Tải bản đầy đủ (.pdf) (1,032 trang)

LUẬN TẠNG PHẬT GIÁO TUỆ QUANG - TẬP 281 PHẬT LỊCH 2560 - 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.63 MB, 1,032 trang )

LUẬN TẠNG PHẬT GIÁO TUỆ QUANG - TẬP 28/1


PHẬT LỊCH 2560 - 2016

LUẬN TẠNG PHẬT GIÁO
TUỆ QUANG

TẬP 28/1 - No. 1546


GIỚI THIỆU(1) TÓM LƯỢC
VỀ NỘI DUNG TẬP 28

Tiếp theo Tập 27 (ĐTK/ĐCTT, N0 1545), Tập 28 tiếp tục giới
thiệu các Luận thuộc Bộ A Tỳ Đàm, từ N0 1546 đến N0 1557, có thể
xem mảng Luận này là những liên hệ từ Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ
Bà Sa (N0 1545) cùng một số Luận nơi Luận A Tỳ Đạt Ma Lục Túc
(Sáu Luận mang số hiệu 1536, 1537, 1538, 1539, 1540, 1542 nơi
Tập 26).

1. Luận A Tỳ Đàm Tỳ Bà Sa: Tác giả là 500 vị A la hán, Hán
dịch là hai Đại sư Phù Đà Bạt Ma (Budhavarman. Thế kỷ 5 TL) và
Đạo Thái (Thế kỷ 5 TL), dịch vào khoảng 437-439 TL đời Bắc Lương
(397-439), gồm 100 quyển, do binh lửa nên hiện chỉ còn 60 quyển
đầu (ĐTK/ĐCTT, Tập 28, N0 1546, trang 1-414C). Đây tức là một
Dị dịch (Dịch trước) của Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa (N0 1545,
200 quyển) đã nói qua nơi Bài Giới Thiệu tóm lược nội dung Tập 27
ĐTK, 60 quyển cịn lại này chỉ mới giải thích, quảng diễn ba Kiền Độ
(Uẩn) là Tạp, Kiết và Trí, tương đương với 111 quyển (Quyển 1 – 111)
nơi bản Hán dịch của Pháp sư Huyền Tráng (N0 1545, 200 quyển).


Do dịch trước nên các từ ngữ, thuật ngữ Phật học được sử dụng trong
Luận N0 1546 này đều theo hệ Cựu dịch. Chẳng hạn: Uẩn thì nơi Luận
ấy dịch là Kiền độ. Tùy miên dịch là sử. Tâm, tâm sở pháp (Tâm, tâm
số pháp). Tầm, tứ (Giác, quán). Đạo gia hạnh, đạo vô gián, đạo giải

1 Xin xem phần giới thiệu tổng quát ở tập đầu của Luận tạng tiếng Việt.

6 LUẬN TẠNG PHẬT GIÁO TUỆ QUANG - TẬP 28

thốt (Đạo phương tiện, đạo vơ ngại, đạo giải thốt). Hữu biểu, vô
biểu (Hữu giáo, vô giáo). Năm uẩn, năm thủ uẩn (Năm ấm, năm thạnh
ấm). Trung hữu (Trung ấm). Hai thứ vô ký: Hữu phú vô ký, vô phú
vô ký (Ẩn một vô ký, bất ẩn một vô ký). Uẩn xứ giới (Ấm nhập giới).
Thắng xứ, biến xứ (Trừ nhập thắng xứ, nhất thiết xứ). Sáu nhân: Nhân
năng tác, nhân câu hữu, nhân đồng loại, nhân tương ưng, nhân biến
hành, nhân dị thục (Nhân sở tác, nhân cộng sinh, nhân tương tợ, nhân
tương ưng, nhân nhất thiết biến, nhân báo). Bốn duyên: Duyên nhân,
duyên đẳng vô gián, duyên sở duyên, duyên tăng thượng (Duyên
nhân, duyên thứ đệ, duyên cảnh giới, duyên oai thế). Năm quả: Quả
dị thục, quả đẳng lưu, quả sĩ dụng, quả tăng thượng, quả ly hệ (Quả
báo, quả y, quả công dụng, quả oai thế, quả giải thoát). Bốn tĩnh lự
(Bốn thiền). Bốn niệm trụ (Bốn niệm xứ). Bốn thơng hành: Khổ trì
thơng hành, khổ tốc thơng hành, lạc trì thơng hành, lạc tốc thơng hành
(Bốn chủng đạo: Khổ trì tuệ đạo, khổ tốc tuệ đạo, lạc trì tuệ đạo, lạc
tốc tuệ đạo). Khinh an (Ỷ). Chín thứ nhận biết khắp (Chín đoạn trí).
Niết bàn hữu dư y, Niết bàn vô dư y (Niết bàn hữu dư thân, Niết bàn
vô dư thân). Trạch diệt, phi trạch diệt (Số diệt, phi số diệt)…

Lại cũng do dịch trước, dịch vào thời kỳ mảng từ ngữ thuật ngữ
về A Tỳ Đàm chưa dồi dào, chưa chuẩn, nhiều thuật ngữ cịn đang

dị dẫm, hình thành, nên có nhiều đoạn nơi Luận N0 1546 văn nghĩa
diễn đạt chưa rõ, khó hiểu, phải tham khảo nơi Luận N0 1545 thì mới
lãnh hội được.

2. Luận Tỳ Bà Sa: Tác giả là Tôn giả Thi Đà Bàn Ni, Hán dịch
là Đại sư Tăng Già Bạt Trừng (Samghabhùti, thế kỷ 4 TL), dịch
vào đời Phù Tần (351-384), gồm 14 quyển (ĐTK/ĐCTT, Tập 28, N0
1547, trang 416-523B). Luận phân làm 2 phần chính với 42 xứ: Phần
1: Thuyết A Tỳ Đàm Bát Kiền Độ, gồm 15 xứ: Xứ ba kiết. Xứ ba căn
bất thiện. Xứ ba hữu lậu. Xứ bốn lưu. Xứ bốn thọ. Xứ bốn phược thọ.
Xứ năm cái. Xứ năm kiết. Xứ năm hạ kiết. Xứ năm thượng kiết. Xứ

LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA 7

năm kiến. Xứ sáu thân ái. Xứ bảy sử. Xứ chín kiết. Xứ chín mươi tám
sử. Phần 2: Giải thập mơn đại chương, gồm 27 xứ: Hai mươi hai căn.
Mười tám giới. Mười hai nhập. Năm ấm. Năm thạnh ấm. Sáu giới.
Sắc, vơ sắc pháp. Pháp có thể thấy – khơng thể thấy. Pháp có đối –
khơng đối. Pháp hữu lậu – vô lậu. Pháp hữu vi – vô vi. Ba đời. Thiện,
bất thiện, vô ký. Pháp hệ thuộc ba cõi. Pháp học, vô học, phi học phi
vô học. Pháp do kiến đoạn, do tư duy đoạn. Bốn Thánh đế. Bốn thiền.
Bốn đẳng. Bốn vơ sắc. Tám giải thốt. Tám trừ nhập. Mười nhất thiết
nhập. Tám trí. Ba tam muội. Trung ấm. Tứ sinh. Là những tóm lược
về một số đề mục tiêu biểu nơi Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa.

3. Luận Xá Lợi Phất A Tỳ Đàm (Sàriputràbhidharma – Sàstra):
Hán dịch là hai Đại sư Đàm Ma Da Xá (Thế kỷ 4 – 5 TL) và Đàm Ma
Quật Đa (Thế kỷ 4 – 5 TL), dịch vào đời Diêu Tần (384-417), gồm
30 quyển (ĐTK/ĐCTT, tập 28, N0 1548, trang 525-719A). Luận phân
làm bốn phần với 33 phẩm: Phần 1: 10 phẩm. Phần 2: 11 phẩm. Phần

3: 2 phẩm. Phần 4: 10 phẩm. Lần lượt nêu dẫn và biện giải về Nhập
(Xứ), Giới, Ấm (Uẩn). Bốn Thánh đế. Căn. Bảy giác. Căn thiện, bất
thiện. Đại chủng. Trí. Duyên. Niệm xứ. Bốn thiền. Phiền não. Mười
nghiệp đạo bất thiện. Mười nghiệp đạo thiện… Đây có thể là tác
phẩm A Tỳ Đạt Ma Tập Dị Môn Túc (N0 1536, 20 quyển, Tập 26) của
Tôn giả Xá Lợi Tử, đã được các Bộ phái Độc Tử Bộ, Chánh Lượng
Bộ hoằng truyền nên có sự bổ sung, sắp xếp lại.

4. Luận Tôn Bà Tu Mật Bồ Tát Sở Tập: Tác giả là Tôn giả Tôn
Bà Tu Mật. Hán dịch là Đại sư Tăng Già Bạt Trừng, dịch vào đời Phù
Tần, gồm 10 quyển (ĐTK/ĐCTT, Tập 28, N0 1549, trang 721-808A).
Bản Luận gồm 14 Kiền độ (Uẩn): Tụ. Tâm. Tam muội. Thiên. Tứ đại.
Khế kinh. Cánh lạc. Kiết sử. Hành. Trí. Kiến. Căn. Nhất thiết hữu.
Kệ. Soạn thuật theo dạng Luận A Tỳ Đạt Ma Phát Trí (N0 1544, Tập
26) và Luận Tạp A Tỳ Đàm Tâm (N0 1552, Tập 28). Về tác giả Tôn
Bà Tu Mật, Phật Quang ĐTĐ (Trang 4932 Hạ) ghi là theo các Học

8 LUẬN TẠNG PHẬT GIÁO TUỆ QUANG - TẬP 28

giả cận đại thì Tơn Bà Tu Mật là Tơn giả Thế Hữu (Vasumitra), một
trong bốn Đại Luận sư của Hữu Bộ, và tác phẩm này có thể do đệ tử
của Tơn giả soạn tập mà thành. Hth Trí Quang, trong dịch phẩm Dị
Tơng Luận thì nói rõ hơn: Tơn giả Thế Hữu là tác giả các luận: A Tỳ
Đạt Ma Giới Thân Túc (N0 1540, Tập 26, A Tỳ Đạt Ma Phẩm Loại
Túc (N0 1542, Tập 26), Luận Tôn Bà Tu Mật Bồ Tát Sở Tập (N0 1549,
Tập 28) và Luận Dị Bộ Tông Luân (N0 2031, Tập 49 – Sử Truyện
Bộ). Nhưng không phải là Tôn giả Thế Hữu, người đã chỉ đạo 500 vị
A la hán chú giải Luận A Tỳ Đạt Ma Phát Trí, biên tập tổng duyệt để
thành Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa 200 quyển, là thủ tọa của lần
kết tập kinh điển thứ tư… (Như vậy là có 2 Tơn giả Thế Hữu?) (Luận

Dị Bộ Tơng Ln. Hth Trí Quang dịch, chú. Bản in 1995, trang 39).

5. Luận A Tỳ Đàm Tâm (Abhidharmahrdaya – Sàstra): Tác
giả là Tôn giả Pháp Thắng (Dharma – S’resthin, thế kỷ 3 TL), một
Luận sư thuộc Hữu Bộ, sống vào khoảng thế kỷ 3 TL, đã căn cứ
theo Luận A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa, tóm kết những điểm tiêu biểu
soạn thành 250 kệ, tức là Luận A Tỳ Đàm Tâm. Luận này đã được
Đại sư Tăng Già Đề Bà (Samghadeva. Thế kỷ 4 TL) Hán dịch, Đại
sư Tuệ Viễn (334-416) chỉnh lý vào đời Đông Tấn (317-419) gồm 4
quyển (ĐTK/ĐCTT, Tập 28, N0 1550, trang 809-833B), phân làm 10
phẩm: Giới. Hành. nghiệp. Sử (Tùy miên). Hiền Thánh. Trí. Định.
Khế kinh. Tạp. Luận.

6. Luận A Tỳ Đàm Tâm Kinh: Do Đại sư Ưu Ba Phiến Đa
(Upasànta - Thế kỷ 3 TL) soạn thuật, Đại sư Na Liên Đề Da Xá
(Narendrayasas – 490 589) Hán dịch vào đời Cao Tề (550-577) gồm
6 quyển (ĐTK/ĐCTT, Tập 28, N0 1551, trang 833B-869B) và Luận
Tạp A Tỳ Đàm Tâm, do Đại sư Pháp Cứu (Dharma - etràta, thuộc
hệ của Tôn giả Pháp Thắng) soạn thuật, Đại sư Tăng Già Bạt Ma
(Samghavarman. Thế kỷ 5 TL) Hán dịch, dịch vào đời Lưu Tống
(420 478), gồm 11 quyển (ĐTK/ĐCTT, Tập 28, N0 1552, trang

LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA 9

869C-965C) là 2 Luận giải thích, quảng diễn Luận A Tỳ Đàm Tâm
của Tôn giả Pháp Thắng.

7. Luận Nhập A Tỳ Đạt Ma: Tác giả là Tôn giả Tắc Kiến Đà La
(ĐTK/ĐCTT, Tập 28, N0 1554, 2 quyển, trang 980B-989A) và Luận
Ngũ Sự Tỳ Bà Sa do Tôn giả Pháp Cứu soạn thuật (ĐTK/ĐCTT,

Tập 28, N0 1555, 2 quyển, trang 989A-995B), cả hai đều do Pháp
sư Huyền Tráng Hán dịch, là những Luận ngắn mang tính nhập môn
về A Tỳ Đàm. Luận N0 1554 lần lượt giải thích về sắc (Đại chủng
và sắc được tạo), về thanh, hương, vị, xúc. Giải thích tóm lược về
thọ, tưởng, hành (Tương ưng, không tương ưng), về ba căn thiện,
ba căn bất thiện, về kiết, tùy miên, tùy phiền não, triền cái, về các
trí … Luận N0 1555 là giải thích Phẩm Biện Về Năm Sự nơi Luận A
Tỳ Đạt Ma Phẩm Loại Túc (N0 1542, Tập 26) của Tôn giả Thế Hữu
(Phẩm Biện Về Năm Sự gồm các phần: Năm pháp (Sắc, tâm, tâm sở
pháp, tâm bất tương ưng hành và vô vi). Bốn đại chủng. Năm căn.
Năm trần. Sáu thức thân. Các tâm sở. Chín thứ kiết. Ba phược. Bảy
tùy miên. Các tùy phiền não. Tám thứ tâm sở trói buộc hành uẩn.
Mười thứ trí. Tám thứ nhẫn hiện quán biên. Các thứ tâm bất tương
ưng hành). Luận N0 1555 cũng được Đại sư Pháp Thành (Người Tây
Tạng, thế kỷ 9 TL) Hán dịch, mang tên: Luận Tát Bà Đa Tông Ngũ
Sự (ĐTK/ĐCTT, Tập 28, N0 1556, 1 quyển, trang 995C-998A).

8. Luận A Tỳ Đàm Cam Lộ Vị: Do Tôn giả Cù Sa (Diệu Âm)
soạn thuật, mất tên người Hán dịch, được dịch vào đời Tào Ngụy
(220-265), gồm 2 quyển (ĐTK/ĐCTT, Tập 28, N0 1553, trang 966-
980B) và Kinh A Tỳ Đàm Ngũ Pháp Hành, do Đại sư An Thế Cao
(Thế kỷ 2 TL) Hán dịch, dịch vào đời Hậu Hán (25-220) gồm 1
quyển (ĐTK/ĐCTT, Tập 28, N0 1557, trang 998A-1001B), là 2 Luận
A Tỳ Đàm đã được Hán dịch sớm nhất, Luận A Tỳ Đàm Cam Lộ Vị
được phân làm 16 phẩm ngắn, lần lượt nêu dẫn, biện giải về: Bố thí.
Trì giới. Cõi. Nẻo. Bốn thức trụ. Bốn thứ ăn. Bốn loài. Nghiệp. Quả.

10 LUẬN TẠNG PHẬT GIÁO TUỆ QUANG - TẬP 28

Ấm Trì Nhập (Uẩn giới xứ). Bốn duyên. Sáu nhân. Hai mươi hai

căn. Chín mươi tám sử (Tùy miên). Sáu pháp A la hán. Mười trí. Bốn
thiền (Bốn tĩnh lự)… Kinh A Tỳ Đàm Ngũ Pháp Hành (Hầu hết dịch
phẩm của Đại sư An Thế Cao về Kinh Luật Luận đều mang tên là
Kinh) thì nêu dẫn và giải thích về năm pháp (Sắc. Tâm. Tâm sở. Tâm
bất tương ưng hành. Vô vi). Năm pháp được Đại sư An Thế Cao dịch
là: Sắc. Ý (Tâm). Sở niệm (Tâm sở). Biệt ly ý hành (Tâm bất tương
ưng hành). Vô vi.

Nhìn chung, các Luận nơi Tập 28 ĐTK hầu hết đều được Hán
dịch theo hệ Cựu dịch (Trừ hai Luận ngắn N0 1554, N0 1555 do Pháp
sư Huyền Tráng Hán dịch). Người đọc cần có những lưu ý tối thiểu
về mảng từ ngữ – thuật ngữ thuộc A Tỳ Đàm theo hệ Cựu dịch đối
chiếu với hệ Tân dịch (Chúng tôi đã nêu dẫn đối chiếu một số thuật
ngữ tiêu biểu nơi phần giới thiệu Luận A Tỳ Đàm Tỳ Bà Sa (N0
1546). Như thế là chúng ta sẽ thấy, phần lớn mảng từ ngữ – thuật
ngữ thuộc A Tỳ Đàm theo hệ Cựu dịch kia là chưa chuẩn, chưa đạt,
phải đến Pháp sư Huyền Tráng (602-664) Hán dịch thì mảng từ ngữ
– thuật ngữ ấy mới đạt tới chuẩn mực, ổn định. Mặt khác, chúng ta
cũng thấy được phần nào những công sức, những nỗ lực của nhiều
thế hệ dịch giả Hán dịch, trải qua các đời, đã dị dẫm tìm kiếm, tạo ra
những danh xưng, những thuật ngữ thích hợp để chuyển dịch, khiến
cho chánh pháp dễ đến gần với muôn người.

Chủ tịch Tuệ Quang Foundation
Nguyên Hiển.

LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA 11

SỐ 1546/60


LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA

Tác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử.
Giải thích: Năm trăm A La Hán.
Hán dịch: Đời Bắc Lương,

Sa môn Phù Đà Bạt Ma, Đạo Thái v.v...
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ.

QUYỂN 1

Thế nào là Pháp thế đệ nhất? Vì sao gọi là Pháp thế đệ nhất?
Chương như thế cùng giải thích nghĩa của chương, ở đây nên nói
rộng, là Ưu-ba-đề-xá.

Hỏi: Ai tạo ra Kinh (Luận) này?
Đáp: Là Đức Phật - Thế Tơn. Vì sao? Vì tánh tướng của các
pháp rất sâu xa, vi diệu, chỉ có bậc Nhất thiết trí mới có thể xét đốn
tường tận.
Hỏi: Ai hỏi, ai đáp?
Đáp: Hoặc có người nói: Tơn giả Xá-lợi-phất hỏi, Đức Phật đáp.
Lại có thuyết nói: Năm trăm vị A-la-hán hỏi, Đức Phật đáp.
Lại có thuyết nói: Chư thiên hỏi, Đức Phật đáp.
Lại có thuyết nói: Người biến hóa hỏi, Đức Phật đáp. Vì sao?
Vì tánh tướng của các pháp phải nên nói rộng, nhưng khơng có người

12 LUẬN TẠNG PHẬT GIÁO TUỆ QUANG - TẬP 28

hỏi. Bấy giờ, Đức Thế Tơn hóa làm Tỳ-kheo, cạo bỏ râu tóc, vận y
Tăng-già-lê, hình dạng đoan nghiêm. Vị Tỳ-kheo ấy hỏi, Đức Phật

đáp. Chẳng hạn như hỏi: Nhân duyên của các nghĩa kinh.

Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao lại nói là do Tôn giả Ca Chiên Diên
Tử tạo?

Đáp: Vì Tơn giả kia thường ưa thích thọ trì đọc tụng, vì người
khác giải thích, nói rộng, khiến được lưu hành phổ biến, danh xưng
quy về Tôn giả, nên nói là do Tơn giả tạo.

Lại có thuyết nói: Chính Tơn giả Ca Chiên Diên Tử kia tạo ra
Kinh (Luận) này.

Hỏi: Vừa nói: Tánh tướng của các pháp rất sâu xa, vi diệu, chỉ
có bậc Nhất thiết trí mới có thể xét đốn tường tận. Vậy Tơn giả Ca
Chiên Diên Tử sao có thể tạo được?

Đáp: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử kia cũng có trí tuệ sâu rộng,
mạnh mẽ, nhạy bén, khéo nhận biết về tướng chung, tướng riêng. Lại
nhận biết văn nghĩa và biên vực trước sau, thông suốt ba Tạng, ba
Minh, sáu Thông, đầy đủ tám Giải thốt, lìa dục của ba cõi, chứng
được Nguyện trí, đã tu hành và lập nguyện nơi trụ xứ của năm trăm
vị Phật: Nguyện cho tôi vào đời vị lai, trong giáo pháp để lại của Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni, có thể tạo ra Kinh A-tỳ-đàm.

Hỏi: Nếu như vậy thì A-tỳ-đàm của Phật là thế nào?

Đáp: Đức Thế Tơn ở mỗi mỗi phương sở, thơn ấp, vì hóa độ
chúng sinh nên đã tạo ra vô số cách nêu giảng. Tôn giả Ca Chiên
Diên Tử kia, ở trong vô số cách nêu giảng ấy đã lập môn, chương, tạo
kệ tụng, đặt tên phẩm, nêu những Kiền độ (nhóm): Ví như khi nói về

nhiều thứ nghĩa khơng giống nhau, đã lập ra Kiền độ Tạp. Hoặc khi
nói tướng của sử, lập ra Kiền độ Sử. Hoặc khi nói tướng của trí, lập
ra Kiền độ Trí. Hoặc nói tướng của nghiệp, lập ra Kiền độ Nghiệp.

LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA 13

Hoặc nói tướng của bốn đại, lập ra Kiền độ Bốn đại. Nếu nói tướng
của căn, lập ra Kiền độ Căn. Nếu nói tướng của định, lập ra Kiền độ
Định. Nếu nói tướng của kiến, lập ra Kiền độ Kiến. Như Kinh Pháp
Cú có nói: “Đức Thế Tơn đã vì chúng sinh nên ở mỗi mỗi phương sở,
thôn ấp, dùng vô số cách nói để diễn giảng”.

Tôn giả Đạt-ma-đa-la (Pháp Cứu – Soạn giả Kinh Pháp Cú – ND
ghi), sau khi Phật diệt độ, trong vô số cách giảng nói ấy, đối với nghĩa
của vơ thường đã lập ra phẩm Vô thường, cho đến nghĩa của Phạm chí
lập ra phẩm Phạm chí. Tơn giả Ca Chiên Diên Tử này cũng lại như thế.

Lại, chư Phật xuất hiện ở đời, đều giảng nói về ba Tạng. Đó là
Tu-đa-la, Tỳ-ni, A-tỳ-đàm.

Hỏi: Có gì khác biệt giữa Tu-đa-la, Tỳ-ni và A-tỳ-đàm?

Đáp: Hoặc có người nói: Khơng có khác biệt. Vì sao? Vì đều
xuất phát từ dịng sơng Phật của một biển trí, nhân nơi tâm đại từ mà
giảng nói.

Lại có thuyết nói: Cũng có khác biệt. Khác biệt như thế nào?
Tức tên gọi khác biệt. Nghĩa là: Đây là Tu-đa-la. Đây là Tỳ-ni. Đây
là A-tỳ-đàm. Lại nữa, khác biệt vì phân biệt về tâm gọi là Tu-đa-la,
phân biệt về giới gọi là Tỳ-ni, phân biệt về tuệ gọi là A-tỳ-đàm.


Hỏi: Nếu như vậy thì trong Tu-đa-la cũng phân biệt về giới,
cũng phân biệt về tuệ. Trong Tỳ-ni cũng phân biệt về tâm, cũng phân
biệt về tuệ. Trong A-tỳ-đàm cũng phân biệt về tâm, cũng phân biệt về
giới. Ba Tạng như thế có gì khác biệt?

Đáp: Vì dựa vào phần nhiều: Trong Tu-đa-la phần nhiều nói
về Tâm pháp. Trong Tỳ-ni phần nhiều nói về Giới pháp. Trong A-tỳ-
đàm phần nhiều nói về Tuệ pháp.

Lại nữa, ngay trong Tu-đa-la: Nếu phân biệt về tâm gọi là Tu-
đa-la. Nếu phân biệt về giới gọi là Tỳ-ni. Nếu phân biệt về tuệ gọi là

14 LUẬN TẠNG PHẬT GIÁO TUỆ QUANG - TẬP 28

A-tỳ-đàm. Trong A-tỳ-đàm: Nếu phân biệt về giới gọi là Tỳ-ni. Nếu
phân biệt về tâm gọi là Tu-đa-la. Nếu phân biệt về tuệ gọi là A-tỳ-
đàm. Trong Tỳ-ni: Nếu phân biệt về tuệ gọi là A-tỳ-đàm. Nếu phân
biệt về giới gọi là Tỳ-ni. Nếu phân biệt về tâm gọi là Tu-đa-la. Như
thế, đó gọi là sự khác biệt của ba Tạng.

Lại nữa, trong Tu-đa-la: Nên tìm xét về thứ lớp. Vì những lý
do nào Đức Thế Tơn nói Tu-đa-la ấy – Kế đến lại nói Tu-đa-la này?
(Như nói: Tin Phật, tiếp theo nên tin pháp, là nghĩa tìm xét về thứ
lớp). Trong Tỳ-ni: Nên tìm xét về nhân dun. Như nói giới này
dun nơi việc như thế nào để chế lập? Trong A-tỳ-đàm: Nên dùng
tướng để tìm xét, khơng dùng thứ lớp.

Lại nữa, Tu-đa-la vì dựa vào lực, nên nói. Tỳ-ni vì dựa vào đại
từ, nên nói. A-tỳ-đàm vì dựa vào vơ úy, nên nói.


Lại nữa, trong vô số cách nêu bày, giảng nói có sự xen lẫn gọi
là Tu-đa-la. Nói rộng về giới luật gọi là Tỳ-ni. Nói về tướng chung,
tướng riêng gọi là A-tỳ-đàm.

Lại nữa, chưa gieo trồng căn thiện khiến gieo trồng căn thiện,
gọi là Tu-đa-la. Đã gieo trồng căn thiện, muốn khiến cho thành thục,
gọi là Tỳ-ni. Khi căn thiện đã thành thục, được chánh giải thoát, gọi
là A-tỳ-đàm.

Lại nữa, vì đầu tiên nhập pháp, nên gọi là Tu-đa-la. Đã nhập
trong pháp, là thọ trì giới, nên gọi là Tỳ-ni. Người đã thọ trì giới rồi,
khiến được chánh giải, gọi là A-tỳ-đàm.

Tu-đa-la, Tỳ-ni, A-tỳ-đàm, như vậy gọi là khác biệt.

Hỏi: Tơn giả kia vì nhân duyên gì tạo ra Kinh (Luận) này?

Đáp: Vì muốn đem lại lợi ích cho người khác. Nếu có người
nào thọ trì đọc tụng thơng suốt, thuyết giảng để sự nhớ nghĩ được
thích hợp, vô lượng phiền não và các hành ác không hiện tiền, do sự

LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA 15

tu tập ân cần này, nên có thể hội nhập pháp tướng. Ví như có người
muốn giúp ích cho người khác, trong ngôi nhà tối tăm đốt lên ngọn
đèn lớn, để cho kẻ có mắt được trơng thấy các thứ sắc. Tơn giả kia
cũng lại như thế. Vì muốn giúp ích cho người khác nên tạo ra Kinh
(Luận) này. Đức Phật cũng như vậy. Vì đem lại lợi ích cho chúng
sinh, nên đã giảng nói mười hai bộ kinh:


(1) Tu Đa La.
(2) Kỳ Dạ.
(3) Ba Già La Na.
(4) Già Đà.
(5) Ưu Đà Na.
(6) Ni Đà Na.
(7) A Ba Đà Na.
(8) Y Đế Mục Đa Già.
(9) Xà Đà Già.
(10) Tỳ Phật Lược.
(11) A Phù Đà Đạt Ma.
(12) Ưu Ba Đề Xá.

Vì sao? Vì có chúng sinh, tuy có nhân trong, nhưng khơng có
dun ngồi, chung quy vẫn không thể tu hạnh thắng tấn, nếu gặp
duyên ngồi thì có thể tu hành. Ví như các thứ hoa Bát-đầu-ma, Phân-
đà-lợi, Câu-vật-đầu, Ưu-bát-la ở trong ao nước, nếu ánh sáng mặt trời
không soi chiếu đến, chúng sẽ không nở rộ, không tỏa hương. Nếu
ánh sáng mặt trời soi chiếu đến, thì chúng tất trổ hoa, tỏa ngát hương.
Hoặc như trong ngơi nhà tối có vơ số các vật, nếu khơng có ánh đèn
chiếu vào, tất khơng thể trơng thấy các vật ấy, hễ có ánh đèn sáng thì
thấy rõ. Chúng sinh cũng như vậy, tuy có nhân bên trong, nhưng nếu
khơng có dun bên ngồi, thì trọn khơng thể tu hành thắng tấn. Nếu
gặp ngoại dun thì có thể tu tập hành thắng tấn.

16 LUẬN TẠNG PHẬT GIÁO TUỆ QUANG - TẬP 28

Do duyên này, Đức Phật nói kệ:


Ví như trong nhà tối
Tuy có vơ số vật
Nếu không đèn chiếu sáng
Có mắt khơng thể thấy.
Nếu người tuy có trí
Không nghe pháp từ người
Người ấy trọn không thể
Phân biệt nghĩa thiện, ác.
Ví như người có mắt
Nhờ đèn thấy các sắc
Có trí dựa đa văn
Phân biệt nghĩa lành, dữ.
Đa văn hay biết pháp
Đa văn hay tránh ác
Đa văn lìa vơ nghĩa
Đa văn được Niết-bàn.

Kinh Phật cũng nói: Có hai nhân, hai duyên nên phát sinh chánh
kiến: (1) Nghe pháp từ người khác. (2) Bên trong tư duy chân chánh.

Lại nói: Người có được bốn pháp là rất hy hữu: (1) Gần gũi
thiện tri thức. (2) Nghe pháp từ người khác. (3) Bên trong tư duy
chân chánh. (4) Tu hành đúng như pháp.

Lại nói: Nếu đệ tử của Ta nhất tâm lắng nghe pháp, tất có thể
đoạn trừ năm thứ ngăn che, tu hành đầy đủ bảy pháp giác phần. Như
Đức Phật Thế Tơn, vì tạo lợi ích cho người khác, nên đã nói mười hai
bộ kinh. Tơn giả Ca Chiên Diên Tử kia cũng lại như thế.

Lại nữa, vì nhằm phá trừ bóng tối của vơ minh, như đèn xua tan

bóng tối, tạo ra ánh sáng, A-tỳ-đàm cũng lại như thế: Phá trừ bóng tối
vơ minh, ban cho ánh sáng trí tuệ.

LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA 17

Lại nữa, vì muốn khiến cho hình tượng vơ ngã được phân minh.
Ví như gương soi sáng, chiếu các sắc tượng. Nếu người có thể dùng
tuệ của A-tỳ-đàm, khéo phân biệt tướng chung, tướng riêng, thì hình
tượng người vơ ngã tự nhiên hiển hiện.

Lại nữa, vì muốn vượt qua sơng sinh tử. Ví như trăm ngàn na-
do-tha chúng sinh đều nương dựa nơi chiếc thuyền vững chắc, khơng
có chút sợ hãi, tức có thể từ bờ bên này sang đến bờ bên kia. Như
thế, hàng trăm ngàn na-do-tha chư Phật, Thế Tôn và các quyến thuộc
cũng lại như vậy. Dựa vào thuyền A-tỳ-đàm, khơng sợ hãi, nên có thể
từ bờ bên này sang đến bờ bên kia.

Lại nữa, vì muốn các Luận, Kinh làm ngọn đèn sáng. Như
người cầm đuốc đi vào bóng tối, trọn khơng có sợ hãi. Như thế,
người tu hành cầm đuốc A-tỳ-đàm, ở trong nghĩa của các Kinh khơng
có gì sợ hãi.

Lại nữa, vì muốn quan sát các pháp thiện, bất thiện, vô ký. Như
người khéo nhận biết về vật báu, tức khéo phân biệt về các thứ báu
như kim cương v.v… Như thế, người trí dùng tuệ A-tỳ-đàm để phân
biệt các pháp thiện, bất thiện, vô ký.

Lại nữa, vì hiện bày người của A-tỳ-đàm như núi Tu-di
khơng gì có thể làm cho nghiêng động. Như núi chúa Tu-di an
trụ trên địa Kim luân, gió mạnh bốn phương thổi đến vẫn không

thể làm lay động. Như thế, người trí đã dùng núi Tu-di của tuệ
A-tỳ-đàm, an trí trên địa Kim ln giới, thì bốn thứ gió tà điên đảo
không thể lay động.

Lại nữa, do ba nhân duyên nên Tôn giả Ca Chiên Diên Tử tạo
ra Kinh (Luận) này: (1) Vì tăng ích nơi trí. (2) Vì mở bày giác ý. (3)
Vì đoạn trừ ngã, nhân.

Tăng ích nơi trí: Nghĩa là tất cả Kinh, Luận trong pháp nội,
ngoại, khơng gì bằng A-tỳ-đàm.

18 LUẬN TẠNG PHẬT GIÁO TUỆ QUANG - TẬP 28

Mở bày giác ý: Nghĩa là chúng sinh thường ngủ say, khơng có
lúc thức, do đó khơng biết cái gì là sử nhất thiết biến? Cái gì là sử
khơng biến? Cái gì là tự giới duyên nơi sử biến? Cái gì là tha giới
duyên nơi sử biến? Cái gì là duyên hữu lậu? Cái gì là dun vơ lậu?
Cái gì là dun hữu vi? Cái gì là dun vơ vi? Thế nào là gồm thâu?
Thế nào là tương ưng? Thế nào là nhân? Thế nào là duyên? Ai thành
tựu? Ai không thành tựu? Người có thể nhận biết rõ các pháp xa gần
như thế v.v... là nhờ uy lực của A-tỳ-đàm.

Đoạn trừ ngã, nhân: Nghĩa là Tôn giả Ca Chiên Diên Tử kia,
tạo ra Kinh (Luận) A-tỳ-đàm, chưa từng nói có ngã, có nhân, trong
tất cả xứ thường nói khơng có ngã, khơng có nhân.

Do các nhân duyên như thế v.v..., nên Tôn giả kia tạo ra Kinh
(Luận) A-tỳ-đàm này.

Hỏi: Thể của A-tỳ-đàm là gì?


Đáp: Là tuệ căn vô lậu. Tự thể gồm thâu một giới, một nhập,
một ấm. Một giới nghĩa là pháp giới. Một nhập nghĩa là pháp nhập.
Một ấm nghĩa là hành ấm. Nếu lấy tương ưng, có chung thì gồm thâu
ba giới, hai nhập, năm ấm. Ba giới là ý giới, ý thức giới và pháp giới.
Hai nhập là ý nhập, pháp nhập. Năm ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Lại, Tu-đa-la có nói: Này Đế thích! Trong suốt đêm dài sinh tử,
tâm chân chất, ngay thẳng, khơng có quanh co, dua nịnh. Những điều
đã hỏi, vì để nhận biết rõ, không phải để nhiễu loạn, nên Ta sẽ dùng
A-tỳ-đàm thâm diệu để cho ông tùy ý hỏi. Ở đây, cái gì là nghĩa thâm
diệu? Đó là tuệ căn vơ lậu.

Lại như kinh nói: Có Phạm chí, họ Độc tử, tánh chân chất, ngay
thẳng, khơng có quanh co, dua nịnh. Những điều ơng đã hỏi, vì để
nhận biết rõ, khơng phải để quấy nhiễu, nên Ta sẽ dùng A-tỳ-đàm
thâm diệu để cho ông tùy ý hỏi. Ở đây, cái gì là nghĩa thâm diệu? Đó
là tuệ căn vơ lậu.

LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA 19

Lại có Bà-la-mơn Phạm-ma-du và Phạm chí Tu-bạt, cũng nói
như trên.

Như Đức Phật nói với Phạm chí Tiên Ni: Pháp của Ta rất thâm
diệu, khó hiểu, khó diễn đạt, khó biết, khó thấy, khơng phải là đối
tượng của tư duy, phân biệt có thể đạt tới. Chỉ có trí vi diệu quyết
định mới có thể nhận biết được pháp ấy. Vì sao? Vì khơng tức là
vơ ngã, cịn ơng thì chấp ngã. Ơng ln ở trong đêm dài sinh tử, có
kiến khác, dục khác, tâm khác. Do đó, nên trí cạn cợt của ơng thì

khơng thể đạt được. Ở đây, cái gì là nghĩa thâm diệu? Đó là tam
muội khơng.

Như nói người ngu khơng có mắt mà lại cùng với Tỳ-kheo,
Thượng tọa trí tuệ biện luận về nghĩa rất sâu xa. Ở đây, cái gì là nghĩa
rất sâu xa? Đó là pháp thối chuyển.

Như Đức Phật nói với Tôn giả A-nan: Pháp mười hai nhân
duyên này rất sâu xa, khó hiểu, khó diễn đạt, khó nhận biết, khó thấy,
khơng phải là nơi chốn có thể đạt đến của tư duy, phân biệt. Chỉ có
trí vi diệu quyết định mới có thể nhận biết, chẳng phải là trí cịn kém
cỏi của ơng có thể đạt tới. Ở đây, cái gì là nghĩa rất sâu xa? Đó là
nhân dun.

Như nói: Xứ này rất sâu xa, đó là dun khởi. Pháp này lìa dục,
là tịch diệt, Niết-bàn. Ở đây, cái gì là nghĩa rất sâu xa? Đó là tánh tịch
diệt của nhân duyên.

Như nói: Các pháp rất sâu xa nên khó thấy, vì khó thấy nên rất
sâu xa. Ở đây, cái gì là nghĩa rất sâu xa? Đó là thể tánh sâu xa của tất
cả các pháp.

Hỏi: Cái gì là thể của A-tỳ-đàm?

Đáp: Là tuệ căn vô lậu. Do sức của tuệ căn vô lậu, nên khiến
cho xứ sinh được tuệ, có thể thọ trì mười hai bộ kinh, đọc tụng thông
suốt, cũng gọi là A-tỳ-đàm.

20 LUẬN TẠNG PHẬT GIÁO TUỆ QUANG - TẬP 28


Lại, do sức của tuệ căn vơ lậu, nên có thể khiến cho văn tuệ
nhận biết được tướng riêng, tướng chung. Lại khiến cho văn tuệ kiến
lập tướng chung, tướng riêng. Lại còn giúp cho văn tuệ đoạn trừ cái
ngu của tự tánh và cái ngu trong duyên, không nhận lầm về pháp.
Lại, do sức của tuệ căn vơ lậu, nên có thể khiến cho tư tuệ, an ban,
niệm xứ về bất tịnh, cũng gọi là A-tỳ-đàm.

Lại, do sức của tuệ căn vơ lậu, nên có thể làm cho tu tuệ đạt
được Noãn, Đảnh, Nhẫn và Pháp thế đệ nhất, cũng gọi là A-tỳ-đàm.

Lại, do tuệ như thế v.v... khiến cho tuệ căn vô lậu càng thêm
được sáng sạch, cũng gọi là A-tỳ-đàm.

Hỏi: Nếu tuệ căn vơ lậu là Thể của A-tỳ-đàm, thì vì sao Kinh
(Luận) này lại gọi là A-tỳ-đàm?

Đáp: A-tỳ-đàm đầy đủ nên cũng gọi là A-tỳ-đàm. Như trong
rất nhiều xứ của kinh có nói: Nhân nơi vơ số thứ đầy đủ nên lập vô
số tên gọi.

Do lậu đầy đủ, nên nói là lậu. Như nói bảy lậu là phiền não, là
sự cháy bùng, là khổ não. Thật ra lậu có ba, đó là dục lậu, hữu lậu,
vơ minh lậu.

Vì cấu uế có đủ nên nói là cấu uế. Như kệ nói:

Nữ cấu phạm hạnh
Nữ buộc chúng sinh
Khổ hạnh phạm hạnh
Không nhờ nước sạch.


Người nữ thật ra không phải là cấu uế. Cấu uế thật sự có ba, đó
là cấu uế của tham, sân, si.

Vì vui đầy đủ nên nói là vui. Như kệ nói:

Khi ăn uống vui
Mặc y cũng vui


×