và tồn diện, góp phần quan trọng phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Đặc biệt là Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (1988) về giao lại ruộng đất cho nông dân quản
lý, “công nhận sự tồn tại lâu dài và tác dụng tích cực của kinh tế cá thể tư nhân, đảm bảo quyền
làm ăn chính đánh và thu nhập hợp pháp của các hộ cá thể tư nhân”.
Nhờ có chính sách tạo động lực và hỗ trợ phù hợp, với tinh thần sáng tạo, cần cù, tự lực cánh
sinh, nông dân Việt Nam đã hăng hái sản xuất, chủ động sáng tạo, chấp nhận cạnh tranh trên thị
trường. Mặc dù có xuất phát điểm rất thấp và đối diện với những thách thức lớn lao của thị
trường và thời tiết, nhưng người nông dân Việt Nam đã nhanh chóng làm quen với sản xuất
hàng hóa, chủ động sáng tạo và áp dụng có hiệu quả KHCN, huy động nội lực, khắc phục khó
khăn tạo nên những thành công to lớn trong sản xuất kinh doanh. Sự hình thành và phát triển
thành cơng của nhiều mặt hàng nông sản nổi tiếng của Việt Nam như cà phê, hạt điều, trái cây,
thủy sản, đồ gỗ... chủ yếu nhờ sự năng động, sáng tạo và tinh thần đồn kết,tương trợ lẫn nhau
vốn có của nơng dân cùng với sự đồng hành của doanh nghiệp nông nghiệp.
Nhận định về những chính sách thời kỳ Đổi mới, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho rằng,
những chủ trương, chính sách giúp giải phóng tiềm năng của nơng dân, thúc đẩy vai trị năng
động, tích cực của nơng dân trong sản xuất nơng nghiệp, tạo sự thay đổi kỳ diệu của nông
nghiệp Việt Nam. Từ một nước thiếu ăn, năm 1989, sản lượng lúa gạo đạt con số 21,5 triệu tấn
và lần đầu tiên Việt Nam xuất khẩu được 1,2 triệu tấn lúa gạo. Đến nay, Việt Nam đã trở thành
nước xuất khẩu gạo đứng thứ 3 thế giới. Trong bối cảnh thiên tai diễn ra khốc liệt trên phạm vi
rộng trong năm 2016, nhưng giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 31 tỷ USD, thặng dư 8 tỷ
USD. Hiện ngành NN&PTNT có 10 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đtạ hơn 1 tỷ USD, đưa
Việt Nam trở thành một nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới.
11
Downloaded by BINH NGUYEN ()
lOMoARcPSD|38590726
3.Phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong sản xuất nông nghiệp nhằm nâng
cao đời sống nhân dân theo Tư tưởng Hồ Chí Minh của Thành phố Thái Nguyên:
Trong nhưng năm qua, Thái Nguyên đã phát huy sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc trong
cơng cuộc xây dựng nơng nghiệp, nông dân, nông thôn nhằm xây dựng tỉnh nhà ngày càng giàu
đẹp, hiện đại và văn minh.Thời gian qua, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội trên địa bàn tỉnh đã triển khai hiệu quả Cuộc vận động 'Toàn dân đoàn kết xây dựng nơng
thơn mới, đơ thị văn minh', góp phần tích cực vào phong trào xây dựng nơng thơn mới, xây
dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư, đưa Thái Nguyên phát triển nhanh, bền vững và ngày
càng văn minh, giàu đẹp.Trong tiến trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước thì vấn đề
nơng nghiệp, nơng dân, nông thôn luôn được Đảng và Nhà nước hết sức coi trọng trong các giai
đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam; do vậy Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần
thứ bảy (khoá X) đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 05/8/2008 “Về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn”. Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Thái
Nguyên đã ban hành Chương trình hành động số 25- CTr/TU, ngày 28/10/2008 về thực hiện
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khoá X) với quyết tâm xây dựng
Thái Nguyên thành một tỉnh giàu đẹp, hiện đại và văn minh. Để thực hiện thành cơng nhiệm vụ
đó thì phát huy sức mạnh đại đồn kết tồn dân tộc trong cơng cuộc xây dựng nông nghiệp,
nông dân, nông thôn đặc biệt là hưởng ứng phong trào thi đua “Thái Nguyên chung sức xây
dựng nông thôn mới” là một nội dung rất quan trọng.
Với chức năng, nhiệm vụ của mình, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội trên địa bàn tỉnh đã quan tâm đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến sâu rộng các nội
dung của Nghị quyết số 26-NQ/TW, Chương trình hành động của Tỉnh uỷ và Kế hoạch thực
hiện của UBND tỉnh đến cán bộ, hội viên, đoàn viên và các tầng lớp nhân dân, thơng qua đó
truyền tải kịp thời những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
cơ chế của tỉnh và từng địa phương về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; phản ánh,
biểu dương, nhân rộng những cách làm hay, mơ hình sáng tạo trong thực hiện Nghị quyết; giới
thiệu những điển hình mới, hiệu quả trong phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống
nông dân trên địa bàn. Qua đó, nhận thức của cán bộ, đảng viên và người dân về phát triển nông
nghiệp, nông dân, nông thôn và xây dựng nông thôn mới được nâng lên rõ rệt, tạo khí thế thi
đua yêu nước sôi nổi, thu hút được sự chủ động tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị và
tồn dân.
Bằng việc làm cụ thể, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội đã nỗ lực
vận động nhân dân hiến đất, đóng góp ngày cơng, kinh phí trong xây dựng đường giao thông
nông thôn; vận động người dân giữ gìn cảnh quan và vệ sinh mơi trường; quan tâm, coi trọng
tới đánh giá sự hài lòng của người dân trong việc hồn thiện 19 tiêu chí xây dựng nơng thơn
mới, từ đó góp phần vào mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trên địa bàn tỉnh.
Trong quá trình phối hợp đã huy động đóng góp của người dân và cộng đồng hiến được
471,8ha đất; huy động từ người dân, doanh nghiệp và các nguồn khác 10.763,1 tỷ đồng, trong
đó đóng góp của cộng đồng dân cư 2.699,2 tỷ đồng để xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn.
Bên cạnh việc vận động người dân đóng góp xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức thành viên còn phối hợp với Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới ở các
địa phương quan tâm, chăm lo cho hộ nghèo. Trong những năm qua, Quỹ vì người nghèo và An
12
Downloaded by BINH NGUYEN ()
lOMoARcPSD|38590726
sinh xã hội toàn tỉnh đã huy động được 1.015 tỷ đồng, trong đó Quỹ vì người nghèo các cấp đã
huy động được 82,35 tỷ đồng. Từ nguồn quỹ đã hỗ trợ xây dựng mới hàng nghìn ngơi nhà đại
đoàn kết, trao tặng trên 758.000 xuất quà cho các gia đình chính sách, người có cơng có hồn
cảnh khó khăn, các hộ nghèo, cận nghèo, các đối tượng bảo trợ xã hội,… góp phần giảm tỷ lệ
hộ nghèo chung tồn tỉnh đến năm 2017 cịn 9% (giảm 8,74% so với năm 2018); tính riêng khu
vực nơng thơn tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 11,94% (năm 2008 là 17,74%). Ban Thường trực Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh phối hợp chặt chẽ với Văn phịng điều phối Chương trình mục tiêu
quốc gia xây dựng nông thôn mới tỉnh hướng dẫn nội dung, cách thức, quy trình lấy ý kiến về
sự hài lòng của người dân đối với kết quả xây dựng nông thôn mới ở cấp huyện, xã. Thông qua
việc lấy ý kiến để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, đề xuất của nhân dân, phát huy vai trò làm chủ
của nhân dân trong xây dựng nông thôn mới, tạo sự gắn kết đồng bộ, hiệu quả giữa phong trào
thi đua “Thái Nguyên chung sức xây dựng nông thôn mới” và cuộc vận động “Tồn dân đồn
kết xây dựng nơng thôn mới, đô thị văn minh”; phối hợp thống nhất các chỉ tiêu trong Bộ tiêu
chí xã nơng thơn mới, xã nơng thơn mới kiểu mẫu, xóm nơng thơn mới kiểu mẫu và hộ gia đình
nơng thơn mới trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, giai đoạn 2017-2020. Đến năm 2017, tồn tỉnh có
279.255/314.122 gia đình được cơng nhận gia đình văn hố, đạt 88,9%; có 2.408/3.032 xóm
(thơn, làng, bản, tổ dân phố) được cơng nhận danh hiệu văn hố, đạt 79,41%.
Thực hiện Quyết định số 217-QĐ/TW, Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của
Bộ Chính trị (khố XI), hằng năm Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xây dựng kế
hoạch giám sát, phản biện xã hội; tổ chức giám sát theo kế hoạch tại các cơ quan, đơn vị, địa
phương, trong đó có nội dung liên quan đến giám sát thực hiện chính sách giảm nghèo, thực
hiện pháp luật về bảo vệ mơi trường, pháp luật về hồ giải, giám sát việc giáo dục cảm hoá
người lầm lỗi, thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội,…Đối với việc
vận động nhân dân tham gia Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Uỷ ban
Mặt trận Tổ quốc các cấp hướng dẫn nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với các dự án, các
nguồn vốn đầu tư, quá trình triển khai, tổ chức thực hiện để tăng hiệu quả, tránh lãng phí trong
việc huy động nguồn lực, các nguồn vốn của Chương trình. Bằng các hình thức khác nhau như:
giám sát trực tiếp, giám sát thông qua báo cáo, qua phiếu khảo sát, thành lập đoàn để tiến hành
giám sát, giám sát qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư cộng đồng,
Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Ban công tác Mặt trận khu dân cư, khu dân cư
tự quản,…Sau giám sát, Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh đã có báo cáo, kiến
nghị gửi các cơ quan chức năng, cấp uỷ Đảng, chính quyền và các ban, ngành có liên quan có
biện pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế trong thực hiện chính sách, thực hiện quy chế dân
chủ trong xây dựng nông thôn mới.
Để tiếp tục thực hiện hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần
thứ bảy (khố X) về “Nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn” trong thời gian tới, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội tiếp
tục triển khai thực hiện tốt một số nội dung trọng tâm đó là:
Đẩy mạnh cơng tác tun truyền tham gia xây dựng nông thôn mới trong hệ thống Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên các cấp và trong các tầng lớp nhân dân. Nâng cao nhận
thức của cán bộ Mặt trận và các đồn thể chính trị - xã hội về vai trò tiên phong, gương mẫu
trong thực hiện chủ trương xây dựng nông thôn mới. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng những cán
bộ Mặt trận và đoàn thể cấp cơ sở có kinh nghiệm trong phát triển kinh tế, nhiệt tình với cơng
13
Downloaded by BINH NGUYEN ()
lOMoARcPSD|38590726
tác xã hội, có trách nhiệm với quê hương để nhân điển hình, nêu gương cho quần chúng noi
theo.
Tăng cường tổ chức các đợt tập huấn cho cán bộ Mặt trận và các đồn thể; chú trọng
cơng tác kiểm tra, giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong việc thực hiện quy
hoạch xây dựng, thu chi tài chính, đền bù giải phóng mặt bằng, vận động đóng góp của nhân
dân đảm bảo cơng khai, minh bạch. Coi trọng việc giám sát của Ban Thanh tra nhân dân, Ban
Giám sát đầu tư cộng đồng theo hướng chú trọng nâng cao năng lực của các thành viên.
Phối hợp thực hiện tốt cuộc vận động “Toàn dân đồn kết xây dựng nơng thơn mới, đơ thị
văn minh” theo hướng thực chất, cụ thể như: xây dựng các danh hiệu trong xây dựng nông thôn
mới, nhân rộng mơ hình sản xuất kinh doanh giỏi, chăm lo gia đình chính sách,…xác định đây
là một trong những giải pháp quan trọng, lâu dài nhằm phát huy được sức mạnh của các tầng
lớp nhân dân trong tham gia công cuộc xây dựng nông thôn mới.
Có thể khẳng định sau 10 năm triển khai, đến nay, diện mạo nơng thơn có nhiều khởi sắc:
Điện, đường, trường, trạm và các thiết chế văn hóa được đầu tư nâng cấp, tạo điều kiện cho sản
xuất kinh doanh phát triển, đời sống vật chất và tinh thần nhân dân được cải thiện rõ nét, từng
bước đáp ứng nhu cầu cuộc sống của nhân dân.
Nhiều ngành nghề kinh tế ở nông thơn phát triển theo hướng đa dạng hố, tăng dần tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm sản xuất thuần nông, một số nghề, làng nghề truyền thống
được khôi phục.
thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ bảy (khố X) về
“Nơng nghiệp, nơng dân, nông thôn”, mục tiêu đầu tiên, quan trọng nhất đạt được đó là đã nâng
cao nhận thức một cách sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân về ý nghĩa của cơng cuộc xây dựng
nơng thơn, vai trị của nơng nghiệp và người nơng dân trong tiến trình phát triển đất nước; huy
động được sức mạnh, trách nhiệm và công sức của hệ thống chính trị các cấp; nhân dân đồng
tình, ủng hộ và tích cực tham gia thực hiện các mục tiêu Nghị quyết; diện mạo nơng thơn có
bước phát triển mới, đời sống của nhân dân được cải thiện nâng cao, góp phần quan trọng duy
trì phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, nâng cao vai trò lãnh đạo của cấp uỷ Đảng các
cấp ở khu vực nơng thơn, quốc phịng - an ninh được giữ vững.
4. Tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong sản xuất nông nghiệp hiện nay của nhân
dân ta:
*Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển nơng nghiệp Việt Nam hiện nay:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nơng nghiệp tồn diện được Đảng ta vận dụng sáng tạo
trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tại Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta khẳng
định: Phải đưa nông nghiệp tiến một bước theo hướng sản xuất lớn, nhằm yêu cầu chủ yếu là
tăng nhanh khối lượng và tỷ suất hàng hóa nơng sản. Nơng nghiệp phải được ưu tiên đáp ứng
những nhu cầu về đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, về vật tư, về lao động kỹ thuật;
những nguồn đầu tư ấy phải được sử dụng có hiệu quả. Đầu tư cho nông nghiệp phải đồng bộ từ
sản xuất đến chế biến, vận chuyển, bảo quản để có nhiều sản phẩm cuối cùng. Phương châm
phát triển nông nghiệp là kết hợp chun mơn hóa với phát triển tồn diện; phát triển mạnh cây
công nghiệp ngắn ngày. Phát triển nông nghiệp phải lấy thâm canh, tăng vụ là chính, đồng thời
mở rộng diện tích một cách vững chắc và có hiệu quả.....
14
Downloaded by BINH NGUYEN ()
lOMoARcPSD|38590726
Nghị quyết số 26/NQ-TW của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 Khóa X,
ngày 05-8-2008, “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”, đã khẳng định: “Nơng nghiệp, nơng
dân, nơng thơn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ
vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh - quốc phịng”.
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục chủ trương phát triển nơng - lâm - ngư
nghiệp tồn diện theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với giải quyết tốt vấn đề nông
dân, nông thôn và đã nêu rõ: “Phát triển nơng nghiệp tồn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả,
bền vững, phát huy lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới”.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng định chủ trương phát huy lợi
thế của ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng cơng nghệ cao, nâng
cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm; nâng cao giá trị gia tăng, đẩy
mạnh xuất khẩu… Đồng thời “đẩy nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nền nơng
nghiệp sinh thái phát triển tồn diện cả về nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng hiện đại, bền
vững, trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy ứng dụng sâu rộng
khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý
nơng nghiệp và đẩy nhanh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn để tăng năng
suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, bảo đảm chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh,
bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài; nâng cao thu nhập và
đời sống của nông dân”. Qua hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và hội nhập, trên cơ sở
phát huy lợi thế, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành tựu khá tồn diện và to lớn,
kinh tế nơng nghiệp phát triển, đời sống nông dân được cải thiện, bộ mặt nông thôn đã thay đổi
rõ rệt. Tuy nhiên, những hạn chế của ngành Nơng nghiệp, đó là năng suất lao động thấp, thiếu
chiến lược quy hoạch tổng thể dài hạn, giá trị gia tăng thấp, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, phân tán,
trình độ lao động trong nơng nghiệp thấp, cơ cấu kinh tế ngành Nông nghiệp chuyển dịch chậm,
đầu tư cho nơng nghiệp có xu hướng giảm, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển nơng nghiệp
tồn diện, khoa học - công nghệ cho nông nghiệp chậm phát triển…
*Vận dụng những nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nơng nghiệp tồn
diện vào tình hình hiện nay, cần chú trọng giải quyết các vấn đề:
Thứ nhất, cần rà sốt, điều chỉnh, hồn thiện chiến lược quy hoạch, kế hoạch của các ngành, các
lĩnh vực, các sản phẩm nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế của quốc gia, của vùng, của địa
phương, lựa chọn những vùng trồng cây lương thực và cây công nghiệp cho tiêu dùng, sản xuất
và cho xuất khẩu có năng suất cao nhất và giá trị gia tăng cao. Bởi, trên thực tế, một số sản
phẩm nông nghiệp hiện nay sản xuất đã vượt xa so với các chỉ tiêu quy hoạch đề ra. Chẳng hạn,
cà phê vượt 21,9%, cao su vượt 25%, hồ tiêu vượt 149%... Như vậy, chất lượng quy hoạch chưa
phù hợp, những dự báo trong quy hoạch còn thiếu chính xác.
Thứ hai, phát triển cơng nghiệp hỗ trợ cho phát triển nông nghiệp, gắn kết phát triển công
nghiệp với nông nghiệp, công nghiệp phải phục vụ nông nghiệp, đa dạng hóa ngành, nghề ở
nơng thơn để một mặt, cơng nghiệp hóa nơng nghiệp, phát triển cơng nghiệp chế biến, mặt khác
giải quyết vấn đề thừa lao động trong nông nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng của ngành nông
nghiệp, tạo điều kiện cho người dân cải thiện, nâng cao đời sống.
Thứ ba, hình thành các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh, quy mô lớn tạo thuận lợi cho ứng
dụng khoa học - công nghệ và phát huy lợi thế nhờ quy mơ, tập trung các nhóm sản phẩm chủ
15
Downloaded by BINH NGUYEN ()
lOMoARcPSD|38590726
lực quốc gia, của vùng, của địa phương, đa dạng hóa các hình thức liên kết gắn với việc xây
dựng thương hiệu, gắn nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế, đáp ứng nhu cầu, cơ cấu tiêu
dùng trong nước và thị trường quốc tế thay đổi.
Với những chủ trương và chính sách trên, ngành nơng nghiệp ngày càng phát triển, góp phần
thúc đẩy kinh tế-xã hội .Đây cũng là kết quả của quá trình vận dụng đúng đắn, sáng tạo tử tưởng
HỒ CHÍ MINH vào phát triển nông nghiệp hiện nay. Chúng ta càng phải ghi nhớ và thực hành
lời Chủ tịch Hồ Chí Minh ln đã dạy: “Đồn kết là vấn đề sống cịn”, “Khơng đồn kết thì suy
và mất. Có đồn kết thì thịnh và cịn. Chúng ta phải lấy đoàn kết mà xoay vần vận mệnh, giữ
gìn dân tộc và bảo vệ nước nhà”
Trái lại, lúc nào dân ta khơng đồn kết thì bị nước ngồi xâm lấn" hay câu chân lý mà ta vẫn
thường nghe thấy : “ Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết. Thành cơng, thành công, đại thành công
”. Những quan điểm trên của Người đã cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của tinh thần
đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau trong một tập thể, một cộng đồng. Đặc biệt là trong vấn
đề sản xuất nông nghiệp – một trong các trụ cột của nước ta. Đoàn kết tốt sẽ giúp trụ cột càng
thêm vững chắc, ngược lại nếu lục đục, chia rẽ nội bộ gây xung đột thì trụ cột ấy sẽ ngày càng
mềm yếu, khơng thể nâng đỡ cho đất nước mà thậm chí còn trở thành gánh nặng.
Vậy khi xảy ra sự mất đoàn kết và xung đột trong sản xuất nơng nghiệp thì sẽ xảy ra chuyện
gì ? Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, qua nhiều năm kháng chiến giành độc lập
từ thế hệ cha ông ta đến thế hệ chúng ta ngày nay được sống trong hồ bình độc lập. Phần lớn
chúng ta ai cũng mang trong mình truyền thống yêu nước, thương dân. Tuy nhiên, bên cạnh đó
cịn một bộ phận nhỏ những người chưa ý thức được hoặc vơ tình bị dụ dỗ, lôi kéo phản động.
Đảng và nhà nước ta cũng luôn quan tâm và theo dõi sát sao vấn đề này, đặc biệt là trong các
ngành sản xuất nông nghiệp. Như đã nói ở trên, nếu trụ cột bị rạn nứt mà khơng kịp thời sửa
chữa, khắc phục thì sẽ càng ngày càng yếu và cuối cùng sẽ sụp đổ thậm chí gây ra gánh nặng
cho chủ thể. Tương tự, nếu ngành nông nghiệp nước ta xảy ra tình trạng rạn nứt tình cảm, chia
bè kết phái, lục đục nội bộ thì nền nơng nghiệp sẽ ngày càng thụt lùi, khơng có tiến triển, kéo
theo đó là nền kinh tế nước ta giảm sút và không theo kịp các nước khác trên thế giới.
III. KẾT LUẬN:
Bài học:
Như vậy chúng ta đã biết, theo tư tưởng Hồ Chí Mình thì đồn kết dân tộc ta ln là muc
tiêu hàng đầu của Đảng ta. Trong thời kì hịa bình như bây giờ, chúng ta vẫn cần sự đoàn kết,
san sẻ cũng như giúp đỡ nhau ở khắp mọi nơi. Tại sao đoàn kết dân tộc ta lại quan trọng như
vậy? Bởi đó là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quyết định thành công của cách mạng ta. Trong sự
đồn kết đó thì lại chia sẻ về các mặt đoàn kết các khác nhau. Quan trọng nhất vẫn là nhân dân
ta cùng nhau đồn kết trong sản xuất nơng nghiệp, phát triển kinh tế và vươn xa hơn để sánh vai
với tồn cầu. Tại sao trong sản xuất nơng nghiệp ta lại rất quan trọng nhất? Vì con người chúng
ta muốn sống thì phải ăn, để có sức đánh giặc cũng cần ăn uống đầy đủ, mà những thứ đó là sản
phẩm của lao động sản xuất nên lao động sản xuất là quan trọng nhất.
Ngoài ra, nước ta là một nước thiên về nông nghiệp nên việc sản xuất nông nghiệp như
một sở trường lớn của dân tộc ta, chúng ta tự làm ra lương thực để phục vụ cho nhân dân ta.
Nhưng để muốn có sản phẩm của sản xuất nơng nghiệp được hiệu quả thì khơng chỉ là trồng rồi
16
Downloaded by BINH NGUYEN ()
lOMoARcPSD|38590726
chăm như nào cũng được. Mỗi loại cây đều sẽ có những cách sản xuất, chăm sóc khác nhau về
mọi mặt. Và điều này không phải những người nông dân nào cũng biết cách chăm bón.
Vậy mọi người trên mảnh đất hình chữ S xinh đẹp này nên học hỏi lẫn nhau để đưa đất
nước phát triển cũng như đưa nông sản của Việt Nam vươn xa hơn với thế giới. Một người có
kiến thức chăm cây, một người có đủ sức lực đẩy cầy, cuốc, thì sản xuất nơng nghiệp mới hiệu
quả được. Ngày xưa, khi nước ta chưa phát triển cơng nghiệp vẫn cịn nhiều người nơng dân thì
thường là cả làng cùng nhau đi gieo hạt, cùng nhau đi tát nước. Rồi đến đến khi thu hoạch cũng
là cùng nhau làm, như thế buổi lao động tuy mệt mỏi nhưng mọi người đều rất vui vẻ vì họ vừa
làm vừa nói chuyện, vui đùa với nhau. Hay là những khi phơi thóc mà trời đột ngột kéo mây
đen chuẩn bị mưa đến, có nhà nào vẫn chưa thu kịp hết thóc thì nhà khác thu xong sẽ chạy ra
giúp đỡ cùng nhau. Vì một khi thóc dính nước hết dễ bị hỏng mà như thế sẽ rất lãng phí thời
gian vừa rồi cất cơng chăm sóc, cũng là lãng phí sản phẩm nơng nghiệp ta được tạo ra. Ngày
xưa,tuy nền công nghiệp chưa phát triển và nền nông nghiệp cũng chưa nhiều thương trường để
ý nên năng suất của nước ta vẫn còn thấp.
Bây giờ, thế giới đã phát triển nhanh chóng nên các thương trường cũng dần biết đến Việt
Nam nhiều hơn. Và nông sản của đất nước ta cũng được mở rộng hơn với toàn cầu đưa mọi
người dân trong nước với ngoài nước biết đến những vùng quê xa xôi, hẻo lánh để mọi người
biết nhiều hơn về mảnh đất hình chữ S xinh tươi này. Hiện nay, tuy cơng nghiệp phát triển
nhưng vẫn còn rất nhiều người nông dân dải rác khắp nơi. Tuy không theo cả làng cùng làm như
ngày xưa nhưng nhân dân ta vẫn ln đồn kết, khơng ngại chia sẻ cho nhau cách chăm cây sao
cho tốt nhất hiện nay. Nhà Nước ta cũng luôn quan tâm đến vấn đề sản xuất nông nghiệp nên
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng thường tìm hiểu nghiên cứu ra những cách trồng,
chăm cây tối ưu hóa nhất để chia sẻ cho nhân dân ta.
Như vậy, chúng ta có thể thấy nhân dân ta vẫn luôn làm theo những lời Bác dạy. Nhân dân
ta đoàn kết cùng nhau sản xuất nơng nghiệp, thậm chí cịn xuất khẩu gạo ra thế giới để đem về
một nguồn kinh tế giúp cải thiện cuộc sống tốt đẹp hơn, cũng có thể nói là có của ăn của để.
Chất lượng cuộc sống nhân dân tăng lên, những người dân nghèo khó cũng dần giảm bớt đi.
Qua đó, ta thấy được lời Bác dạy thật hay và ý nghĩa biết bao. Chỉ cần nhân dân ta đồng lịng thì
khơng chỉ là chất lượng cuộc sống được cả thiện mà còn rất nhiều khó khăn nữa cũng có thể
vượt qua. Việt Nam ta vẫn luôn sống theo phương châm của Bác: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Lớp trẻ hiện nay cần làm gì:
Trước hết, chúng ta cần phải nhận thức được vai trò, giá trị to lớn của tinh thần đoàn kết,
tương thân tương ái trong Lao Động Sản Xuất. Hồ Chí Minh cho rằng, đối với các dân tộc
phương Đông giàu tình cảm, trọng đạo lý, việc tu dưỡng đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi con
người có vai trị vơ cùng quan trọng. Riêng với thế hệ trẻ hiện nay, việc tu dưỡng này còn quan
trọng hơn, vì họ là "những người chủ tương lai của nước nhà"; là cái cầu nối giữa các thế hệ -
"người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người dìu dắt thế hệ thanh
niên tương lai". Chính vì vậy, việc giáo dục đạo đức và chăm lo cho việc rèn luyện đạo đức của
sinh viên đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm. Nói chuyện với sinh viên, Người
khẳng định: "Thanh niên phải có đức, có tài. Có tài mà khơng có đức ví như một anh làm kinh
tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những khơng làm được gì ích lợi cho xã
hội mà cịn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà khơng có tài ví như ơng Bụt khơng làm hại gì,
17
Downloaded by BINH NGUYEN ()
lOMoARcPSD|38590726
nhưng cũng khơng lợi gì cho lồi người".Đồn kết dân tộc ta đã trở thành một động lực to lớn
để dân tộc ta cố gắng vượt qua bao biến cố, thăng trầm để tồn tại và phát triển bền vững. Đoàn
kết dân tộc là trách nhiệm của Đảng, của toàn dân tộc và của mỗi cá nhân. Phát huy sức mạnh
đại đoàn kết dân tộc đã trở thành một bài học kinh nghiệm lớn của dân tộc ta, là điều kiện bảo
đảm thực hiện thành công việc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay thì bài học kinh nghiệm này vẫn cịn
ngun giá trị và cần được tiếp tục phát huy để khơi dậy sức mạnh to lớn của dân tộc trong
công cuộc đổi mới vì các mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong q trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay việc chúng ta cần phát huy tinh
thần đại đồn kết dân tộc. Do đó, mỗi cá nhân cần quán triệt tư tưởng sâu sắc trong việc đấu
tranh với bản thân để noi theo những tấm gương đạo đức vĩ đại của Chủ Tịch Hồ Chí Minh.
Chúng ta phải luôn nâng cao tinh thần cảnh giác, chống những lời nói xun tạc về Đảng ta, về
Chủ tịch Hồ Chí Minh,và khơng ngừng phát huy nâng cao trình độ để thích ứng với điều kiện
xã hội mới, áp dụng triệt để và linh hoạt các nguyên tắc của Người tùy theo vị trí của mình như
tập trung dân chủ, kỷ luật nghiêm minh, tự giác trong công việc cũng như trong cuộc sống .
Đẩy mạnh việc tự học của bản thân, tự bồi dưỡng kiến thức để nâng cao chuyên môn,
tuyên truyền về đường lối chính sách của Đảng pháp luật của nhà nước. Chống các biểu hiện
suy thoái về phẩm chất đạo đức, luôn tu dưỡng phẩm chất đạo đức. Mỗi cá nhân chúng ta cần
có ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức: Cần gương mẫu rèn luyện phẩm chất tư cách, làm trịn
những nhiệm vụ được Đảng và chính quyền giao phó. Có lối sống cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư, hịa nhã với mọi người. Ln tự mình rèn luyện và trau dồi phẩm chất đạo đức, lối
sống. Thẳng thắn, trung thực bảo vệ công lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ
người tốt, chân thành, khiêm tốn, không bao che khuyết điểm, luôn có ý thức giữ gìn đồn kết
trong tập thể, trong cơ quan đơn vị. Bản thân cần tự đặt cho mình trong tổ chức, trong tập thể,
phải tơn trọng ngun tắc, pháp luật, không nên chia bè kéo cánh để làm rối loạn gây mất đồn
kết nội bộ.Cần có ý thức coi trọng việc tự phê bình và phê bình; phê phán những biểu hiện xuất
phát từ những động cơ cá nhân; động viên người thân trong gia đình giữ gìn đạo đức lối sống,
để thực hiện xây dựng gia đình văn hóa.
Để phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc ta hiện nay mỗi cá nhân không chỉ cần rèn luyện, tu
dưỡng đạo đức mà cịn cần phải khơng ngừng học hỏi nâng cao trình độ chun mơn.
Đánh giá thành viên nhóm 10
Tên Điểm
Phan Thảo My 9,8
Phan Trà My 9,8
Nguyễn Thị Hồng Ngát 9,6
Nguyễn Thị Ngân 9,5
Nguyễn Thị Kim Ngân 8,9
Nguyễn Thị Nguyệt 8,8
18
Downloaded by BINH NGUYEN ()