Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tiểu luận Chính trị học - Mối quan hệ Mỹ - Trung ở Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (810.62 KB, 26 trang )

MỤC LỤC

I. PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................... 3
II. PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................... 4

1. Lý giải thuật ngữ ...................................................................................... 5
1.1. Quan hệ quốc tế và mối quan hệ chính chị quốc tế hiện nay ......... 6
2.1. Cường quốc là gì ?.............................................................................. 7

2. Đặc điểm của các cường quốc ................................................................. 7
1.2. Mỹ ........................................................................................................ 7
1.1.1. Tiềm lực kinh tế .............................................................................. 8
1.1.1. Tiềm lực quân sự ............................................................................ 8
1.1.1. Đặc điểm xã hội.............................................................................. 9
2.2. Trung Quốc ....................................................................................... 11
1.1.2. Tiềm lực kinh tế ............................................................................ 11
1.1.2. Tiềm lực quân sự .......................................................................... 14
1.1.2. Đặc điểm xã hội............................................................................ 15

3. Quan hệ Trung - Mỹ ở Ấn độ Dương-Thái Bình Dương ................... 17
1.3. Sự chuyển biến quốc tế .................................................................... 17
2.3. Chính sách của các nước lớn ........................................................... 18

3.3. Môi trường an ninh khu vực từng bước trở lại trạng thái “Chiến
tranh lạnh”, với quan hệ Mỹ - Trung hướng nhanh tới đối đầu ........ 20
4.3. Trật tự mới ........................................................................................ 21
5.3. Cục diện mới làm căng thẳng nhiều “điểm nóng”, trong khi thách
thức an ninh trở nên đa dạng và phức tạp hơn .................................... 22
6.3. Nguy cơ tiềm ẩn chiến tranh ........................................................... 22
7.3. Sự ra đời của AUKUS ...................................................................... 23


1

III. KẾT LUẬN ............................................................................................. 24

2

I. PHẦN MỞ ĐẦU
Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng,

phức tạp, khó dự báo. Hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song
đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước
lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết
liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc
tế. Chúng ta đang sống trong thời kỳ bất ổn nhất, mối quan hệ Mỹ - Trung đang
trở nên rất căng thẳng, nguy cơ bộc phát một cuộc chiến tranh toàn cầu gây lên
những hệ lụy mới. Nhưng nhìn chung, hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu
thế chung, là nguyện vọng tha thiết của nhân loại tiến bộ, là nhu cầu cơ bản của
các quốc gia nhằm tập trung phát triển, phục hồi kinh tế. Hơn nữa, khả năng
chiến tranh và xung đột lớn giữa các cường quốc khó xảy ra bởi lẽ điều đó sẽ
mang lại những hệ quả khơn lường không chỉ đối với những bên tham gia cũng
như khu vực liên quan mà còn cả thế giới. Tuy nhiên, thực tiễn những năm qua
cho thấy, khía cạnh cạnh tranh và theo đó là nguy cơ xung đột, có xu hướng gia
tăng đáng kể trong quan hệ quốc tế.Nhất là gần đây khi việc hợp tác quân sự
giữa các nước đế quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương để đối
đầu với Trung Quốc tạo ra nguy cơ xảy ra một cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân,
điều đó có thể kéo các nước trong khu vực nhất là các nước trong ASEAN vào
cuộc chiến không hồi kết này. Trong bài tiểu luận này, chúng ta tập trung nghiên
cứu mối quan hệ Mỹ - Trung ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương để từ đó định
hướng Việt Nam trong giai đoạn này. Để làm rõ vấn đề ta sẽ phân tích và đi tới
tổng hợp để có được cái nhìn chunng nhất về mối quan hệ Mỹ - Trung ở Ấn Độ

Dương-Thái Bình Dương.

3

II. PHẦN NỘI DUNG

* Bối cảnh

Những năm qua cho thấy, khía cạnh cạnh tranh và theo đó là nguy cơ xung

đột, có xu hướng gia tăng đáng kể trong quan hệ quốc tế. Cục diện an ninh -

chính trị tồn cầu đang ở giai đoạn hết sức nhạy cảm, trong đó cạnh tranh nước

lớn gia tăng về cường độ và quy mô, tạo ra nguy cơ cuốn các nước vừa và nhỏ

vào tình thế "lưỡng nan" về ngoại giao và an ninh. Trong bối cảnh đó, các vấn

đề an ninh truyền thống diễn biến phức tạp, các "điểm nóng" đều tăng nhiệt,

một số tranh chấp lãnh thổ tái bùng phát thành xung đột cục bộ, trong khi các

cơ chế quản lý xung đột và các nỗ lực kiểm sốt vũ khí chiến lược ít phát huy

tác dụng. Một số chuyên gia cho rằng, thế giới hậu dịch bệnh COVID-19 sẽ

nghèo hơn, kém cởi mở và ít tự do hơn, trong đó tư duy "cùng có lợi" bị ảnh

hưởng đáng kể.
- Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tiếp tục diễn biến phức tạp, nhất


là cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc. Quan hệ Mỹ - Trung ngày

càng thể hiện rõ bản chất là cạnh tranh chiến lược mang tính quy luật giữa một

cường quốc đang lên và một cường quốc tại vị. Xu hướng cạnh tranh diễn ra

quyết liệt trên tất cả các lĩnh vực, như thương mại, công nghệ, ngoại giao, quân

sự, dân chủ, nhân quyền và trên các diễn đàn đa phương, như Liên hợp quốc,

Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái

Bình Dương (APEC), Tổ chức Y tế thế giới (WHO)…

- Ngoại trưởng Mỹ An-tô-ni Giôn Blin-kin (Antony John Blinken) cho rằng,

cạnh tranh với Trung Quốc là thách thức địa - chính trị quan trọng nhất trong

thế kỷ XXI. Trong khi đó, Trung Quốc cũng không ngần ngại đáp trả Mỹ trên

các lĩnh vực. Tuy nhiên, hai bên để ngỏ khả năng hợp tác trên một số lĩnh vực,

như biến đổi khí hậu, phịng, chống dịch bệnh COVID-19.

*Tình hình Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương

4

Trong những năm gần đây, Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương ngày càng trở

thành khu vực trung tâm quan trọng trong địa chính trị tồn cầu.

Khái niệm “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” lần đầu tiên xuất hiện trong
diễn ngơn chính trị quốc tế vào năm 2007 trong một bài báo của nhà nghiên
cứu Ấn Độ Gurpreet Khurana, được định nghĩa là một không gian hàng hải nối
Ấn Độ Dương với Tây Thái Bình Dương, giáp với tất cả các quốc gia ở châu
Á (bao gồm cả Tây Á, Trung Đông) và Đông Phi.

Tuy nhiên gần đây, khi Mỹ công bố chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình
Dương tự do và rộng mở” tại Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương (APEC) vào tháng 11-2017, khái niệm này mới được nhắc đến nhiều
trong các tài liệu ngoại giao và học thuật trên thế giới. Ngoài tham chiếu địa lý
đơn thuần về sự kết nối giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, khái niệm
này cũng có ý nghĩa chiến lược và địa - chính trị, phản ánh những thay đổi chiến
lược, trong đó thay đổi đáng kể nhất là lĩnh vực an ninh hàng hải.

Trước những thay đổi nhanh chóng của cục diện toàn cầu và khu vực, khái
niệm về một khơng gian Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương rộng mở, bao trùm
của các nước trong khu vực đã ra đời nhằm đối phó cũng như tận dụng cơ hội
từ những sự đổi thay đó. Ngồi chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương
tự do và rộng mở” (FOIP) của Mỹ, các quốc gia khác trong khu vực như Nhật
Bản, Ấn Độ, Australia, ASEAN... cũng lần lượt đưa ra các tầm nhìn chiến lược
Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của mình. Trên cơ sở nhận thức rõ tầm quan
trọng của khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, một số nước châu Âu
cũng bắt đầu chú ý đến khu vực.

Hiện nay khu vực này đã trở thành điểm nóng khi Mỹ cùng với Australia,
Anh thông báo sẽ thiết lập mối quan hệ đối tác ba bên có tên là AUKUS để
hướng đến mục tiêu Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương rơng mở và kiềm chế
“sự trỗi dậy của Trung Quốc” trong khu vực.


1. Lý giải thuật ngữ

5

1.1. Quan hệ quốc tế và mối quan hệ chính chị quốc tế hiện nay
* Quan hệ quốc tế
Có rất nhiều khái niệm về quan hệ quốc tế:

- Quan hệ quốc tế là mối quan hệ giữa các quốc gia có chủ quyền. Mọi quốc
gia đều có quyền quyết định tối cao và tự do. Các quốc gia không ở dưới một
uy quyền nào và đối nghịch với nhau, sử dụng quyền lực để thực hiện các mục
tiêu và thỏa mãn các quyền lực của quốc gia mình. Quan hệ quốc tế có thể bao
gồm nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Quan hệ quốc tế là tổng
thể những mối quan hệ về kinh tế, chính trị, tư tưởng, luật pháp, ngoại giao,
quân sự…giữa những quốc gia & hệ thống quốc gia với nhau, giữa các giai cấp
chính, các lực lượng tổ chức xã hội, kinh tế và chính trị chủ yếu hoạt động trên
trường quốc tế. (QHQT sau CTTG II. Nxb CTQG, 1962, tr.26; Inodensev, Liên
Xô).

- Quan hệ quốc tế là hiện tượng xã hội, song là loại quan hệ xã hội có đặc
điểm riêng nảy sinh trong quá trình hoạt động của con người liên quan đến môi
trường quốc tế. Quan hệ quốc tế này vượt khỏi biên giới quốc gia, có những
thay đổi và trở nên vô cùng phức tạp, bởi trong môi trường quốc tế có các cơ
chế hoạt động và luật chơi hoàn toàn khác với cơ chế trong nội bộ quốc gia.
( Theo Vũ Dương Huân “Bản chất và đặc thù của quan hệ quốc tế”, Nghiên cứu
quốc tế, số 3, 9/2010).

* Chính trị quốc tế
- Chính trị quốc tê (chính trị thế giới) là nền chính trị được triển khai trên


quy mơ hành tinh, toàn thế giới, vượt khỏi phạm vi mỗi quốc gia. Đơn vị chính
trị quốc tế khơng phải là những cá nhân, những tổ chức thuộc phạm vi quốc gia
mà là các quốc gia độc lập có chủ quyền và các tổ chức kinh tế - chính trị, quân
sự-chính trị quốc tế. Nói một cách tổng qt, nền chính trị quốc tế được hình
thành bởi sự tác động tương tác bởi các quốc gia dân tộc có chủ quyền, các nhà
nước-dân tộc, các tổ chức quốc tế, các cường quốc. Đó là trật tự thế giới đa cực.

6

- Trong thời gian qua, các nước lớn cạnh tranh chiến lược gay gắt, toàn diện;
xu thế tập hợp lực lượng gia tăng phức tạp hơn. Quan hệ Mỹ - Trung vận động
theo hướng cạnh tranh chiến lược, song các kênh đối thoại đã được nối lại dù
cịn nhiều khó khăn. Nhưng dù thế tình hình chính trị thế giới vẫn diễn ra hết
sức phức tạp, căng thẳng.

* Quan hệ chính trị quốc tế
- Quan hệ chính trị quốc tế là mối quan hệ được nảy sinh , hình thành và

phát triển do sự tác động qua lại giữa các chủ thể chính trị quốc tế, trước hết và
quan trọng nhất là các quốc gia và các tổ chức quốc tế trong q trình tham gia
vào đời sống chính trị quốc tế vì mục đích, lợi ích quốc gia, khu vực và quốc
tế.

2.1. Cường quốc là gì ?
- Cường quốc là khái niệm dùng để chỉ một quốc gia có chủ quyền sở hữu
sức mạnh và tầm ảnh hưởng trong một khu vực địa lý hoặc trên phạm vi tồn
cầu. Những quốc gia này có sức mạnh đáng kể trong hệ thống quốc tế. Chúng
được phân loại theo mức gia tăng sức mạnh bao gồm các cường quốc nhỏ,
cường quốc tầm trung, cường quốc khu vực, đại cường quốc, siêu cường, hoặc

bá chủ, mặc dù khơng có tiêu chuẩn được chấp nhận chung cho những gì định
nghĩa về một trạng thái nhà nước mạnh mẽ.
- Hay cường quốc cịn chỉ những quốc gia có diện tích rộng, dân số đơng và
có nguồn lực phát triển vượt trội so với nhiều nước khác. Đó là nước có tiềm
lực, sức mạnh và ảnh hưởng vượt trội về chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế
và văn hóa, có khả năng tạo ảnh hưởng, chi phối và định hình chính sách và
hành vi của các quốc gia khác trên thế giới cũng như chi phối sự vận động của
hệ thống quan hệ quốc tế, của các xu thế quốc tế và việc giải quyết các vấn đề
mang tính tồn cầu.

2. Đặc điểm của các cường quốc
1.2. Mỹ

7

1.1.1. Tiềm lực kinh tế
Kinh tế Hoa Kỳ (Mỹ) là một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hỗn hợp với kỹ
nghệ, mức độ công nghiệp hóa và trình độ phát triển cao. Đây khơng chỉ là
một nền kinh tế phát triển mà còn là nền kinh tế lớn nhất trên thế giới tính theo
giá trị GDP danh nghĩa (Nominal) và lớn thứ hai thế giới tính theo ngang giá sức
mua (PPP). Mỹ có GDP bình qn đầu người đứng thứ 7 thế giới tính theo giá
trị danh nghĩa và thứ 11 thế giới tính theo PPP năm 2016. Đồng đô la Mỹ (USD)
là đồng tiền được sử dụng nhiều nhất trong các giao dịch quốc tế và là đồng tiền
dự trữ phổ biến nhất thế giới, được bảo đảm bằng nền khoa học công nghệ tiên
tiến, quân sự vượt trội, niềm tin vào khả năng trả nợ của chính phủ Mỹ, vai trị
trung tâm của Hoa Kỳ trong hệ thống các tổ chức toàn cầu kể từ sau Chiến tranh
thế giới thứ 2 và hệ thống đô la dầu mỏ (Petrodollar System).
Tăng trưởng kinh tế của Mỹ tương đối mạnh mẽ trước đại dịch Covid-19.
Tỷ lệ tăng trưởng đạt mức 2% trong mỗi 3 năm đầu tiên của nhiệm kỳ Tổng
thống Trump, nhưng giảm từ 2,9% (2018) xuống còn 2,3% vào năm 2019. Con

số này vẫn cao hơn so với các nền kinh tế lớn khác.
Trong quý I/2021, tăng trưởng GDP của Mỹ ước đạt 6,4%. Trên cơ sở đó,
Chính phủ Mỹ đã đề ra mục tiêu đạt mức tăng trưởng GDP cả năm 2021 là
7,4%. Nhiều chuyên gia phân tích kinh tế trên thế giới khen ngợi nền kinh tế
Mỹ đang phục hồi một cách “hoành tráng”. Tuy vậy, nền kinh tế thế giới vẫn
sẽ phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng nặng nề, nhất là với các nền kinh tế
lớn như Mỹ. Vì vậy, các quốc gia cần đưa ra các biện pháp ứng phó phù hợp.
Tuy nhiên Mỹ vẫn là quốc gia có nền kinh tế đứng đầu thế giới với tiềm lực
kinh tế mạnh mẽ, trong suốt nhiều năm đều là cường quốc đứng đầu thế giới về
kinh tế - chính trị - qn sự và có vị thế vô cùng quan trọng trên trường quốc
tế.

1.1.1. Tiềm lực quân sự

8

Mỹ là quốc gia được thừa nhận có sức mạnh quân sự hàng đầu thế giới, với
mạng lưới căn cứ quân sự ở nước ngoài nhiều hơn bất cứ nước nào, bất cứ lực
lượng nào trong lịch sử nhân loại. Politico dẫn nguồn tin Mỹ tiết lộ Washington
hiện có xấp xỉ 800 căn cứ quân sự thường trực trên khắp thế giới, vận hành bởi
hơn 230.000 binh lính. Riêng khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, Mỹ duy trì
154.000 binh sĩ đồn trú, gồm 50.000 binh sĩ tại 109 căn cứ ở Nhật Bản, 28.000
quân nhân làm nhiệm vụ tại 85 căn cứ ở Hàn Quốc. Ở châu Âu, nước này sở
hữu tới 65.000 quân nhân tại 350 căn cứ, gồm 58 căn cứ ở Italia và gần 180 cơ
sở quân sự trên lãnh thổ Đức.

Theo Viện nghiên cứu Hịa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI), cho tới nay,
Mỹ vẫn là nước chi tiêu quốc phòng nhiều nhất thế giới, với ngân sách trong
năm 2020 ước tính 778 tỷ USD, chiếm 39% tổng chi tiêu trên toàn cầu. Trung
Quốc dù xếp thứ 2 nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với Mỹ, với mức 252 tỷ USD.

Năm 2021, Bắc Kinh tuyên bố tăng ngân sách quốc phịng 6,8%.

Nếu nói đến lực lượng khơng qn, thì sự vượt trội của Hoa Kỳ lấn át hẳn
Trung Quốc. Theo một báo cáo năm 2021 của Lực lượng Không quân Thế giới
(World Air Forces) được tạp chí Flight Global cơng bố, Mỹ có 13.000 chiến
đấu cơ, trong đó có các máy bay chiến đấu F-35 Lightning và Raptor F-22,
những loại chiến đấu cơ đáng gờm nhất trên tồn thế giới.

Có thể nói, qn đội Mỹ được trang bị vũ khí tối tân và Mỹ cũng là cường
quốc quân sự đứng hàng đầu thế giới trong nhiều năm, có tầm ảnh hưởng lớn
trên trường quốc tế.

1.1.1. Đặc điểm xã hội
Hoa Kỳ là nhà nước liên bang tồn tại lâu đời nhất trên thế giới. Quốc gia
này là một cộng hịa lập hiến mà “trong đó khối đa số cầm quyền bị kiềm chế
bởi quyền của khối thiểu số được luật pháp bảo vệ”. Trên cơ bản, Hoa Kỳ có

9

cơ cấu giống như một nền Dân chủ đại nghị mặc dù các công dân Hoa Kỳ sinh
sống tại các lãnh thổ không được tham gia bầu trực tiếp các viên chức liên bang.
Hoa Kỳ là một nước cộng hòa liên bang, trong đó Tổng thống, Quốc hội và Tồ
án cùng nắm giữ và chia sẻ quyền lực của chính quyền liên bang theo Hiến
pháp. Trong khi đó, chính quyền liên bang lại chia sẻ quyền lực với chính
quyền của từng tiểu bang. Mơ hình này kết hợp phân chia quyền lực theo cả
chiều ngang (tam quyền phân lập) và chiều dọc (giữa liên bang với tiểu
bang). Chính quyền liên bang được thiết lập bởi Hiến pháp Hoa Kỳ. Hiện nay
hai đảng chính trị lớn, Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hồ, đang có ảnh hưởng
thống trị trên nền chính trị Hoa Kỳ mặc dù vẫn tồn tại các nhóm hoặc các đảng
chính trị với ảnh hưởng ít quan trọng hơn.


Chủ nghĩa liên bang tại Hoa Kỳ khuyến khích các bang đồn kết với nhau
và ủng hộ các quyết định, các luật lệ do chính quyền trung ương ban hành, tuy
nhiên vẫn tồn tại xu hướng ly tâm khi các bang cố gắng bảo vệ các quyền hạn
và lợi ích riêng của mình. Một mặt các bang phải tuân thủ những quyết định
của chính quyền trung ương, mặt khác chúng lại muốn bảo vệ quyền tự trị đã
được Hiến pháp bảo đảm. Điều này ngày càng khó khăn khi các bang phải phụ
thuộc chính quyền trung ương về mặt tài chính. Chính phủ ln bị chỉnh lý bởi
một hệ thống kiểm tra và cân bằng do Hiến pháp Hoa Kỳ định nghĩa. Hiến pháp
Hoa Kỳ là tài liệu pháp lý tối cao của quốc gia và đóng vai trị như một bản khế
ước xã hội đối với nhân dân Hoa Kỳ. Các nhà soạn thảo Hiến pháp Hoa Kỳ quy
định Hiến pháp là "bộ luật tối cao của đất nước".

Các cuộc biểu tình phản đối phân biệt chủng tộc và bạo lực cảnh sát trên
khắp nước Mỹ hiện nay là minh chứng cho thấy đây vẫn là một vấn đề nổi cộm
trong xã hội Mỹ và khó giải quyết. Cái chết của người Mỹ da đen George Floyd
cuối tháng 5/2020 và nhất là virus corona càng làm lộ rõ cách biệt giữa hai cộng
động người Mỹ da trắng và da đen. Về cách biệt kinh tế và tài chính, tờ

10

Washington Post số ra ngày 04/06/2020 tiếc là nước Mỹ đã khơng có một chút
tiến bộ nào từ năm 1968 tới nay. Tương tự như những năm 1960, hiện tại 44%
người Mỹ da đen sở hữu căn hộ họ cư ngụ, trong lúc tỷ lệ này là 74% trong
cộng đồng Mỹ da trắng. Trước mắt, các hoạt động biểu tình hiện nay đang ảnh
hưởng tới xã hội và nền kinh tế Mỹ, đặc biệt là trong bối cảnh diễn biến đại
dịch Covid-19 vẫn chưa giảm ở Mỹ, nước tiếp tục đứng đầu thống kê toàn cầu
về số ca nhiễm và tử vong. Trong khi các bang ở Mỹ đang bắt đầu mở cửa trở
lại thì nổ ra các cuộc biểu tình trong đó bao gồm tình trạng đốt phá và hơi của
buộc nhiều cửa hàng phải đóng cửa khiến nhiều người dân chưa thể quay lại

làm việc trong khi tới nay đã có hơn 42 triệu người phải đăng ký trợ cấp thất
nghiệp. Dịch bệnh Covid-19 đã khiến nền kinh tế Mỹ thiệt hại nặng nề và tình
trạng thất nghiệp tăng cao kỷ lục, trong khi đó việc hàng nghìn người tham gia
biểu tình lại càng gia tăng khả năng dịch bệnh Covid-19 bùng phát trở lại. Các
cuộc biểu tình tiếp tục khoét sâu những chia rẽ, bất công xã hội, được truyền từ
đời chính quyền này sang chính quyền khác và chưa được giải quyết, đặc biệt
đối với người thuộc các nhóm thiểu số nói chung và người da màu nói riêng.
Chính quyền đương thời chưa có một giải pháp cụ thể và thay vì đưa ra những
lời ơn hịa thì lại có một số lời lẽ phơ trương sức mạnh chống lại người biểu
tình, khơng cần biết họ ôn hòa hay không.

Nước Mỹ tự nhận là một nước dân chủ nhất thế giới nhưng tình trạng bất
cơng phân biệt chủng tộc vẫn diễn ra và tồn tại, đây là giọt nước tràn ly đang
trở thành một trong những mối lo ngại hàng đầu hiện nay của nước Mỹ. Chừng
nào phân biệt chủng tộc vẫn là vấn đề nhạy cảm và khó nói và khó thảo luận,
thì khi đó những sự việc liên quan tới phân biệt chủng tộc sẽ còn nối dài mãi ở
xứ cờ hoa.

2.2. Trung Quốc
1.1.2. Tiềm lực kinh tế

11

Nền kinh tế của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một nền kinh tế đang
phát triển định hướng thị trường kết hợp kinh tế kế hoạch thơng qua các chính
sách cơng nghiệp và chiến lược kế hoạch 5 năm. Kinh tế Trung Quốc chịu sự
chi phối mạnh mẽ bởi các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và các doanh
nghiệp có vốn sở hữu hốn hợp, mặc dù vậy khu vực tư nhân và các doanh
nghiệp nước ngồi vẫn có điều kiện thuận lợi để phát triển trong hệ thống chủ
nghĩa xã hội thị trường.Doanh nghiệp nhà nước chiếm hơn 60% giá trị vốn hóa

thị trường của Trung Quốc vào năm 2019, đóng góp tới 40% GDP của Trung
Quốc tương đương 15,66 nghìn tỷ USD vào năm 2020, trong đó các doanh
nghiệp tư nhân trong nước và nước ngồi đóng góp 60% cịn lại.

Trung Quốc là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới tính theo GDP danh nghĩa,
và nền kinh tế lớn nhất thế giới tính theo PPP kể từ năm 2014, đây là chỉ tiêu
mà theo một số người là thước đo chính xác hơn về quy mơ thực sự của nền
kinh tế. Trung Quốc đã vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ hai theo GDP
danh nghĩa kể từ năm 2010 nhờ tận dụng tốt tỷ giá hối đoái biến động trên thị
trường. Thậm chí có một dự báo chính thức nói rằng Trung Quốc sẽ trở thành
nền kinh tế lớn nhất thế giới tính theo GDP danh nghĩa vào năm 2028. Trong
lịch sử, Trung Quốc từng là một trong những cường quốc kinh tế hàng đầu thế
giới trong gần hai thiên niên kỷ từ thế kỷ I đến thế kỷ XIX.

Tính đến năm 2019, khu vực công của Trung Quốc đã tạo ra tổng cộng 63%
việc làm. Theo IMF, Trung Quốc xếp thứ 59 theo GDP bình quân đầu người
(danh nghĩa) và thứ 73 theo GDP bình quân đầu người (PPP) vào năm 2020.
Trung Quốc cũng có tổng tài sản ngành ngân hàng lớn nhất thế giới với khoảng
45,838 nghìn tỷ USD (309,41 nghìn tỷ CNY) với 42,063 nghìn tỷ USD là tiền
gửi và các khoản nợ khác. Tổng tài sản tài chính nước ngồi mà Trung Quốc
sở hữu đạt 7,860 nghìn tỷ USD, và các khoản nợ tài chính nước ngồi của nước
này là 5,716 nghìn tỷ USD, đưa Trung Quốc trở thành quốc gia chủ nợ lớn thứ
hai trên thế giới chỉ sau Nhật Bản. Trung Quốc là nước nhận đầu tư trực tiếp

12

nước ngồi lớn nhất trên thế giới tính đến năm 2020 với khoảng 163 tỷ đô
la. Trung Quốc cũng xếp ở vị trí số hai về khoản đầu tư trực tiếp ra nước ngồi,
với 136,91 tỷ đơ la Mỹ cho riêng năm 2019, tiếp tục đứng sau Nhật Bản với
226,65 tỷ đơ la Mỹ trong cùng kỳ. Tính đến năm 2018, Trung Quốc đứng đầu

thế giới về tổng số tỷ phú và thứ hai về số triệu phú - có 658 tỷ phú và 3,5 triệu
triệu phú là người Trung Quốc. Theo Báo cáo Tài sản Toàn cầu năm 2019
của Credit Suisse Group, Trung Quốc đã vượt qua Mỹ về mức độ giàu có tính
theo mười phần trăm dân số hàng đầu thế giới. Tính đến năm 2020, Trung Quốc
là nơi có nhiều cơng ty nhất nằm trong danh sách Fortune Global 500 với 129
cơng ty có trụ sở chính tại Trung Quốc. Trung Quốc cũng là quê hương của hơn
200 công ty khởi nghiệp công nghệ được xếp vào Unicorn (kỳ lân công nghệ),
mỗi công ty được định giá trên 1 tỷ USD, con số cao nhất trên thế giới. Trung
Quốc là quốc gia có dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới trị giá 3,1 nghìn tỷ
USD, thậm chí nếu tính cả số lượng tài sản nước ngồi sở hữu bởi các ngân
hàng thương mại quốc doanh của Trung Quốc thì giá trị dự trữ của Trung Quốc
cịn tăng lên đạt gần 4 nghìn tỷ đơ la.

Trung Quốc cũng là thị trường tiêu thụ hàng hóa có tốc độ phát triển nhanh
nhất và quốc gia nhập khẩu lớn thứ hai thế giới. Trung Quốc là nước nhập khẩu
ròng các sản phẩm dịch vụ và là quốc gia thương mại lớn nhất trên thế giới,
đóng một vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế. Trung Quốc trở thành
thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2001 và có các hiệp định
thương mại tự do với một số quốc gia bao gồm với ASEAN, Australia, New
Zealand, Pakistan, Hàn Quốc, Thụy Sĩ. Trung Quốc đứng số 1 trên toàn cầu về
bằng sáng chế, mơ hình tiện ích, nhãn hiệu, kiểu dáng cơng nghiệp và xuất khẩu
hàng hóa sáng tạo và cũng có hai (khu vực vịnh lớn Thâm Quyến-Hồng Kông-
Quảng Châu và Bắc Kinh lần lượt xếp ở vị trí thứ 2 và thứ 4) trong số top 5
cụm khoa học và công nghệ hàng đầu thế giới, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào
khác.

13

1.1.2. Tiềm lực quân sự
Trung Quốc đang đẩy mạnh kế hoạch đưa quân đội nước này thành một lực

lượng chiến đấu hiện đại vào năm 2027, nhân kỷ niệm một trăm năm thành lập
quân đội Trung Quốc, giữa lúc căng thẳng với Mỹ đang tiếp tục leo thang.
Theo dữ liệu của Viện Nghiên cứu Hịa bình Quốc tế Stockholm, cho đến
thời điểm hiện tại Trung Quốc với mức chi cho quân sự ước tính là 252 tỉ USD.
Theo sách trắng quốc phịng mới nhất, Trung Quốc cho đến nay có quy mô lớn
nhất thế giới, với 2 triệu quân nhân. Lục quân của quân đội Trung Quốc là lực
lượng thường trực lớn nhất thế giới với 915.000 quân nhân tại ngũ, gần gấp đôi
so với con số 486.000 quân của Mỹ, theo Báo cáo Sức mạnh Quân sự Trung
Quốc năm 2020 của Lầu Năm Góc. Tuy nhiên, báo cáo của Lầu Năm Góc cho
biết rất có thể lực lượng lục quân Trung Quốc đang sử dụng các thiết bị lỗi thời
hoặc khơng thể trang bị vũ khí hiện đại một cách hiệu quả. Trung Quốc đã và
đang áp dụng các loại vũ khí tự động nhẹ hơn và mạnh hơn cho các lực lượng
mặt đất của mình, chuyển phần lớn gánh nặng hoạt động từ công việc vật lý
sang công nghệ kỹ thuật số. Tuy nhiên, các chuyên gia quân sự cho rằng việc
huấn luyện các binh sĩ vẫn chưa được thực hiện một cách có hiệu quả. Theo
trang Forbes, Trung Quốc sở hữu 5.800 xe tăng.
theo báo cáo của Lầu Năm Góc, lực lượng khơng qn của Trung Quốc
đứng thứ ba trên thế giới với hơn 2.500 máy bay, trong đó khoảng 2.000 máy
bay chiến đấu, theo báo cáo của Lầu Năm Góc. Máy bay chiến đấu tàng hình
tiên tiến nhất của Trung Quốc là tiêm kích J-20 được sản xuất trong
nước. Theo SCMP, tuy Trung Quốc có khoảng 360 tàu chiến, nhưng chỉ có lợi
thế về số lượng các tàu nhỏ, như tàu tuần tra ven biển. Theo SCMP, Trung Quốc
khơng tiết lộ họ có bao nhiêu đầu đạn hạt nhân. Tuy nhiên, báo cáo gần đây
nhất của Bộ Quốc phòng Mỹ về quân đội Trung Quốc cho biết kho dự trữ đầu
đạn của Trung Quốc “hiện ước tính khoảng 200 đầu đạn”, trong khi Viện
Nghiên cứu Hịa bình Quốc tế Stockholm đưa ra con số ở mức 350 trong năm

14

nay. Tuy nhiên Trung Quốc lại có thế mạnh về tên lửa đạn đạo trên mặt đất có

thể thực hiện cả các cuộc tấn công hạt nhân và thông thường. Tên lửa đạn đạo
tầm trung duy nhất của Trung Quốc là Đông Phong 26 (DF-26), được đặt biệt
danh là "sát thủ Guam" vì nó được cho là có khả năng tiến hành các cuộc khơng
kích thơng thường nhằm vào căn cứ quan trọng của Không quân Mỹ trên đảo
Guam, theo Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế. Theo Viện Nghiên
cứu Chiến lược Quốc tế, số lượng bệ phóng tên lửa đạn đạo tầm trung trong
kho vũ khí của Trung Quốc đã tăng từ 0 vào năm 2015 lên 72 vào năm 2020.

1.1.2. Đặc điểm xã hội
Trung Quốc diện tích lãnh thổ rộng lớn, điều kiện tự nhiên và tài nguyên
thiên nhiên giữa các vùng khác biệt rõ rệt, dẫn đến cơ hội phát triển kinh tế
không đồng đều, phân bổ dịch vụ công và phúc lợi xã hội giữa các địa phương
có sự chênh lệch lớn.
Trên thế giới hiếm có trường hợp kinh tế tăng trưởng ở mức cao và liên tục
duy trì suốt 25 năm như Trung Quốc. Nhưng tăng trưởng cao cũng có vấn đề khó
khăn của nó; đặc biệt đối với một nước lớn và đơng dân như TQ, một vấn đề tuy
nhỏ nhưng nhân với 1,3 tỉ thì chẳng nhỏ chút nào.
Thách thức đối nội của Trung Quốc là nợ lớn, bất bình đẳng xã hội, mơi
trường ơ nhiễm, chất lượng hàng hóa và thực thẩm rất thấp, người tiêu dùng
Trung Quốc khơng được bảo vệ tốt, kiểm sốt q chặt chẽ các doanh nghiệp
tư nhân lớn nhất; nhu cầu đầu tư vào quốc phịng thì ngày càng lớn.
Về đối ngoại, theo tôi Trung Quốc đang đứng trước thách thức khơng nhỏ
do chính quyền và ĐCSTQ lộ rõ bản chất bành trướng và bá quyền hung hăng,
cho nên Trung Quốc đã không gặt hái được các thành quả tích cực, khơng có
bạn bè ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Họ khơng xây dựng được niềm
tin chiến lược với các đối tác phương Tây. Hành vi của ĐCSTQ từ năm 1989
đến nay đã buộc Mỹ và phương Tây đi đến nhận định rằng, dù can dự để giúp
Trung Quốc thành phồn vinh hơn, Trung Quốc cũng sẽ khơng dân chủ hóa.

15


Phân hóa giàu - nghèo có xu hướng mở rộng, theo một kết quả điều tra xã hội
trên 50.000 hộ dân ở các TP, thị trấn TQ, ở nhóm người có mức thu nhập cao
nhất thì mức thu nhập bình quân đầu người sáu tháng đầu năm 2004 là 13.322
NDT (khoảng 26 triệu đồng), bằng 2,8 lần mức thu nhập bình qn cả nước;
trong khi đó nhóm người thu nhập thấp nhất chỉ đạt mức bình quân 1.397 NDT,
bằng 29% mức thu nhập bình qn cả nước. Phân hóa thu nhập vùng, nhất là
vùng duyên hải giàu có và vùng miền Tây nghèo khó cũng có xu hướng tương
tự. Chủ trương để một số khu vực, cá nhân có điều kiện giàu lên trước rồi kéo
theo các đối tượng khác giàu sau tuy có khuyến khích một số vùng, dân cư giàu
lên nhanh chóng, góp phần tăng trưởng kinh tế nhưng lại mở rộng thêm phân
hóa giàu nghèo.Phân hóa giàu nghèo mở rộng và giá thực phẩm tăng cao trong
vài năm gần đây đã dẫn đến sự mất thăng bằng về tâm lý trong một số dân cư.
Theo một điều tra, hai năm gần đây tốc độ tăng trưởng kinh tế TQ nhanh hơn
nhưng mức độ hài lòng và lòng tin của tầng lớp thu nhập thấp lại giảm.

Tập Cận Bình nhân danh vì “sự phồn thịnh chung” gần đây đã đưa ra một
loạt quy định mới đánh vào giới nhà giàu, những nhà tư bản mà chính chế độ
Cộng sản này đã sản sinh trong nhiều thập kỷ mở cửa kinh tế. Mục đích để
“phân phối lại tài sản”, trở lại với “những giá trị” của chủ nghĩa xã hội. Đúng
là mở cửa kinh tế đã giúp đất nước hơn tỷ dân này xóa được đói nghèo cùng
cực, nhưng đồng thời cũng kéo theo sự bùng nổ bất bình đẳng. Theo số liệu của
ngân hàng Thụy Sĩ Crédit Suisse, người giàu ở Trung Quốc chỉ chiếm 1% dân
số nhưng sở hữu hơn 30% của cải của cả nước, con số này chỉ xếp sau Hoa Kỳ
(trên 35%). Theo số liệu năm 2020 của Ngân hàng Thế giới, Trung Quốc có
878 tỷ phủ, nhiều hơn cả Mỹ, chiếm giữ khối lượng tài sản bằng cả GDP của
nước Đức. Trong khi đó vẫn cịn hơn 225 triệu dân nghèo Trung Quốc với thu
nhập 5,5 đô la mỗi ngày. Nhận thấy Trung Quốc đang theo hướng tư bản chủ
nghĩa có nguy cơ khơng kiểm sốt nổi, Tập Cận Bình đã tìm cách chấn chỉnh
lại, ép các tỷ phú phải phân chia lại tài sản của họ cho xã hội theo nhiều cách


16

khác nhau, từ hoạt động thiện nguyện đến đóng góp thuế, khống chế đầu tư ra
nước ngoài cho đến điều tra chống tham nhũng.

3. Quan hệ Trung - Mỹ ở Ấn độ Dương-Thái Bình Dương
1.3. Sự chuyển biến quốc tế

Sự thống trị của phương Tây đang suy yếu, thể hiện cả trong sự cân bằng
quyền lực toàn cầu và trong các cấu trúc quản trị toàn cầu, dẫn đến sự gia tăng
vai trò của các cường quốc và các chủ thể hàng đầu tại các khu vực.Mục đích
của Mỹ đối với Châu Á khơng cịn là lựa chọn chiến lược mà là một nhu cầu
chiến lược, vì Mỹ ngày càng cơng nhận Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh ngang
hàng. Lợi ích chiến lược chính của Mỹ đã nằm ngồi Châu Âu và Mỹ có thể sẽ
tăng cường cam kết ở Châu Á - Thái Bình Dương ngang bằng các cam kết của
Mỹ ở Châu Âu. Đây là một xu hướng dài hạn mà Phần Lan, cùng với các thành
viên EU/ NATO khác, sẽ phải thích nghi. Tiềm năng và sức mạnh của Trung
Quốc đã không ngừng gia tăng với tham vọng áp đặt lợi ích của Trung Quốc
trên toàn thế giới. Trung Quốc liên minh với Nga để thách thức Mỹ, thiết lập
mối quan hệ với các nhóm nhỏ thành viên EU để làm suy yếu sự thống nhất
trong nội khối EU. Trung Quốc sẵn sàng hậu thuẫn hệ thống quản trị toàn cầu
do phương Tây lãnh đạo, ủng hộ những khuôn khổ quy phạm tương thích với
các giá trị và lợi ích của họ, cố gắng khẳng định bản sắc là một cường quốc có
trách nhiệm. Trung Quốc ngày càng quyết đốn và mạnh mẽ đã lôi kéo sự chú
ý của Mỹ vào khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Vai trị của Trung Quốc
trong trật tự an ninh Châu Âu mới rất quan trọng, nhưng hầu hết là gián tiếp.

Trong những năm qua, Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương ngày càng
trở thành khu vực trung tâm quan trọng trong khơng gian địa chính trị

tồn cầu. Dự báo trong thập niên tới, khu vực này sẽ tiếp tục là tiêu điểm
chiến lược của các nước, nhất là các nước lớn. Trong khu vực Ấn Độ Dương
- Thái Bình Dương, một trong những trụ cột chính để hiện thực hóa chiến lược
kết nối giữa hai bờ đại dương này là sự hình thành liên minh Bộ Tứ hay cịn

17

gọi là “tứ giác kim cương”, bao gồm Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Australia. Mục
đích của liên minh này là cùng chia sẻ lợi ích, giá trị và nhận thức chung về các
mối đe dọa về an ninh giữa bốn quốc gia, nhằm tạo sự cân bằng quyền lực thuận
lợi cho việc duy trì trật tự “dựa trên luật lệ” ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái
Bình Dương.

2.3. Chính sách của các nước lớn
Trong những năm gần đây, Mỹ đã phản ứng với những thay đổi địa - chính
trị toàn cầu bằng cách phát triển một chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình
Dương nhằm tìm kiếm sự tái cân bằng của Mỹ ở châu Á, như một đối trọng với
sự trỗi dậy của Trung Quốc, phát triển các liên minh và quan hệ đối tác để củng
cố lợi ích của Washington trên một khu vực rộng lớn trải dài từ bờ biển phía
Tây của Ấn Độ đến bờ biển phía Tây của Mỹ. Mỹ là nước tiên phong trong
thực hiện và triển khai chiến lược FOIP. Tại hội nghị cấp cao Diễn đàn Hợp tác
Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) vào tháng 11-2017, Tổng thống
Mỹ Donald Trump đã đề cập đến FOIP, được thể hiện rõ hơn trong Chiến lược
An ninh quốc gia của Mỹ năm 2017. FOIP của Mỹ được xây dựng dựa trên ba
trụ cột là an ninh, kinh tế và quản trị. Phiên bản FOIP của Mỹ kết hợp một số
yếu tố trong chiến lược “tái cân bằng sang châu Á” của chính quyền Tổng thống
Barak Obama trên cơ sở điều chỉnh lại chính sách thương mại của Mỹ, thể hiện
qua việc nước này rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Mục tiêu của chiến lược FOIP của Mỹ là:
+ Duy trì sự lãnh đạo lâu dài của Mỹ tại khu vực và trên toàn cầu, trong bối

cảnh Trung Quốc (và Nga) bị Mỹ công khai xác định là đối thủ cạnh tranh chiến
lược hàng đầu của Mỹ trong Chiến lược An ninh quốc gia năm 2017 và Chiến
lược Quốc phòng quốc gia năm 2018
+ Thúc đẩy thương mại tự do, bình đẳng và có đi có lại. Mỹ khơng chấp
nhận tình trạng thâm hụt thương mại và lạm dụng thương mại bởi các quốc gia

18

khác. Thay vào đó, Mỹ yêu cầu các nước đối tác thương mại hành xử một cách
bình đẳng và có trách nhiệm với Mỹ

+ Duy trì không gian biển và bầu trời mở trong khu vực
+ Đương đầu một cách hiệu quả với các thách thức an ninh truyền thống và
phi truyền thống, trong đó có chương trình hạt nhân của Triều Tiên
+ Bảo đảm tôn trọng luật lệ và quyền cá nhân.
Mỹ tăng cường thúc đẩy các mạng lưới đối tác, cơ chế tập hợp lực lượng ba
bên (trên cơ sở các tam giác chiến lược Mỹ - Nhật Bản - Hàn Quốc; Mỹ - Ấn
Độ - Nhật Bản...), bốn bên (như nhóm Bộ Tứ) một cách thực dụng, linh hoạt.
Mỹ tiếp tục đề cao vai trò của ASEAN - khu vực được coi là trung tâm trong
chiến lược FOIP của Mỹ, nhất là khi vị thế chiến lược cũng như sức mạnh của
ASEAN không ngừng tăng lên trong những năm gần đây. Mỹ tăng cường can
dự vào khu vực thông qua các cơ chế đa phương và song phương, từng bước
cụ thể hóa các nội dung hợp tác với các nước Đơng Nam Á dựa trên hai trụ cột
chính là an ninh và kinh tế. Cùng với đó, sự hiện diện về an ninh và quân sự
của Mỹ ở Đông Nam Á cho thấy Mỹ tích cực lơi kéo Đơng Nam Á, coi đây
như một “chiến tuyến” để ngăn chặn sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc,
duy trì ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực.
Trung Quốc là quốc gia có lợi ích gắn liền với lợi ích của châu Á - Thái
Bình Dương - khu vực có tầm quan trọng lớn nhất thế giới về kinh tế, an ninh
và chính trị. Vì vậy, nước này ln xác định và theo đuổi mục tiêu nâng cao vai

trò, vị thế, gia tăng sự ảnh hưởng đối với khu vực. Những năm gần đây, nhờ
cải cách đất nước thành công, Trung Quốc trở thành quốc gia có nền kinh tế
đứng thứ hai thế giới, sau Mỹ. Khơng dừng ở đó, họ liên tục đưa ra các chính
sách, chiến lược, nhằm phát triển đất nước trở thành cường quốc số 1 thế giới.
Thực hiện sáng kiến “Vành đai và con đường”, Trung Quốc đầu tư hàng nghìn
tỉ USD vào nhiều nước, trong đó có các nước Đơng Nam Á (ASEAN) để hợp
tác, giúp các nước này phát triển kinh tế; đồng thời, tăng cường sự ảnh hưởng,

19

chi phối an ninh, chính trị và nhiều mục tiêu chiến lược khác. Với lợi thế sức
mạnh kinh tế, Trung Quốc triệt để lợi dụng vấn đề này chi phối hoạt động sản
xuất, cung ứng toàn cầu và quan hệ quốc tế của các nước. Tuy nhiên, họ cũng
chịu tác động không nhỏ từ môi trường quốc tế và khu vực, nên phải điều chỉnh
các chính sách, đưa ra chiến lược “tuần hoàn kép” để nỗ lực thúc đẩy kinh tế
tiêu dùng trong nước, tự chủ về công nghệ và tăng cường quan hệ quốc tế. Cùng
với đó, Trung Quốc chú trọng củng cố sức mạnh quân sự, hiện đại hóa quân
đội, gia tăng hoạt động quân sự ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Biển
Đơng, như: diễn tập phơ trương sức mạnh vũ khí, phương tiện quân sự; đưa ra
bộ luật Hải cảnh, những đe dọa nhắm vào Đài Loan và những sự kiện tại Hong
Kong, và tốc độ quân sự hóa nhanh chóng tại biển Đơng,...Trung Quốc đặt ra
một loạt u cầu kiểm sốt các tàu bè nước ngoài đi vào "vùng lãnh hải" của
nước này.

Những hành động đó đã và đang làm cho tình hình an ninh khu vực, nhất
là trên Biển Đông trở nên phức tạp hơn, ảnh hưởng trực tiếp đến mơi trường
hịa bình, ổn định và sự phát triển của khu vực.

3.3. Môi trường an ninh khu vực từng bước trở lại trạng thái “Chiến
tranh lạnh”, với quan hệ Mỹ - Trung hướng nhanh tới đối đầu


Cũng trong thời gian này, Trung Quốc đã có những bước phát triển mạnh
mẽ, thách thức vị trí siêu cường số một của Mỹ, sử dụng “sức mạnh mềm”, lợi
ích kinh tế, thương mại để tập hợp lực lượng, gia tăng ràng buộc về chính trị,
an ninh đối với các nước trong khu vực, thông qua nhiều chiến lược như BRI,
“Sáng kiến An ninh châu Á”, “Cộng đồng chung vận mệnh” làm thay đổi môi
trường an ninh, thiết lập cấu trúc an ninh theo mơ hình “Đàn sếu bay”, từng
bước đẩy Mỹ ra và kiểm sốt tồn bộ khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình
Dương.Sự thay đổi trong quan hệ Mỹ - Trung làm cho môi trường an ninh khu
vực chuyển sang trạng thái giống như “Chiến tranh lạnh” Mỹ - Xô trước đây.
Với quốc lực đã thay đổi căn bản và so sánh tương quan với Mỹ cũng thay đổi

20


×