Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Tiểu luận Chính trị học - Văn hóa chính trị Việt Nam – Sự hình thành và phương hướng giáo dục trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 22 trang )

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………. 3

PHẦN NỘI DUNG ………………………………………………………… 5
I. Khái niệm văn hóa chính trị ……… ……………………….... 5
1. Văn hóa là gì?
2. Khái niệm về văn hóa chính trị
II. Sự hình thành văn hóa chính trị Việt Nam ………..…..………. 6
1. Văn hóa chính trị truyền thống
2. Văn hóa chính trị hiện đại
III. Tác động của sự đổi mới văn hóa chính trị Việt Nam …..…….. 9
1. Thời cơ lớn và thách thức nghiệt ngã trong phát triển
2. Đổi mới và giải phóng các tiềm năng xã hội
3. Đảng ta chủ trương đổi mới chính trị một cách thận trọng
4. Những tác nhân khác
IV. Phương hướng giáo dục văn hóa chính trị Việt Nam ………… 14
1. Cơng tác giáo dục văn hóa chính trị hướng vào đổi mới tư duy,
nâng cao trình độ nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, trau dồi đạo
đức, rèn luyện hành vi có văn hóa.
2. Giáo dục văn hóa chính trị hướng vào việc đổi mới, kiện toàn hệ
thống chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo chính trị duy nhất của Đảng
Cộng sản Việt Nam
3. Giáo dục văn hóa chính trị hướng vào việc đổi mới, kiện toàn hệ
thống chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo chính trị duy nhất của Đảng
Cộng sản Việt Nam
4. Giáo dục văn hóa chính trị hướng tới cuộc đấu tranh trên lĩnh
vực tư tưởng, lý luận.

1


V. Giải pháp giáo dục văn hóa chính trị Việt Nam …………….... 18
1. Thứ nhất
2. Thứ hai
3. Thứ ba
4. Thứ tư
5. Thứ năm
6. Thứ sáu

PHẦN KẾT LUẬN …………………………………………………... 21
PHẦN TÀI LIỆU THAM KHẢO ……… …………………………. 22

2

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Chính trị học với tư cách là một môn khoa học nghiên cứu lý thuyết và

thực tiễn chính trị đã được quan tâm nghiên cứu ở nhiều nước trên thế giới bởi
chính trị là một trong những lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội bao gồm kinh
tế - chính trị - văn hóa - xã hội. Có thể nói hoạt động chính trị, nhất là trong nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa liên hệ mật thiết với văn hóa và cần phải phát triển
tới trình độ văn hóa chính trị. Nhận thức đúng đắn và thực hành sáng tạo văn
hóa chính trị là một trong những điều kiện quan trọng để đảm bảo cho chính trị
phát huy được vai trị của mình đối với xã hội, đồng thời góp phần phát triển
năng lực sáng tạo và hoàn thiện nhân cách của con người chính trị - xét về
phương diện cá nhân, từ nhà lãnh đạo, người quản lý đến từng công dân, nhất
là trong thời điểm thực hiện công cuộc cách mạng đổi mới toàn diện đất nước
năm 1986. Đây là lý do em lựa chọn nghiên cứu về đề tài: “Văn hóa chính trị
Việt Nam – sự hình thành và phương hướng giáo dục trong thời kỳ đổi mới”


2. Lịch sử nghiên cứu
- Trong q trình đổi mới tồn diện đất nước (1986) đến đổi mới văn hóa

chính trị.

3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: văn hóa chính trị Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu:

+ Không gian: Việt Nam
+ Thời gian: từ năm 1986 đến nay

3

4. Mục đích nghiên cứu
Giúp cho tất cả mọi người hiểu và nhận thức sâu rộng hơn về vai trò, tầm
quan trọng của văn hóa chính trị ở Việt Nam, đồng thời đề ra những
phương hướng và giải pháp giúp tăng cường giáo dục văn hóa chính trị
cho cán bộ, sinh viên và học sinh… với mong muốn đất nước ngày càng
văn minh và tốt đẹp hơn.

5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp phân tích và tổng hợp
- Phương pháp lịch sử - logic

4

NỘI DUNG


I. KHÁI NIỆM VỀ VĂN HĨA CHÍNH TRỊ
1. Văn hóa là gì?

Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích
của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngơn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật, những cơng cụ cho sinh
hoạt hàng ngày về ăn, ở, mặc và các phương thức sử dụng. Tồn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hóa.”

Văn hóa là tồn bộ những sản phẩm, những vật thể hay giá trị dưới dạng
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực
tiễn để phục vụ cuộc sống nhằm phát triển xã hội.

Văn hóa thể hiện sức mạnh bản chất người, là trình độ người trong phát
triển mà mỗi thời đại đạt được trong tiến trình lịch sử, hướng tới Chân – Thiện
– Mỹ, vì hạnh phúc và tự do của con người. Con người sáng tạo ra văn hóa và
văn hóa làm nảy nở nhân tính, phát triển và hồn thiện nhân cách con người.

Như vậy có thể đi tới một khái niệm về văn hóa: Văn hóa là trình độ phát
triển lịch sử nhất định của xã hội, trình độ phát triển năng lực và khả năng sáng
tạo của con người biểu hiện trong các phương thức tổ chức đời sống xã hội và
hoạt động của con người, cũng như toàn bộ những giá trị tinh thần và vật chất
do loài người sáng tạo nên trong tiến trình lịch sử vì lẽ sinh tồn và mục đích
của cuộc sống. Văn hóa phản ánh tâm hồn, khí phách, bản lĩnh, bản sắc, truyền
thống, sức mạnh, sức sống, sức sáng tạo của mỗi dân tộc.

2. Văn hóa chính trị

Văn hóa chính trị là một bộ phận, một phương diện của văn hóa trong xã

hội có giai cấp. Nó biểu hiện khả năng, năng lực của con người trong việc giác
ngộ lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, trong việc tổ chức, hoàn thiện hệ thống tổ

5

chức quyền lực nhằm hiện thực hóa lợi ích giai cấp hay lợi ích nhân dân phù
hợp với mục tiêu chính trị và sự tiến bộ xã hội. Văn hóa chính trị cịn biểu hiện
khả năng, mức độ điều chỉnh những quan hệ chính trị, phù hợp với truyền thống
và những chuẩn mực giá trị xã hội do đời sống cộng đồng của con người đặt ra.
Văn hóa chính trị phản ánh trình độ tự do, dân chủ, cơng bằng, văn minh, vì sự
tiến bộ của xã hội.

Trong Từ điển chính trị rút gọn của Liên xô, tập thể các tác giả cho rằng:
Văn hóa chính trị là trình độ và tính chất của những hiểu biết chính trị, những
nhận định, hành vi của công dân cũng như nội dung, chất lượng của những giá
trị xã hội, của những chuẩn mực xã hội và sự hoàn thiện của hệ thống tổ chức
quyền lực, phù hợp với phát triển và tiến bộ xã hội, góp phần điều chỉnh những
hành vi và quan hệ xã hội.

Như vậy có thể quan niệm: văn hóa chính trị là một lĩnh vực, một biểu
hiện đặc biệt của văn hóa của lồi người trong xã hội có giai cấp, văn hóa chính
trị được hiểu là trình độ phát triển của con người thể hiện ở trình độ hiểu biết
về chính trị, trình độ tổ chức hệ thống tổ chức quyền lực theo một chuẩn giá trị
xã hội nhất định nhằm điều hòa các quan hệ lợi ích giữa các giai cấp và bảo vệ
lợi ích của giai cấp cầm quyền, phù hợp với xu thế phát triển và tiến bộ xã hội.

II. SỰ HÌNH THÀNH VĂN HĨA CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
1. Văn hóa chính trị truyền thống
Văn hóa chính trị Việt Nam là tồn bộ những thái độ, lịng tin, chủ nghĩa


u nước, tình cảm của con người Việt Nam với tư tưởng cốt lõi là “Khơng có
gì q hơn độc lập tự do”. Nó là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo,
đấu tranh ngoan cường dựng nước và giữ nước của dân tộc, là kết quả của giao
lưu và tiếp thu của nhiều nền văn minh thế giới.

6

Văn hóa chính trị Việt Nam hình thành từ khi nhà nước sơ khai đầu tiên-
nhà nước Văn Lang, dưới thời đại các vua Hùng ra đời. Đó là kết quả của một
quá trình lâu dài hàng vạn năm của nền văn minh Sơng Hồng, mà nền văn hóa
- văn minh Đơng Sơn là đỉnh cao, là hội tụ khả năng của dân tộc trong dựng
nước và giữ nước. Từ buổi đầu dựng nước với văn hóa Hùng Vương, đến thời
kỳ độc lập với văn hóa “Đại Việt”, “Đại Nam”, văn hóa Việt Nam, do điều kiện
lịch sử quy định mà tư tưởng giữ vững, bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền
quốc gia, dựng nước gắn liền với giữ nước, là vấn đề chính trị lớn nhất, thường
xuyên đặt ra trước tất cả các nhà nước Việt Nam trong lịch sử.

Tư tưởng cốt lõi đó đồng thời là nội dung lớn nhất của lịch sử Việt Nam
đã quy định những chuẩn mực văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam. Có thể
khái qt những đặc trưng tiêu biểu của văn hóa chính trị Việt Nam:

- Nêu cao tinh thần dân tộc và truyền thống yêu nước, động viên sức mạnh
toàn dân vào cuộc đấu tranh vì độc lập tự do.

- Đề cao vai trò của nhân dân, dựa vào dân để giữ nước.
- Thể hiện tinh thần nhân bản sâu sắc. Trọng nhân nghĩa, yêu thương con

người bị áp bức bóc lột, u hịa bình, lên án bất cơng, tàn bạo, phi nhân
tính, chống chiến tranh xâm lược và nơ dịch dân tộc.
- Đề cao trí tuệ, trọng dụng nhân tài.

- Nêu cao pháp luật để trị nước, phát huy tinh thần dân chủ trong tổ chức
xã hội và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc…

Cùng với những đặc trưng trở thành truyền thống thì văn hóa chính trị
cũng bộc lộ những hạn chế, đòi hỏi phải nhận thức đầy đủ và vượt qua, đồng
thời để tiếp nhận những yếu tố văn minh của dân tộc khác, của nhân loại, để
nâng cao văn hóa văn minh dân tộc mình. Những hạn chế đó là:

- Tính vơ chính phủ của người tiểu nông khá rõ.

7

- Chế độ chuyên chế đã sản sinh ra tất cả những thiết chế, lễ nghi rườm rà,
phức tạp và một bộ máy quan liêu. Bộ máy đó khơng trực tiếp quản lý
mà cịn nặng nề bóc lột, áp bức.

- Văn hóa chính trị thơng thường là độc quyền của vua chúa, dân chỉ biết
nghe và cam chịu hơn là chủ động sáng tạo.

2. Văn hóa chính trị Việt Nam hiện đại

Văn hóa chính trị Việt Nam hiện đại bắt đầu được hình thành từ khi thắng
lợi của cuộc cách mạng chính trị, Đảng Cộng sản trở thành đảng cầm quyền,
nhà nước kiểu mới ra đời. Nền văn hóa ấy được thiết lập từ khi nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được
thành lập tháng 8-1945, nhưng dịch thực ở miền Bắc từ năm 1954 và trên phạm
vi cả nước từ năm 1975. Nền văn hóa chính trị đó là sự tiếp nối của những giá
trị văn hóa chính trị truyền thống được hình thành và phát triển trên những cơ
sở sau:


- Cơ sở kinh tế của văn hóa chính trị

Xét về bản chất, nền văn hóa chính trị hiện đại phải dựa trên cơ sở kinh
tế xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Đối với nước ta hiện
nay, với sự thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, cũng có nghĩa là
thừa nhận tính đa dạng của các hình thức sở hữu, song với việc khẳng định vị
thế chủ đạo của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu là bảo đảm định
hướng xã hội cho sự phát triển kinh tế, đồng thời cũng là bảo đảm về mặt kinh
tế cho việc hình thành và phát triển văn hóa chính trị.

- Cơ sở chính trị của văn hóa chính trị

Hệ thống chính trị mà trụ cột của nó là Nhà nước của dân, do dân và vì
dân, được tổ chức và hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm từng bước

8

hình thành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm toàn bộ quyền lực thuộc về
nhân dân là cơ sở chính trị cho văn hóa chính trị hình thành và phát triển.

- Cơ sở xã hội của văn hóa chính trị
Do việc thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần nên trong xã

hội tất yếu cịn tồn tại nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội. Trên cơ sở củng cố
khối liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng để tạo ra khả năng khách quan, thu hẹp
khoảng cách giữa nơng thơn và thành thị, giữa lao động trí óc và chân tay, hình
thành quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc, từng bước khắc phục sự bất bình đẳng,
sự bất công, cùng với nền giáo dục mới hướng vào mục đích tồn xã hội mà

trực tiếp là nâng cao dân chủ là cơ sở xã hội cho việc hình thành và phát triển
văn hóa chính trị.

- Cơ sở tư tưởng của văn hóa chính trị
Chân lý khoa học, bản chất nhân văn và nhân đạo của chủ nghĩa Mác-

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với những giá trị văn hóa truyền thống
chính là cơ sở khoa học cho những thái độ mácxít đối với việc nhận thức và
phát triển xã hội. Bởi vậy, chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
chính là nền tảng tinh thần của xã hội, cơ sở tư tưởng của văn hóa chính trị.

III. TÁC ĐỘNG CỦA SỰ ĐỔI MỚI VĂN HĨA CHÍNH TRỊ VIỆT
NAM

1. Thời cơ lớn để phát triển và thách thức nghiệt ngã trong phát triển
Đổi mới vừa là một thời cơ lớn để phát triển cần phải đón kịp vừa là một

thách thức nghiệt ngã trong phát triển cần phải vượt qua. Thời cơ lớn biểu hiện
ở chỗ, đổi mới là cơ hội để thay đổi cách nghĩ, cách làm, tầm nhìn, cách ứng
xử, đánh giá trước tình hình và thời cuộc đang biến chuyển sơi động. Đổi mới

9

mở ra những khả năng thực tế để mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế, khai thác
những nguồn lực từ bên ngoài để thúc đẩy và làm tăng sức mạnh của những
nguồn lực bên trong hướng vào mục tiêu phát triển. Đó là sự phát hiện các động
lực và sử dụng đúng đắn các động lực đó nhằm thực hiện tăng trưởng kinh tế
đi liền với tiến bộ và cơng bằng xã hội, đó là một trong những vấn đề quan
trọng nhất thuộc bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội.


Đổi mới mang tầm vóc của một cuộc cải biến cách mạng sâu xa và trên
quy mơ tồn xã hội. Đổi mới còn là một thời cơ lớn để đào tạo và rèn luyện cán
bộ, để thực hiện những cuộc cải cách, trước hết là ở hai lĩnh vực chủ yếu: kinh
tế và chính trị, gắn liền với đổi mới và xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống
chính trị. Đổi mới cịn củng cố và khơng ngừng mở rộng mối liên hệ xã hội, cơ
sở xã hội của Đảng, Nhà nước và chế độ nói chung, đó là sức mạnh, năng lực
sáng tạo của quần chúng, những người đã từng được cách mạng giải phóng và
trở thành những người chủ của xã hội.

Thách thức nghiệt ngã đồng thời là những nguy cơ cũng dần dần xuất
hiện và lộ rõ trong đà phát triển của kinh tế thị trường trong mở cửa, hội nhập.
Đó là thách thức và nguy cơ về chệch hướng xã hội chủ nghĩa, về tụt hậu và lạc
hậu ngày một xa hơn; quan liêu tham nhũng đã trở thành "quốc nạn", là âm
mưu "diễn biến hịa bình" của chủ nghĩa đế quốc hòng lật đổ các nước xã hội
chủ nghĩa cịn lại, trong đó có Việt Nam và thực hiện sự thống trị của chủ nghĩa
tư bản trên thế giới.

Thời cơ lớn đi liền với thách thức nghiệt ngã là một tác nhân rất quan
trọng về bối cảnh xã hội trong nước và quốc tế tới đổi mới, chi phối sự hình
thành văn hóa chính trị trong đổi mới.

2. Đổi mới và giải phóng các tiềm năng xã hội, giải phóng năng lực
sáng tạo của từng công dân và phát triển các năng lực xã hội. Tựu
trung lại, đó là năng lực văn hóa mà từng cá nhân và cộng đồng đều

10

cần có, đều có cơ hội thể hiện trong một mơi trường dân chủ công
bằng văn minh.


Đảng ta nhấn mạnh rằng, đổi mới trước hết là đối với ta là đổi mới tư
duy, đặc biệt là tư duy kinh tế. Đó là tiền đề nhận thức của đổi mới xã hội. Với
đổi mới tư duy, chúng ta đã dần từng bước khắc phục những sai lầm và hạn chế
của lối tư duy chủ quan, duy ý chí, bệnh giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm,
xây dựng tư duy khoa học, tư duy lý luận. Đổi mới tư duy kinh tế đã hình thành
nhận thức mới về sản xuất hàng hóa, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tơn trọng lợi ích cá nhân
của người lao động, coi đó là động lực trực tiếp để phát triển kinh tế, là cơ sở
để thực hiện lợi ích xã hội. Việc xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao
cấp và bình quân để chuyển sang cơ chế thị trường và phát triển nên kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo thuận lợi để mọi người phát
huy năng lực và sáng kiến cá nhân, khơng cam chịu đói nghèo mà vươn tới làm
giàu bằng lao động chính đáng, hợp pháp. Cơ chế thị trường tạo ra sự cạnh
tranh và phát triển vượt trội, xóa bỏ bình qn, bao cấp để thực hiện cơng bằng
xã hội, không chỉ trong lĩnh vực phân phối mà cái quan trọng hơn là thực hiện
công bằng về cơ hội phát triển, mọi người đều nhận được từ xã hội những cơ
hội như nhau để phát triển. Tư tưởng quan trọng hàng đầu của đổi mới là tư
tưởng về sự giải phóng - giải phóng lực lượng sản xuất và giải phóng tinh thần,
ý thức xã hội. Nhờ lực phát động của tư tưởng có ý nghĩa đột phá đó mà đời
sống xã hội lấy lại được sinh khí, trở nên năng động, sáng tạo với sự chuyển
động, của kinh tế hàng hóa và dân chủ hóa, với cơ chế thị trường và cơ chế dân
chủ, đặc biệt là quy chế dân chủ ở cơ sở, trước hết là dân chủ ở nông thôn và
của nông dân.

Tác động này của đổi mới đã làm biến đổi căn bản các mối quan hệ xã
hội của cá nhân và cộng đồng, hình thành văn hóa chính trị trong đổi mới.

11

3. Cùng với đổi mới kinh tế và trên cơ sở đổi mới kinh tế có kết quả,

Đảng ta chủ trương đổi mới chính trị một cách thận trọng, từng
bước một, đổi mới có ngun tắc, giữ vững ổn định chính trị để thực
hiện đổi mới, để hướng tới phát triển và phát triển bền vững.

Đổi mới chính trị thể hiện trực tiếp ở đổi mới hệ thống chính trị, làm cho
hệ thống chính trị của nước ta thể hiện được tính chất dân chủ, xây dựng cơ chế
dân chủ để thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động. Sự lãnh đạo
của Đảng và quản lý của nhà nước cùng với hoạt động phối hợp của Mặt trận
và các đoàn thể do Đảng lãnh đạo cùng nhằm vào mục tiêu: thực hiện quyền
lực chính trị, quyền làm chủ của nhân dân lao động. Trong giai đoạn hiện nay,
đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở, đặc biệt là ở cơ sở nông thôn đang đặt ra
như một đòi hỏi bức xúc. Một trong những vấn đề nổi bật của đổi mới hệ thống
chính trị ở nước ta là sự phân định thật rõ ràng chức năng, nhiệm vụ và phương
thức hoạt động giữa Đảng, Nhà nước với các đoàn thể, thực hiện đổi mới và
chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, coi đó là nhiệm vụ
then chốt, đồng thời đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, phát huy vai trị chủ động
tích cực của các đồn thể nhân dân.

Qua đó thực chất của đổi mới hệ thống chính trị là thực hiện và phát huy
dân chủ, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở, là đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng,
tăng cường pháp luật, kỷ luật, kỷ cương xã hội để nhân dân thực sự là chủ và
thực sự làm chủ. Việc thực hiện đúng đắn và nhất quán những ngun tắc và
quan điểm chính trị trong đổi mới có tầm quan trọng đặc biệt đảm bảo cho đổi
mới giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa, để thực hiện được mục tiêu
đổi mới mà Đảng đã vạch ra: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh"

12


Đổi mới càng đi vào chiều sâu, càng triển khai những nhiệm vụ to lớn và
phức tạp, càng làm nổi bật tầm quan trọng chiến lược của nhân tố chính trị và
đổi mới hệ thống chính trị. Đây là tác nhân chính trị trực tiếp, có ảnh hưởng
mạnh mẽ và to lớn tới sự hình thành văn hóa chính trị ở nước ta trong thời kỳ
đổi mới.

4. Ngoài những tác nhân đã nêu trên, những biến đổi về văn hóa và
đời sống văn hóa tinh thần, về tâm lý, ý thức và lối sống trong xã hội
ở thời kỳ đổi mới, trong điều kiện nền kinh tế thị trường và dân chủ
hóa xã hội đã tác động tới sự hình thành văn hóa chính trị ở nước ta
hiện nay.

Đời sống xã hội trong đổi mới đã biểu hiện rất rõ tính năng động của con
người về mặt tư duy và tư tưởng. Đây là sự khởi động tích cực nhờ có đổi mới
tư duy, tự do tư tưởng và sự giải phóng tinh thần, ý thức xã hội khỏi những sự
trì trệ, bảo thủ và giáo điều trước đây. Thông tin nhiều chiều và các phương
tiện chuyển tải thông tin đa dạng đã đem lại cho các tầng lớp nhân dân những
hiểu biết mới, góp phần rất quan trọng để nâng cao trình độ nhận thức, trình độ
dân trí, giúp cho quần chúng tiếp cận nhanh hơn với tình hình và các sự kiện
diễn ra trong đời sống xã hội, ở trong nước cũng như trên thế giới. Nó thúc đẩy
mạnh mẽ sự quan tâm của dân chúng đối với đời sống xã hội trên mọi lĩnh vực,
đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế và chính trị.

Một thực tiễn phổ biến đồng thời là một thành quả to lớn, thiết thực của
đổi mới là đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp dân cư ngày một nâng
cao so với trước đổi mới. Nhờ đó, nhu cầu văn hóa tinh thần của mỗi người có
điều kiện phát triển từ số lượng và chất lượng nhu cầu đến các phương tiện,
phương thức thực hiện nhu cầu.

Xã hội càng phát triển, nhu cầu dân chủ, nhu cầu sáng tạo của mỗi người

càng cao. Kinh tế thị trường và dân chủ hóa đã tác động tới sự biến đổi ý thức,

13

tâm lý, kể cả ý thức, tâm lý nông dân. Nó đồng thời cũng diễn ra những biến
đổi trong lối sống, trong sự lựa chọn giá trị và định hướng giá trị. Ở đây, đang
có sự đan xen rất phức tạp giữa cái tích cực, lành mạnh, hợp lý với cái tiêu cực,
khơng lành mạnh, thậm chí xuất hiện cả những biểu hiện trái với đạo lý và pháp
lý, đan xen cả tự giác lẫn tự phát, cả cái mới tiến bộ lẫn cái cũ lạc hậu quá thời.
Tác động mặt trái của cơ chế thị trường cùng với những lệch lạc, biến dạng của
dân chủ (tập trung quan liêu, phân tán, cục bộ, tự do vơ chính phủ và dân chủ
hình thức...) cùng với những yếu kém trong quản lý đã dẫn tới những sự đan
xen phức tạp nêu trên, giữa văn hóa và phản văn hóa,

Từ những vấn đề trên, có thể tóm gọn như sau:

- Thứ nhất, đổi mới làm xuất hiện nhữrng nhân tố tác động tới sự hình
thành văn hóa chính trị, tạo ra những điều kiện để văn hóa chính trị phát triển
lên một trình độ chất lượng mới, phù hợp với u cầu đổi mới. Chính đổi mới
đã khách quan hóa vai trị, tầm quan trọng của văn hóa và văn hóa chính trị.

- Thứ hai, đến lượt nó, văn hóa chính trị đóng vai trị một lực đẩy chính
trị - tinh thần quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp đổi mới phát triển, để đổi mới
thật sự là một q trình sáng tạo văn hóa, theo nghĩa rộng nhất của nó.

- Thứ ba, sự hình thành văn hóa chính trị trong đổi mới xét một cách trực
tiếp và thực chất là đổi mới quan niệm, nhận thức về văn hóa chính trị, xây
dựng những tiêu chuẩn, những chuẩn mực mới nhằm nâng cao chất lượng văn
hóa chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển mới của xã hội đồng thời đẩy
mạnh giáo dục và thực hành văn hóa chính trị trong cán bộ đảng viên, trong các

tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và đối
với thế hệ trẻ ở nước ta.

Giáo dục, tuyên truyền và thực hành rộng rãi văn hóa chính trị là một
trong những nhân tố đảm bảo nâng cao tiềm lực trí tuệ, tư tưởng và văn hóa của
Đảng Cộng sản cầm quyền, nâng cao trình độ văn hóa quản lý của nhà nước

14

đồng thời trau dồi năng lực thực hành dân chủ của đông đảo quần chúng nhân
dân.

IV. PHƯƠNG HƯỚNG GIÁO DỤC VĂN HĨA CHÍNH TRỊ TRONG
THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Có thể khẳng định rằng khi nhận thức và đánh giá đúng thực trạng kinh
tế - xã hội, phát hiện kịp thời những mâu thuẫn, dự báo đúng những xu hướng
và quy luật khách quan của sự phát triển, Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường
lối đổi mới toàn diện đất nước. Đổi mới là một tất yếu của q trình lịch sử,
mang tầm vóc của một cuộc cách mạng, cải biến cách mạng vĩ đại. Sự nghiệp
đổi mới thực chất là sự nghiệp văn hóa, là thực hiện tư tưởng giải phóng, giải
phóng lực lượng sản xuất, giải phóng tinh thần, ý thức tư tưởng, giải phóng và
phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con người trên cơ sở phát triển nền kinh
tế thị trường, mở cửa và thực hiện cuộc vận động dân chủ hóa, nhất là dân chủ
hóa trên lĩnh vực tinh thần. Thành bại của cơng cuộc đổi mới có thể nói phần
quan trọng tùy thuộc vào trình độ văn hóa nói chung và văn hóa chính trị nói
riêng. Sự nghiệp đổi mới càng phát triển theo bề rộng và đi vào chiều sâu, vai
trị nhận thức chính trị, các quan điểm và đường lối chính rị, các cơng nghệ
chính trị, kinh nghiệm và tính nhạy bén chính trị cần thiết… càng phát huy tác
dụng. Đồng thời sự nghiệp đổi mới cũng đặt ra yêu cầu cho việc xây dựng nền

văn hóa chính trị.

Trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để nâng
cao chất lượng của văn hóa chính trị, cơng tác giáo dục văn hóa chính trị cần
thực hiện theo một số phương hướng sau:

1. Cơng tác giáo dục văn hóa chính trị hướng vào đổi mới tư duy, nâng
cao trình độ nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, trau dồi đạo đức, rèn
luyện hành vi có văn hóa.

15

Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng trước hết cũng bắt đầu đổi mới
từ tư duy lý luận mà khâu đột phá mạnh là tư duy đổi mới kinh tế. Với sự khởi
đầu đúng đắn đó, những thành tựu đã đạt được đã chứng minh sự nghiệp đổi
mới đã tạo ra những tiền đề và điều kiện to lớn có ý nghĩa quyết định đến chiều
hướng phát triển của đất nước.

Công tác giáo dục văn hóa chính trị trên cơ sở thừa hưởng những thành
quả đó, tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả việc giáo dục chủ nghĩa Mác
– Lênin và tư tưởng Hồ CHí Minh, đường lối đổi mới của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước, giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống văn hóa, tọa cơ
sở cho việc đổi mới tư duy và nâng cao nhận thức về văn hóa chính trị cho cán
bộ, đảng viên và nhân dân. Tư duy văn hóa chính trị mới hiện nay phải là: thấm
nhuần lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh với mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự
phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa
giữa xã hội và tự nhiên; nhất quán đường lối đổi mới theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, vượt qua thách thức, nguy cơ, chớp thời cơ tiến hành thành cơng sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tiến hành thường xuyên có chất

lượng và hiệu quả sinh hoạt chính trị tự phê bình và phê bình về tư tưởng, đạo
đức, lối sống trong toàn Đảng và bộ máy nhà nước, trước hết là trong đội ngũ
cán bộ lãnh đạo và quản lý, quyết tâm phấn đấu để Tổ quốc ta mãi mãi là một
quốc gia văn hiến, dân tộc ta là một dân tộc văn hóa.

Việc giáo dục văn hóa chính trị hướng vào đổi mới tư duy, nâng cao nhận
thức, đồng thời cũng nhằm bồi dưỡng tình cảm cách mạng, trau dồi đạo đức và
rèn luyện hành vi có văn hóa cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, để mỗi người,
mỗi tổ chức soi vào trong quan hệ với chính bản thân mình, với người khác,
với tổ chức, đồn thể và với cơng việc. Trong giai đoạn hiện nay, giá trị chuẩn
cho hành vi là sống và làm việc theo pháp luật.

16

2. Giáo dục văn hóa chính trị hướng vào xây dựng và thực hiện thắng
lợi chiến lược phát triển đồng bộ kinh tế, chính trị, văn hóa, con người.
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn, với nền kinh tế chậm phát

triển, lại chịu hậu quả của cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài, tiến lên chủ nghĩa
xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, là quá trình cách mạng khó khăn, phức
tạp, chưa có tiền lệ. Điều đó địi hỏi nỗ lực chủ quan vượt bậc của Đảng, của
Nhà nước và của toàn dân. Tất nhiên, đây là quá trình cách mạng, vừa làm vừa
tổng kết kinh nghiệm, song về định hướng chiến lược tuyệt đối không được sai
lầm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhận thức về định hướng chiến lược của cách
mạng nước ta là:
- Độc lập cho Tổ quốc.
- Tự do cho dân tộc.
- Hạnh phúc cho đồng bào.

Đây cũng là nội dung cốt lõi của lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với

chủ nghĩa xã hội.

Việc giáo dục văn hóa chính trị nhằm nâng cao nhận thức chính trị, bồi
dưỡng tình cảm cách mạng... để trên cơ sở đó xây dựng đúng đắn và thực hiện
thắng lợi mục tiêu chính trị đề ra, mà mục tiêu cao cả nhất là xây dựng con
người Việt Nam với năm đức tính:

- Có ý thức tập thể, đồn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiện, trung thực, nhân

nghĩa, tôn trọng kỷ cương pháp nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức
bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật sáng tạo,
năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chun mơn, trình
độ thẩm mỹ và thể lực.

17

3. Giáo dục văn hóa chính trị hướng vào việc đổi mới, kiện toàn hệ thống
chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo chính trị duy nhất của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Giáo dục văn hóa chính trị hướng vào việc đổi mới, kiện tồn hệ thống

chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo chính trị duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam,
vai trò trụ cột của Nhà nước trong hệ thống chính trị, thực hiện tốt chức năng
quản lý xã hội, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc lơi
cuốn nhân dân lao động vào việc xây dựng và phát triển văn hóa chính trị.

Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai

đoạn hiện nay là nhằm từng bước hoàn thiện nền dân chủ, bảo đảm quyền lực
thuộc về nhân dân. Văn hóa chính trị mà chúng ta xây dựng là văn hóa dân chủ.
Thực hành văn hóa dân chủ cũng có nghĩa là thực hành văn hóa tranh luận, văn
hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp trong thực tiễn chính trị, nhằm góp phần hình
thành văn hóa cơng dân và văn hóa các nhà chính trị - nhân cách cơng dân,
nhân cách các nhà chính trị,

4. Giáo dục văn hóa chính trị hướng tới cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư
tưởng, lý luận.
Giáo dục văn hóa chính trị hướng tới cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư

tưởng, lý luận để khắc phục những tư tưởng tư sản, phong cách, lối sống tư sản,
tiểu tư sản; hướng tới cuộc đấu tranh chống cả hai khuynh hướng hoặc phủ
nhận truyền thống, cực đoan trong tiếp thu tinh hoa văn hóa dân tộc, hoặc tuyệt
đối hóa những giá trị truyền thống, giáo điều trong tiếp thu...

V. GIẢI PHÁP GIÁO DỤC VĂN HĨA CHÍNH TRỊ

Để thực hiện được những phương hướng nêu trên trong việc xây dựng
văn hóa chính trị, cần lưu ý những giải pháp sau:

- Thứ nhất: Nâng cao trình độ học vấn, mặt bằng dân trí trong xã hội. Dân
trí khơng chỉ hướng vào đối tượng nhân dân mà giờ đây phải đặc biệt

18

chú trọng tới năng lực hiểu biết, năng lực trí tuệ của người lãnh đạo,
người quản lý của công chức, quan chức. Nâng cao dân trí, đồng thời
phải rất chú trọng nâng cao chất lượng cán bộ lãnh đạo, nhất là đạo đức
và năng lực trí tuệ của họ (quan trí). Cán bộ đảng viên mà ngại khó, lười

học tập, rèn luyện được xem là sự thối hóa hư hỏng, khơng phù hợp với
yêu cầu "xã hội học tập" trong điều kiện hiện nay.
- Thứ hai: Mở rộng việc cung cấp thông tin, xã hội hóa và cập nhật hóa
thông tin theo tinh thần Công khai, dân chủ, đạo đức, pháp luật. Tính
khách quan, trung thực của thông tin và truyền bá thông tin là điều khơng
thể thiếu để có chính trị lành mạnh và văn hóa chính trị dân chủ.
- Thứ ba: Cùng với thông tin là đẩy mạnh giáo dục pháp luật. Tôn trọng
pháp luật, tự giác thực hiện pháp luật, đấu tranh cho việc pháp luật được
coi trọng và xử lý nghiêm minh theo luật, thực hiện nghiêm chỉnh nguyên
tắc bình đẳng của tất cả mọi người trước pháp luật, trừng trị theo pháp
luật đối với mọi hành vi phạm tội, khơng có bất cứ một kẽ hở, ngoại lệ
nào... là một đòi hỏi cấp bách. Khơng có những đảm bảo khoa học, đạo
đức, luật pháp thì khơng thể có bất cứ một văn hóa chính trị nào theo
nghĩa trung thực, nghiêm túc của nó. Văn hóa chính trị với tất cả tính
chất lành mạnh, trong sạch của đạo đức, nhân cách địi hỏi khơng nói
sng, khơng hình thức, khơng giả dối, lời nói phải đi đơi với việc làm.
- Thứ tư: Tơn trọng và thực hành các giá trị, các chuẩn mực dân chủ trong
lối sống, hành vi, ứng xử chính trị. Đối thoại, tranh luận trên tinh thần
trọng chân lý, trọng nhân cách của nhau, tự do tư tưởng, thảo luận dân
chủ, bình đẳng để tìm ra chân lý, khi chân lý đã tìm thấy rồi thì tự do tư
tưởng hóa ra tự do phục tùng chân lý. Đó là điều cần trau dồi ở tất cả mọi
người theo u cầu văn hóa chính trị, nhất là với những người nắm giữ
quyền lực.

19

- Thứ 5: Trau dồi đạo đức, thực hành đạo đức theo tư tưởng và gương
sáng đạo đức Hồ Chí Minh, Việc thực hành đạo đức cách mạng là cách
tốt nhất để chống chủ nghĩa cá nhân, cũng như muốn chống quan liêu thì
phải ra sức thực hành dân chủ (Hồ Chí Minh). Thực hành đạo đức cách

mạng ở tất cả mọi người, trong các mối quan hệ với tự mình, với người
khác, với cơng việc, với tổ chức. Phải có đủ bốn đức: cần, kiệm, liêm,
chính thì mới là người hồn tồn. Cần, kiệm, liêm, chính là đạo đức, là
chính trị, là sự cơ đọng các giá trị văn hóa đạo đức, văn hóa chính trị.

- Thứ 6: Đề cao tính nguyên tắc, tính kỷ luật (tính Đảng trong Công tác,
trong sinh hoạt Đảng, trong rèn luyện tư cách đảng viên, trong đấu tranh
phê bình. Chú trong Cơng tác kiểm tra, quản lý cán bộ, giữ mối liên hệ
mật thiết với dân, đưa vào dân mà xây dựng Đảng, mà giáo dục cán bộ.
Đó là điều đặc biệt cần thiết để xây dựng văn hóa chính trị trong Đảng,
nhà nước, hệ thống chính trị và trong xã hội nói chung.

20


×