Phần Mở đầu
Trong quá trình lịch sử 4000 năm hình thành, dựng nước và giữ nước người
thủ lĩnh chính trị có vai trị khơng thể thiểu trong bất cứ hồn cảnh nào. Người thủ
lĩnh chính trị có vai trị như một người đứng đầu người dẫn dắt, kêu gọi quần
chúng, giống như từ thời Hùng Vương khi đất nước vẫn chỉ là những bộ lạc riêng
lẻ, nhỏ bé và yếu ớt rất dễ bị xâm phạm đã có một người đứng lên liên kết tất cả
các bộ lạc lại hình thành nên nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, nhà nước
Văn Lang. Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của dân tộc Việt Nam cũng là một người
thủ lĩnh chính trị kiệt xuất. Người đã giác ngộ lý tưởng cách mạng vơ sản của chủ
nghĩa Mác-Lênin từ rất sớm, qua đó đưa Việt Nam từ một quốc gia nghèo đói và
lạc hậu phải chịu cảnh nô lệ, thuộc địa của chủ nghĩa thực dân tư bản phương Tây
đứng lên phá bỏ xiềng xích đấu tranh cho độc lập tự do của dân tộc đồng thời xây
dựng bộ máy chính quyền xã hội chủ nghĩa lãnh đạo nhân với Đảng đứng và giai
cấp cơng nhân là nịng cốt đầu nhằm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng phát
triển “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
Bài tiểu luận sau đây sẽ phân tích và làm rõ Phẩm chất và vai trị của
người thủ lĩnh chính trị. Liên hệ với thủ lĩnh chính trị của giai cấp cơng nhân
ở Việt Nam. Liên hệ tới vai trò của người đứng đầu ở Việt Nam hiện nay.
2
Phần Nội dung
I. Phẩm chất vai trị của thủ lĩnh chính trị.
1. Khái niệm của thủ lĩnh chính trị.
a. Quan niệm của Xênơphơn về thủ lĩnh chính trị.
- Nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại Xênôphôn được cho là người đầu tiên đưa ra
những khái niệm về thủ lĩnh chính trị. Theo ơng, việc làm chủ nghệ thuật
chính trị là trình độ cao hơn cả mà con người có thể đạt tới; cai trị nhà
nước trong đời sống nhân loại là công việc quan trọng nhất. Thủ lĩnh
chính trị hay người cai trị tối cao phải là người có khả năng lãnh đạo và
chỉ huy.
- Trong hoàn cảnh lịch sử của xã hội đương thời, Xênôphôn không chỉ đưa
ra quan niệm về người thủ lĩnh chính trị, ơng còn nêu ra những phẩm chất
cần có của thủ lĩnh chính trị:
Đó là người nhận thức được chính trị, giỏi kỹ thuật, giỏi thuyết phục,
biết làm rung cảm người nghe trong diễn thuyết.
Thủ lĩnh chính trị phải là người biết từ bổ lợi ích cá nhân để hướng tới
lợi ích chung của tập thể.
Người thủ lĩnh chính trị phải là nhà tâm lý học biết được động lực của
các hoạt động của con người.
Thiên tài của thủ lĩnh khơng phải tự nhiên mà có. Nó sinh ra từ sự kiên
nhẫn lâu dài, sự tự giành lấy mình, tự xứng đáng với mình…
Như vậy, thủ lĩnh chính trị theo Xênơphơn phải là người thơng minh, nhận
thức được chính trị; mọi nhà tâm lý biết lôi kéo, tập hợp và tác động đến
nhiều người khác; phải là người biết bảo vệ lợi ích chung, người đó phải do
tự rèn luyện mà nên; đó phải là người biểu hiện ý chí của thần linh.
3
b. Quan niệm của Xirêrôn về thủ lĩnh chính trị.
- Nhà tư tưởng La Mã cổ đại Xirêrôn quan niệm rằng thủ lĩnh chính trị phải
là nhà thơng thái. Ơng đặc biệt đề cao phẩm chất thông thái của người thủ
lĩnh. Nhờ thơng thái người thủ lĩnh có thể tập hợp được mọi người, cai trị
được họ và thể hiện đầy đủ ý chí của thần linh. Ơng cho rằng, quyền lực
không sinh ra bởi cá nhân mà được sinh ra bởi nhân dân.
c. Quan niệm về thủ lĩnh chính trị thời kỳ cận-hiện đại.
- Theo quan điểm của các nhà triết học duy tâm, trong mối quan hệ quan
trong với quần chúng, cá nhân vĩ nhân có vai trị quyết định sự phát triển
của lịch sử. Theo họ, cái quyết định xã hội “thăng trầm” là do hiểu được
hay không hiểu được ý trời hay chân lý vĩnh cửu. Sở dĩ xã hội phải trải
qua những giai đoạn “thăng trầm điên đảo”, những cảnh trái ngược bất
cơng, kẻ thì giàu sang, người lại nghèo đói, những cuộc “tương tàn đổ
máu” là vì chưa xuất hiện những vĩ nhân hiểu được ý trời hay chân lý vĩnh
cửu. Những vĩ nhân xuất hiện sớm chừng nào thì sẽ có thể xây dựng
những xã hội “tự do, bình đẳng, bác ái” sớm chừng ấy và đồng thời tránh
cho nhân loại những đau thương và những điều xấu xa. Tất nhiên, cũng có
hoài niệm theo thuyết định mệnh, phụ nhận hồn tồn vai trị của các cá
nhân xuất sắc, các lãnh tụ đối với phong trào.
- Khẳng định vai trò sáng tạo ra lịch sử của quần chúng nhân dân, chủ nghĩa
Mác-Lênin rất coi trọng tác dụng của lãnh tụ, của những nhà lãnh đạo, thủ lĩnh
xuất sắc trong sự phát triển của xã hội. Xã hội loài người phát triển theo quy
luật khách quan, tồn tại ngoài ý muốn chủ quan của con người. Những quy luật
khách quan ấy được biểu hiện thông qua hoạt động có ý thức, có mục đích của
con người, của tập đồn người, của đảng phái chính trị. Nếu con người nhận
thức được quy luật khách quan và quy luật của họ hợp với tiến trình lịch sử thì
sẽ gây tác hại kìm hãm, tiêu cực. Vì thế, khi nhận thức thấu đáo được những
quy luật của xã hội thì tác động của con người đối với lịch sử càng lớn, xã hội
4
càng tiến nhanh. Tuy nhiên, nhận thức của con người khơng giống nhau. Có
người thấy sớm hơn, cơ bản nhờ có tài năng, hiểu biết rộng và kinh nghiệm
phong phú, từng trải. Những nhân tài đó xuất hiện ở các thời đại khác nhau,
trên các lĩnh vực khác nhau.
- Trong lĩnh vực hoạt động chính trị, vai trị của các lãnh tụ, thủ lĩnh ngày càng
có ý nghĩa to lớn vì chính trị liên quan đến tới số phận hàng triệu triệu con
người. Để đấu tranh thủ tiêu chế độ người bóc lột người và chế độ tư hữu xây
dựng xã hội mới, xã hội do nhân dân lao động làm chủ thì người tổ chức,
người lãnh đạo có vai trị cực kỳ quan trọng. Nếu khơng có Đảng Mác-Lênin
và người lãnh tụ xuất sắc của Đảng, có kinh nghiệm, biết nhìn xa, trơng rộng
thì sự nghiệp giải phóng của giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người
không thể thắng lợi được.
- Những lãnh tụ, những nhân vật xuất sắc không phải ngẫu nhiên mà có. Đó là
kết quả của cả một q trình đấu tranh cách mạng của đơng đảo quần chúng
nhân dân, của cả một quá trình lịch sử tạo nên những điều kiện nhất định cho
việc xuất hiện những nhân vật với khả năng và đức tính nhất định có thể giải
quyết những nhiệm vụ mà lịch sử đặt ra. Ăngghen viết: “Việc một vĩ nhân này
và chính vĩ nhân ấy xuất hiện trong một thời điểm nhất định ở một nước nhất
định dĩ nhiên là ngẫu nhiên hoàn toàn. Nhưng nếu con người đó bị gạt bỏ thì
xuất hiện nhu cầu phải có người thay thế ơng ta và tìm được người thay thế
đó – một người thay thế đạt ít nhiều, nhưng cùng với thời gian, thì tìm được”.
Như vậy, tác dụng của những vĩ nhân, thủ lĩnh chính trị trong lịch sử là tất
yếu. Nhưng những đặc tính, khả năng, vai trị của họ trong các thời kỳ lịch
sử là khac nhau. Mỗi thời đại có những lãnh tụ đặc trưng với những đức
tính và khả năng riêng để giải quyết những nhiệm vụ lịch sử mà thời đại đặt
ra.
Hiện nay, trong các tài liệu khác nhau, người ta sử dụng những thuật ngữ
khác nhau: thủ lĩnh chính trị, lãnh tụ chính trị, người lãnh đạo chính trị…
5
Về thực chất những thuật ngữ này là những từ đồng nghĩa. Có thể quan
niệm về thủ lĩnh chính trị như sau: Thủ lĩnh chính trị là nhân vật xuất sắc
trong lĩnh vực hoạt động chính trị, xuất hiện trong những điều kiện lịch sử
nhất định, có sự giác ngộ lợi ích mục tiêu, lý tưởng giai cấp, có khả năng
tổ chức và tập hợp quần chúng để giải quyết những nhiệm vụ chính trị do
lịch sử đặt ra.
2. Những phẩm chất của thủ lĩnh chính trị.
Những yếu tố cần có của một người thủ lĩnh chính trị.
- Là người thủ lĩnh chính trị thì dù ở bất cứ chế độ xã hội nào và trong bất
cứ thời đại nào cũng đều cần phải có những phẩm chất nhất định, như: có
trí tuệ, có năng lực đạt tới mục tiêu chính trị đề ra, có khả năng cai trị...
Trong mỗi chế độ chính trị, ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, người
thủ lĩnh chính trị cũng có những phẩm chất riêng. Phẩm chất của người
thủ lĩnh chính trị trong xã hội chiếm hữu nơ lệ khác với thủ lĩnh chính trị
trong chế độ phong kiến cũng khơng giống với thủ lĩnh chính trị của giai
cấp tư sản. Và tất nhiên thủ lĩnh chính trị của giai cấp vơ sản sẽ khác về
chất so với tát các loại thủ lĩnh trong xã hội dựa trên sự bóc lột. Bởi vậy,
khi xem xét về phẩm chất của thủ lĩnh chính trị cần có quan điểm khách
quan, tồn diện, dựa vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể và đặc biệt phải có quan
điểm giai cấp rõ ràng vì chính trị là đấu tranh cho lợi ích giai cấp, thủ lĩnh
chính trị ln là người thể hiện tập trung, biểu hiện cho lợi ích giai cấp.
- Theo cách đánh giá của các nhà khoa học ở các nước xã hội chủ
nghĩa, những phẩm chất cần có của một nhà lãnh đạo là:
Có khả năng tác động đến mọi người xung quanh.
Có khả năng hiểu biết mọi người và phản ứng nhanh.
6
Có trí tuệ thực tiễn, tìm ra phương án bố trí mọi người dưới quyền.
Có khả năng tự phê bình biết nhìn thấy khuyết điểm của mình.
Biết xây dựng các mối quan hệ với người xung quanh.
Có trình độ tư duy và trí tuệ rộng.
Có tính sáng tạo cao.
Có tính địi hỏi với bản thân và người khác.
Có khả năng tổ chức: biết đề ra mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ cụ thể,
biết tổ chức q trình thực hiện nhiệm vụ; có khả năng cổ vũ mọi
người làm việc; biết đưa cơng tác kiểm sốt vào nề nếp.
Biết độc lập đánh giá và bảo vệ ý kiến của mình.
Có ý chí.
Có khả năng làm việc cao (Sức khỏe và hệ thần kinh).
- Theo các nhà khoa học phương Tây, những phẩm chất cần có của
những người lãnh đạo là:
Có trình độ hiểu biết và khả năng hiểu biết uyên thâm trên các lĩnh
vực.
Có trình độ tổ chức: khả năng đề ra mục tiêu cho tập thể; phân công
các chức năng cụ thể cho từng người; biết tổ chức công việc tốt; khả
năng động viên mọi người, khả năng kiểm sốt, kiểm tra cơng việc.
Có khả năng giao tiếp với mọi người biết tự nhìn thấy mình và biết
nhận xét về người khác.
Có tính trung thực và cơng bằng.
Có bản lĩnh và quyết đốn; khả năng đặt ra vấn đề, thơng qua đó vượt
qua khó khăn; khả năng so sánh với các sự việc xung quanh.
7
Tính chân thành.
Tính chịu đựng.
Tính có mục tiêu.
Có khả năng đồng cảm.
Phẩm chất về mặt trí tuệ - thể hiện khi ra quyết định, có óc suy xét trên
cơ sở khoa học.
Nắm được nghệ thuật lãnh đạo. Đó là hành vì đúng lúc, đúng chỗ,
chính xác; là tác phong, cách nói; biết giấu đi những gì thuộc về cá
tính; biết giữ mình đúng vị trí lãnh đạo.
Có lịng tin vào chính bản thân mình.
Có khả năng tự kiểm tra bản thân.
Có khả năng mất đi sự căng thẳng của chính mình và xung quanh.
Có khả năng giữ gìn và bảo vệ uy tín của mình.
Có chính kiến riêng và biết bảo vệ chính kiến.
Có sự say mê và lịng tin.
Có trình độ về văn hóa, nghệ thuật, xã hội.
Hình dáng bề ngồi: sự gọn gàng, ngăn nắp, lịch sự.
Có lịng tin vào cấp dưới và quần chúng.
Là người tốt trong gia đình.
Có thể khái quát về phẩm chất của người lãnh đạo – thủ lĩnh chính trị
như sau:
Thứ nhất, về trình độ hiểu biết: người thủ lĩnh chính trị nhất thiết phải là
người thơng minh, có trình độ hiểu biết sâu rộng các lĩnh vực; có trình độ
trí tuệ, có tư duy khoa học; nắm vững được quy luật phát biểu theo hướng
8
vận động của q trình chính trị; có khả năng dự báo, tiên đốn tình hình,
làm chủ được khoa học và nghệ thuật lãnh đạo, quản lý
Thứ hai, về phẩm chất chính trị: thủ lĩnh chính trị phải là người giác ngộ lợi
ích giai cấp, thể hiện tập trung, tiêu biểu cho lợi ích giai cấp; trung thành
với mục tiêu lý tưởng đã chọn; dũng cảm đấu tranh bảo vệ lợi ích giai cấp,
có bản lĩnh chính trị vững vàng trước những bước phát triển phức tạp,
quanh co của lịch sử.
Thứ ba, về năng lực tổ chức: thủ lĩnh chính trị là người có khả năng về
công tác tổ chức, nghĩa là biết đề ra mục tiêu đúng; phân công đúng chức
năng cho cấp dưới và cho từng người, biết tổ chức thực hiện nhiệm vụ
chính trị; có khả năng động viên, cổ vũ, khích lệ mọi người hoạt động; có
khả năng kiểm sốt, kiểm tra công việc.
Thứ tư, về đạo đức, tác phong: thủ lĩnh chính trị phải là người có tính trung
thực đạo đức, cơng bằng, không tham lam,vụ lợi; cởi mở và cương quyết;
có lối sống giản dị; có khả năng giao tiếp và tạo mối quan hệ tốt với mọi
người; biết lắng nghe ý kiến của người khác, có lịng tin vào chính bản thân
mình; có khả năng tự kiểm tra bản thân, khả năng giữ gìn và bảo vệ chính
kiến; có lịng say mê cơng việc và lịng tin vào cấp dưới.
Thứ năm, về khả năng làm việc: có sức khỏe tốt, khả năng làm việc cao, có
khả năng giải quyết mọi vấn đề một cách sáng tạo; nhạy cảm và năng động;
biết cảm nhận cái mới và đấu tranh vì cái mới.
3. Vai trị của thủ lĩnh chính trị.
Là những nhân vật xuất sắc trong lĩnh vực hoạt động chính trị, khác với
những con người chính trị khác, thủ lĩnh chính trị có vai trị to lớn đối
với tiến trình phát triển của lịch sử. Tuy nhiên, tùy theo những điều kiện
lịch sử, vị thế của giai cấp hay tầng lớp sản sinh ra người cầm đầu mà
vai trò của thủ lĩnh chính trị có thể là tích cực hay tiêu cực.
9
a. Vai trị tích cực của thủ lĩnh chính trị
Vai trị tích cực của thủ lĩnh chính trị chỉ xuất hiện khi giai cấp sinh ra thủ
lĩnh là tiến bộ, hoạt động của thủ lĩnh phù hợp với quy luật khách quan với
tiến trình phát triển của lịch sử, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của
quần chúng. Đó chính là lãnh tụ của quần chúng. Chỉ như vậy, họ mới tập
hợp, động viên được quần chúng và được quần chúng ủng hộ. Sức mạnh của
họ là sức mạnh của quần chúng.
Vai trị tích cực của thủ lĩnh chính trị được thể hiện ở những điểm sau:
- Do nhận thức đúng yêu cầu phát triển của xã hội và khả năng hiện có, thủ
lĩnh chính trị có vai trị quyết định trong việc xây dựng, hồn thiện hệ
thống tổ chức quyền lực mà chính họ là linh hồn của hệ thống đó, hướng
hệ thống quyền lực phục vụ việc thỏa mãn nhu cầu của xã hội, của giai
cấp, góp phần tạo động lực thúc đẩy xã hội phát triển
- Cùng đội tiên phong của giai cấp, thủ lĩnh chính trị lơi kéo, tập hợp quần
chúng, thuyết phục, giáo dục và phát huy sức mạnh của quần chúng trong
đấu tranh chính trị nhằm giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, phù
hợp với nhu cầu xã hội và lợi ích giai cấp.
- Thủ lĩnh chính trị của giai cấp cơng nhân, đại biểu cho lợi ích giai cấp
công nhân, đại biểu cho lợi ích của giai cấp, của dân tộc, do có khả năng
nhìn xa, trơng rộng cho nên khơng những có khả năng tổ chức, tập hợp lực
lượng, lãnh đạo phong trào mà cịn có khả năng đưa phong trào vượt qua
những khúc quanh co của lịch sử, thực hiện thắng lợi mục tiêu chính trị đã
đề ra. Trong thực tiễn lịch sử, Lênin cùng đảng Bơsêvích Nga đã đưa nước
Nga thoát khỏi cuộc bao vây, tấn cơng của 14 nước đế quốc, thốt khỏi
tình trạng kiệt quệ của thời kỳ nội chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng
Đảng Cộng sản Việt Nam đưa cách mạng nước ta đi cùng quỹ đạo cách
mạng vơ sản, vượt qua hiểm nghèo “nghìn cân treo sợi tóc” (1946), để
giành thắng lợi trong chiến tranh chống thực dân Pháp…
10
- Thủ lĩnh chính trị có vai trị thúc đẩy nhanh tiến trình cách mạng, mang lại
hiệu quả cao cho phong trào cách mạng, cho hoạt động của quần chúng.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ của thời đại đặt ra, thủ lĩnh chính trị đi vào
lịch sử, sống trong tâm tưởng của thời đại sau.
b. Vai trị tiêu cực của thủ lĩnh chính trị
Thơng thường, vai trị tiêu cực của thủ lĩnh chính trị là do vị thế của giai
cấp sản sinh ra thủ lĩnh quy định. Giai cấp tiến bộ đại diện cho lực lượng
sản xuất tiến bộ thì thủ lĩnh của giai cấp phản động tất yếu sẽ có vai trị tiêu
cực, kìm hãm sự phát triển. Tuy nhiên, ở giai cấp tiến bộ cũng có trường
hợp, do người thủ lĩnh thiếu tài kém đức hoặc có tài nhưng kém đức, cá
nhân chủ nghĩa, chun quyền độc đốn, nên khơng có khả năng nhận thức
đúng đắn và vận dụng sáng tạo quy luật khách quan, trái với lợi ích của
quần chúng, đi ngược với xu thế của thời đại. Trong trường hợp này, vai trị
người thủ lĩnh kìm hãm sự phát triển của lịch sử.
Vai trị tiêu cực của thủ lĩnh chính trị thể hiện ở những điểm sau:
- Do thiếu tài, kém đức nên khơng có khả năng lãnh đạo phong trào, không
biết “chớp thời cơ vượt qua thử thách” để hoàn thành nhiệm vụ do lịch sử
đặt ra, đặc biệt, trước những bước ngoặt của lịch sử thường tỏ ra bối rối,
dao động, thậm chí trở nên phản động lái phong trào đi ngược lại lợi ích
của quần chúng. Sự phản bội của Gcbachốp khơng chỉ có hại đối với
cách mạng Liên Xô, Đảng cộng sản Liên Xơ, nhân dân Xơ-Viết, mà cịn
khiến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản của nhân loại trở nên quanh
co, phức tạp.
- Người thủ lĩnh chính trị khơng xuất phát từ lợi ích chung mà vì quyền lợi
riêng tư, động cơ không trong sang nên thường gây bè phái, chia rẽ, mất
đoàn kết trong hệ thống tổ chức quyền lực, làm suy giảm vai trò, sức
mạnh của tổ chức, hạn chế, ngăn trở khả năng của mỗi cá nhân, làm giảm
hiệu quả của việc giải quyết những nhiệm vụ, mục tiêu chính trị đã đề ra.
11
- Do phong cách làm việc độc đoán chuyên quyền hoặc do năng lực hạn chế
của người thủ lĩnh mà nguyên tắc dân chủ trong tổ chức và hoạt động bị
tước bỏ, nhân quên thường bị vi phạm, phong trào cách mạng thiếu động
lực và sinh khí để phát triển.
- Trong điều kiện thế giới đầy biến động phức tạp như hiện nay, quyết định
sai trái của “những cái đầu nóng” của các vị thủ lĩnh khiến nhân loại phải
trả giá đắt, đôi khi khơng thể lường trước được.
II. Thủ lĩnh chính trị của giai cấp công nhân ở
Việt Nam.
1. Quan điểm mácxít về người lãnh đạo chính trị
của giai cấp công nhân.
Người lãnh đạo chính trị của giai cấp cơng nhân, thơng thường là người
đứng đầu, những người lãnh đạo các tổ chức Đảng, chính quyền và các
tổ chức chính trị-xã hội khác. Họ là những người được trưởng thành,
phát triển trong thực tiễn của cuộc đấu tranh cách mạng nhằm thủ tiêu
chủ nghĩa tư bản và mọi chế độ người bóc lột người, xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trong phạm vi mỗi quốc
gia cũng như trên toàn thế giới.
Theo Lênin, để đánh giá phẩm chất của người lãnh đạo chính trị của giai
cấp công nhân cần xuất phát từ quan điểm:
- Quan điểm về sự toàn tâm toàn ý.
- Theo quan điểm chính trị.
- Theo hiểu biết về cơng việc.
- Những khả năng cai trị.
Lênin cho rằng: “Một người lãnh đạo chính trị không những phải chịu
trách nhiệm về hành động của những người dưới quyền mình nữa”
12
Khi nói về phẩm chất của Bộ trưởng, Lênin đưa ra 5 tiêu chuẩn:
- Có phẩm chất chính trị.
- Có tài tổ chức.
- Tận tụy với cơng việc.
- Có sự hiểu biết cơng việc.
- Có khả năng làm việc với những người xung quanh.
Kế thừa những di sản quý báu của Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
luôn xác định: đã là người lãnh đạo thì mọi thời kỳ đều phải có đủ phẩm chất
và năng lực, đủ đức và tài. Trong đó, đức là gốc, tài là quan trọng. Tùy thuộc
vào mỗi giai đoạn phát triển lịch sử cụ thể, đức, tài có những biểu hiện khác
nhau.
Ở nước ta “đức” cần được biểu hiện ở những nội dung như sau:
- Đó là phẩm chất chính trị, trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa, lòng trung
thành với Đảng, với nhân dân, với chế độ; kiên định mục tiêu lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa nghĩa xã hội; quyết tâm phấn đấu hy sinh cho
mục tiêu, lý tưởng đó.
- Đó là đạo đức trong sang, trung thực, khơng cơ hội, cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư; khơng tham nhũng, khơng đặt lợi ích cá nhân lên lợi
ích của Đảng của dân tộc.
- Đó là lối sống trong sạch, lành mạnh, gần gũi nhân dân, gương mẫu và
gắn bó với quần chúng.
- Đó là phong cách dân chủ, khoa học, sâu sát, thực tế với cơ sở; là ý thức
tổ chức kỷ luật. chấp hành nghiêm túc chỉ thị, nghị quyết, sự phân công,
điều động của tổ chức; ý thức lãnh đạo tập thể đi đôi với trách nhiệm cá
nhân.
Ngồi “đức”, người cán bộ cần phải có “tài”. Đó là: tri thức, trình độ trí
tuệ, năng lực tổ chức, khả năng quản lý điều hành…
13
2. Phẩm chất của người lãnh đạo chính trị của giai
cấp cơng nhân.
Người cán bộ chính trị của giai cấp cơng nhân cần phải có một số
phẩm chất như sau:
- Có phẩm chất chính trị tốt, trung với nước, hiếu với dân, giác ngộ xã hội
chủ nghĩa trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác-Lênin, với chế độ xã
hội chủ nghĩa, kiên định với mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. u thương con người, sống có tình, có nghĩa: cần, kiệm,
liêm, chính, chí cơng vơ tư; có tinh thần quốc tế vơ sản trong sang, nắm
vững đường lối, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
- Có kiến thức sâu rộng, uyên bác, am hiểu công việc chuyên môn, có kinh
nghiệm thực tiễn phong phú, có khả năng tiên đốn sự biến động tình hình
làm chủ khoa học-cơng nghệ, có nghệ thuật lãnh đạo, có kinh nghiệm
thực tiễn phong phú.
- Có tài tổ chức, quản lý, điều hành công việc, thực hiện mục tiêu chính trị
đã đề ra; nhạy cảm, năng động với cái mới và có khả năng xử lý các mối
quan hệ.
- Có thái độ, tác phong làm việc tốt: tận tụy , tồn tâm tồn ý với cơng việc,
có tính địi hỏi của người lãnh đạo, có uy tín đối với mọi người, có khả
năng cổ vũ, động viên mọi người làm việc.
- Có đủ sức khỏe để hồn thành tốt cơng việc được giao, có khả năng giải
quyết mọi vấn đề một cách sáng tạo.
Tóm lại, phẩm chất của người lãnh đạo của giai cấp công nhân là: tuyệt
đối trung thành với chủ nghĩa cộng sản, suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp
giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động bị áp bức, hiểu thấu
đáo và vận dụng sáng tạo quy luật phát triển xã hội, nhìn xa, trơng rộng,
14
định ra được chiến lược, sách lược đúng đắn; biết đánh giá đúng tương
quan lực lượng, phán đốn đúng tình thế, nhận định đúng thời cơ, biết sử
dụng mọi hình thức đấu tranh của quần chúng và nhanh chóng chuyển từ
hình thức này sang hình thức khác khi tình thế thay đổi; có tài trí cao, có
quyết tâm lớn, biết tiến, biết lui đúng lúc để đưa sự nghiệp cách mạng tiến
đến thắng lợi; gắn bó mật thiết với quần chúng; được dân u, dân mến,
dân tín; có tinh thần đổi mới, đủ năng lực lãnh đạo thành công sự nghiệp
đổi mới vì chủ nghĩa xã hội; có lịng u nước thiết tha và chủ nghĩa quốc
tế trong sáng cao cả…
3. Phương hướng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính
trị của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ
mới.
Người lãnh đạo chính trị của giai cấp cơng nhân Việt Nam thường được
gọi là cán bộ lãnh đạo chính trị. Họ là những cán bộ chủ chốt của hệ thống
chính trị nhà nước ta. Do đó, việc quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng
đội ngũ chính trị cũng chính là quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội
ngũ chủ chốt của hệ thống chính trị.
Theo quan điểm của Đảng ta, cán bộ là nhân tố quan trọng, quyết định
sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất
nước và của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng.
Ngày nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, nhiệm vụ chính trị mới vơ cùng nặng nề, khó khăn và
phức tạp, địi hỏi phải có đội ngũ cán bộ chính trị ngang tầm, góp phần
thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa.
a. Quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị.
Để xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị cũng như đội ngũ
15
cán bộ chung đáp ứng yêu cầu của thời kỳ phát triển mới của đất nước,
trước hết phải thông suốt những quan điểm cơ bản sau:
- Phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội. Chính sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước vừa tạo ra nhiều tiền đề, điều kiện, vừa đặt ra những yêu cầu cho việc
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị. Chính q trình đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là môi trường thực tiễn
để rèn luyện, tuyển chọn và đào tạo, nâng cao phẩm chất kiến thức, năng lực
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị.
- Quán triệt nội dung, quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy
truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị
phải thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; giác ngộ
lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và nhân loại; có tính tổ chức, tính kỷ luật và
tác phong công nghiệp…tăng cường số cán bộ có xuất thân từ cơng nhân.
- Gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị với xây dựng và đổi
mới cơ chế, chính sách; việc quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ lãnh
đạo chính trị phải gắn với yêu cầu và nội dung xây dựng tổ chức Đảng trong
sạch, vững mạnh, xây dựng bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân; kiện tồn hệ thống chính trị, đổi mới cơ chế chính
sách.
- Thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng, nâng cao trình độ
dân trí để tuyển chọn, giáo dục và rèn luyện, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chính trị.
- Trên cơ sở phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, nâng cao dân trí để xây
dựng đội ngũ cán bộ một cách cơ bản, chính quy, có hệ thống, đồng thời
thơng qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân để giáo
16
dục, rèn luyện, đào tạo, đánh giá, sàng lọc, tuyển chọn cán bộ lãnh đạo chính
trị.
- Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ nói
chung (trong đó có cán bộ lãnh đạo chính trị) theo nguyên tắc tập trung dân
chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị.
b. Những tiêu chuẩn của cán bộ lãnh đạo chính trị.
Một là: Có tinh thần yêu nước sâu sắc, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ
sở lập trường giai cấp công nhân; tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách
mạng, với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có năng lực dự báo và định hướng sự phát
triển, tổng kết thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật;
thuyết phục và tổ chức nhân dân thực hiện. Có ý thức và khả năng đấu tranh
bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và Pháp luật của Nhà nước.
Hai là: Gương mẫu về đạo đức và lối sống, cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ
tư; có tác phong dân chủ, khoa học; có khả năng tập hợp quần chúng, đoàn kết
cán bộ; gắn bó mật thiết với dân, được nhân dân tín nhiệm.
Ba là: Có kiến thức, hiểu biết về lý luận chính trị, đường lối chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; có kiến thức về khoa học lãnh đạo và quản lý,
trải qua hoạt động thực tiễn có hiệu quả có đủ năng lực và sức khỏe, làm việc
hiệu quả.
c. Một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu.
- Xây dựng, quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính
trị phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ tổ chức để quy hoạch
đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Tập trung vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý
những cá nhân có nhiều thành tích xuất sắc trong cơng cuộc đổi mới; chú
ý tới những cơng nhân, nơng dân, trí thức, con em các gia đình có cơng
với cách mạng, có triển vọng, có thành tích, có sáng kiến trong lao động,
17
cơng tác; khuyến khích những sinh viên xuất sắc, các nhà khoa học trẻ
trên các lĩnh vực.
Trong công tác đào tạo bồi dưỡng, phải đổi mới việc xây dựng kế
hoạch, nội dung, phương thức đào tạo gắn với thực tiễn.
- Xây dựng quy chế công tác cán bộ. Cần xây dựng quy chế, kế hoạch đánh
giá cán bộ, tuyển chọn cán bộ, bầu cử, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ; thực
hiện sự luân chuyển và chế độ học tập bắt buộc đối với cán bộ nhằm nâng
cao trình độ mọi mặt, đảm bảo sự thống nhất về chính trị, tư tưởng trong
toàn đội ngũ… Ngồi ra, cần có cơ chế để nhân dân tham gia công tác xây
dựng cán bộ, kiểm tra, bảo vệ cán bộ; thực hiện tốt chế độ phân công,
phân cấp cán bộ.
- Thực hiện đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách đào tạo, bồi dưỡng,
sử dụng đến chính sách quản lý, chính sách đảm bảo lợi ích vật chất và
tinh thần cho cán bộ, đảm bảo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh
đạo chính trị.
- Tuyển chọn đúng những người công tâm, trung thực, trong sang, đủ taid,
đức, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ phát triển mới của đất nước.
- Đổi mới và chỉnh đốn tổ chức bộ máy cán bộ cả về cơ cấu tổ chức, phong
cách và phương pháp làm công tác nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo,
phân tán không rõ trách nhiệm, không nắm được cán bộ.
Trên cơ sở chiến lược đúng đắn, xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và
cán bộ chính trị nói riêng đủ tài và đức là điều kiện quyết định thắng lợi
sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc.
III. Vai trò của người đứng đầu ở Việt Nam
hiện nay.
18
Trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người căn dặn: “Đảng ta là
một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo
đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật
sự trung thành của nhân dân”. Qua lời căn dặn ấy, cho thấy lúc sinh thời,
Người rất quan tâm đến đảng viên và cán bộ, vì đây là một trong những nhân tố
quyết định trong giai đoạn đấu tranh giải phóng đất nước, trong công cuộc bảo
vệ và xây dựng Tổ quốc. Dựa vào những nghiên cứu, phân tích mới của khoa
học lãnh đạo, bài viết này dẫn chứng lý luận về lãnh đạo và vai trị của người
lãnh đạo, qua đó tiếp tục khẳng định giá trị khoa học mang tính thời đại qua lời
dạy của Bác Hồ.
Trong các nghiên cứu khoa học về lãnh đạo tuy có nhiều cách tiếp cận
khác nhau, song cũng khá thống nhất với quan điểm cho rằng: lãnh đạo là lựa
chọn và xác định mục tiêu, chỉ ra con đường đi đến mục tiêu. Đồng thời là sự
truyền cảm hứng, sự chia sẻ đến mọi người trong quá trình đi đến mục tiêu đó.
Nếu ở quản lý yêu cầu tính bắt buộc và sự nhất quán trong các mối quan hệ
cơng việc thì ở lãnh đạo u cầu tính động và linh hoạt trong các mối quan hệ
nhằm huy động tối ưu mọi nỗ lực của con người. Lãnh đạo đề ra đường lối, dẫn
dắt mọi người bằng khai mở tiềm năng và chia sẻ trong quá trình đi đến mục
tiêu đã lựa chọn. Bản chất của lãnh đạo cũng được phản ánh ở chức năng và
phương thức lãnh đạo. Chức năng lãnh đạo chính là xác định mục tiêu và đề ra
các chủ trương, đường lối theo định hướng mục tiêu đã lựa chọn. Phương thức
lãnh đạo được thực hiện chủ yếu bằng con đường giáo dục, thuyết phục, động
viên, nêu gương để tập hợp mọi người trong q trình thực hiện mục tiêu. Qua
đó, khái niệm lãnh đạo có thể hiểu: lãnh đạo là q trình hành động gây ảnh
hưởng lên người khác nhằm khơi dậy cảm xúc và cam kết cùng hành động vì
mục tiêu chung. Hay, lãnh đạo là quá trình chỉ dẫn và khai mở tiềm năng cho
19
mọi người nhằm đem lại phúc lợi chung thông qua sự khích lệ và chia sẻ của
chủ thể lãnh đạo.
Chính vì vậy, vai trò của người lãnh đạo hết sức quan trọng. Người lãnh
đạo ln chiếm vị trí quan trọng trong thực tiễn hoạt động của bất kỳ cơ quan,
tổ chức hay cộng đồng xã hội nào. Các nhà nghiên cứu đầu tiên về lãnh đạo
cũng tập trung vào việc tìm hiểu và phân tích các phẩm chất, năng lực đặc biệt
của những người lãnh đạo kiệt xuất từ trong lịch sử đến hiện đại, từ lĩnh vực
chính trị sang tơn giáo hay kinh doanh. Để tạo được ảnh hưởng tích cực với
người khác, người lãnh đạo được mong đợi thực hiện nhiều vai trị, trong đó có
05 vai trị nổi bật, đó là: người thủ lĩnh; người khai tâm; người truyền cảm
hứng; người điều hòa; người bạn, người kèm cặp.
Người thủ lĩnh
Người lãnh đạo được nhìn nhận đầu tiên như thủ lĩnh của tập thể, cộng
đồng.
- Thứ nhất, vị thế thủ lĩnh được người khác thừa nhận thông qua những tố
chất vượt trội của cá nhân lãnh đạo như: tính quyết đoán, khả năng thuyết
phục, dẫn dắt, nhiều ý tưởng, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
- Thứ hai, vai trò thủ lĩnh được thừa nhận thông qua hành động cụ thể của
người lãnh đạo như có tầm nhìn mang tính dẫn dắt cùng với việc xác định
phương hướng hành động cho tổ chức, cộng sự để thực hiện hóa tầm nhìn.
Trong q trình đó, những tốt chất nêu trên được thể hiện thông qua các
hành động cụ thể như có quyết định kịp thời, dành thời gian, tâm huyết,
thuyết phục, huy động được nguồn lực trong và ngoài.
- Thứ ba, thủ lĩnh phải là người có ý chí quyết tâm, dám đương đầu với thử
thách. Sự sáng suốt, quyết liệt, sự kiên định của người lãnh đạo là sự động
viên, cộng đồng, tập thể tin tưởng đi theo, làm theo. Người lãnh đạo không
dám thể hiện bản lĩnh tiên phong và khả năng thuyết phục trong những
20
hồn cảnh khó khăn thì khơng thể tạo được ảnh hưởng tích cực lên người
khác.
- Thứ tư, thủ lĩnh biết sử dụng các công cụ quyền lực một cách thông minh,
với sự chú trọng nhiều hơn đến công cụ quyền lực mềm như: sự hiểu biết,
tri thức, sự gương mẫu của bản thân, nhất quán giữa nói và làm, ứng xử
khoan dung độ lượng, thưởng – phạt nghiêm minh.
Người khai tâm
Lãnh đạo hướng tới sự thay đổi, và sự thay đổi bao giờ cũng bao hàm các
yếu tố mới từ ý tưởng tầm nhìn đến phương thức thực hiện, từ xác định phương
hướng hành động đến phát hiện khả năng, sở trường, sở đoản của cộng sự để
giao trách nhiệm. Mức độ lan tỏa và chấp nhận cái mới không đồng đều giữa
lãnh đạo với những người xung quanh. Do đó, người lãnh đạo cần thể hiện vai
trò truyền bá cái mới, khai tâm cho những người đi theo.
Người lãnh đạo là người khai tâm theo nghĩa hướng mọi người đi theo lẽ
phải, theo con đường đúng đắn, hợp lý. Muốn thế, người lãnh đạo phải là người
có khả năng đề ra mục tiêu, lôi kéo, thuyết phục người khác chấp nhận và cam
kết cùng thực hiện thành công mục tiêu.
Lãnh đạo phải là người khai tâm, là người dẫn dắt về trí tuệ, là người chủ
xướng đề xuất các ý tưởng. Người khai tâm cũng có nghĩa là người thầy đối với
mọi người. Người thầy khơng có nghĩa là cái gì cũng hiểu, cũng có đầy đủ tri
thức cần thiết để đi dạy người khác. Người lãnh đạo trở thành người thầy một
phần ở sự hiểu biết rộng, hệ thống tri thức phong phú, một phần ở cách tiếp cận
vấn đề, cách tổng hợp, lắng nghe, tiếp nhận, chọn lọc tri thức có lợi cho hiệu
quả cơng việc. Vì vậy, đức tính khiêm tốn, tác phong cầu thị ln là phương
châm làm việc của người lãnh đạo.
Mặt khác, thực tiễn cuộc sống cho thấy, ý tưởng có thể xuất hiện từ bất
kỳ một cá nhân nào trong tổ chức. Trong một môi trường thuận lợi, cởi mở và
21