Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiểu luận pháp luật đại cương thực hiện pháp luật ở việt nam ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.64 KB, 28 trang )

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN : PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

ĐỀ BÀI : VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

MỤC LỤC

Mở đầu 1
1. Lý do chọn đề tài....................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài...........................................................1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài..............................................1
3.1 Đối tượng nghiên cứu :.....................................................................1
3.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài :.......................................................1
4. Ý nghĩa của đề tài...................................................................................1
4.1 Ý nghĩa lý luận...................................................................................1
4.2 Ý nghĩa thực tiễn...............................................................................2
5. Bố cục của đề tài.....................................................................................2

NỘI DUNG.......................................................................................................3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..............................................................3
1. Pháp luật. Thực hiện pháp luật là gì?..............................................3
2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật:....................................................5
3. Các hình thức thực hiện pháp luật:...................................................6
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.........................................................................10
1. Thực trạng việc thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay...........10
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật ở nước ta hiện
nay. 13
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.......................................21


1. Các giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện pháp luật ở nước
ta hiện nay................................................................................................21
2. Liên hệ bản thân...............................................................................22

KẾT LUẬN....................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................24

Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài.

Việc ban hành pháp luật nhằm mục đích điều chỉnh các hệ thống
xã hội, thứ tự, củng cố và phát triển các hệ thống xã hội nhằm mục đích đạt
được những mục tiêu nhất định. Điều này chỉ được bắt đầu khi có đầy đủ các
quy tắc của pháp luật trong cuộc sống. Vì vậy, các vấn đề thi pháp luật trong
cuộc sống là vô cùng quan trọng. Đặc biệt ở một đất nước xã hội chủ nghĩa
theo quyền lợi trong thời kỳ thay đổi mới như nước ta hiện nay, vấn đề thực
thi pháp luật càng đặc biệt nổi cộm. Nước ta đã và đang nỗ lực để xây dựng
một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tuy nhiên vẫn còn những thứ bất cập trong
cuộc sống việc làm cho luật này có hiệu lực.

Chính vì điều đó, tơi quyết định tài liệu nghiên cứu lựa chọn: “Thực
hiện pháp luật ở Việt Nam ngày nay”. Đề tài này cung cấp cho người đọc
những cơ bản kiến thức về lý luận thi hành pháp luật, thực hiện thi hành pháp
luật ở Việt Nam và các giải pháp.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài.

Hiện nay nó đang là một nghiên cứu chủ đề về thực thi pháp luật ở
nước ta, vì vậy, một số tác giả, biểu tượng cũng tiến hành nghiên cứu tài liệu.

Có thể nói, đó là chủ đề của đại cương pháp luật do Trường Đại học Kinh tế
quốc dân xuất bản, hay sách pháp luật, giáo trình nhà nước và phổ thơng luật,
Nguyễn Văn Tạo, Nhà xuất bản Thống kê , Hà Nội, tháng 4 năm 2008, ..

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
3.1 Đối tượng nghiên cứu :

Nghiên cứu làm rõ : “Việc thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay”.

1

3.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài :
Nghiên cứu lý luận về “Việc thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay”.
4. Ý nghĩa của đề tài
4.1 Ý nghĩa lý luận.
Đề tài giải quyết được vấn đề về thực hiện pháp luật ở nước ta hiện
nay.
4.2 Ý nghĩa thực tiễn.
Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy, học tập các nội dung liên quan đến pháp luật của Nhà nước trong bộ môn
pháp luật đại cương và các chuyên ngành khoa học khác.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài còn
được chia thành 3 chương :
Chương 1. Cơ sở lý luận cho việc thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2. Cơ sở thực tiễn việc thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3. Giải pháp nâng cao việc thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay.

2


3

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1. Pháp luật. Thực hiện pháp luật là gì?

Pháp luật xuất hiện trong mọi mặt của đời sống và là công cụ quan
trọng để Nhà nước thực hiện việc tổ chức và quản lí xã hội. Thơng qua pháp
luật, con người được sống và làm việc trong một môi trường an tồn và có kỷ
luật. Vai trị của pháp luật có thể được xem xét ở nhiều góc độ, mức độ, nhiều
khía cạnh và nhiều chiều khác nhau. Bất cứ một quốc gia nào cũng cần ngày
càng hoàn thiện hệ thống pháp luật để nhằm đảm bảo quyền và nghĩa vụ cơ
bản của con người cũng như sự phát triển của đất nước mình.Vì vậy, giáo dục
pháp luật ngày càng trở nên quan trọng với sự gia tăng của toàn cầu hóa và
tiến bộ cơng nghệ nhanh chóng. Trong bài này, chúng tôi sẽ xem xét một số
khái niệm và nguyên tắc chính thúc đẩy hệ thống pháp luật. Ngồi ra, kiểm tra
các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về bảo vệ quyền con người, pháp quyền và dân
chủ cũng như bảo vệ quyền của người thiểu số và các quy định của pháp luật
về bình đẳng giới. Cuối cùng, bài sẽ trình bày một số khuyến nghị về cách
thức để hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật Việt Nam.

Luật: Một công cụ để tổ chức và quản lý

Khái niệm “luật” lần đầu tiên được đặt ra bởi người Hy Lạp cổ đại
(Hershkowitz, 1993) và dùng để chỉ bất kỳ sắc lệnh hoặc đạo luật có thẩm
quyền nào được thơng qua bởi một tổ chức chính phủ. Theo Foucault (1988),
pháp luật bao gồm tất cả các quy phạm pháp luật, quy tắc, quy tắc, quy tắc,

quy phạm pháp luật và nghị định xác định hành vi của cá nhân hoặc nhóm
người. Quan điểm này nhấn mạnh rằng pháp luật không chỉ là một tập hợp

4

các quan hệ xã hội giữa chính phủ và cơng dân, mà còn liên quan đến sự phát
triển của đất nước.

Trước hết, chúng ta có thể khẳng định thực hiện pháp luật là giai đoạn
thứ hai sau khi đã tiến hành giai đoạn xây dựng pháp luật và là giai đoạn quan
trọng, không thể thiếu. Bởi chỉ khi được thực thi trong đời sống qua sự điều
chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì trật tự và tạo điều kiện cho xã hội phát triển
thì pháp luật mới thể hiện các vai trị và chức năng quan trọng của nó. Nói
cách khác, thực thi pháp luật cũng có nghĩa là một nhóm người nhất định thực
hiện các công việc theo các quy tắc do hệ thống pháp luật liên quan xây dựng,
được gọi là hoạt động “thực thi pháp luật”. Đây là hình thức hành động chính
của nhà nước theo hệ thống hành pháp. Thực thi pháp luật là một hoạt động
thiết yếu của Chính phủ Nhìn chung, có thể nói chính phủ thực thi luật sau khi
q trình xây dựng luật hồn tất. Là một loại hoạt động do chính phủ thực
hiện, thực hiện pháp luật đóng vai trị thiết yếu trong việc điều chỉnh sự hình
thành đời sống xã hội và phát triển kinh tế cũng như giữ gìn an ninh trật tự
công cộng. Các hoạt động thực thi luật được tổ chức và chia thành các giai
đoạn khác nhau Theo kinh nghiệm lịch sử, chủ yếu có ba giai đoạn thực hiện
pháp luật: Giai đoạn đầu khi pháp luật được ban hành; giai đoạn thứ hai là khi
việc thực hiện bắt đầu; giai đoạn thứ ba là khi chính sách có hiệu lực và
khơng cịn cần phải thi hành nữa. Nhưng sự phân chia này khơng có nghĩa là
luật khơng thể được cải tiến hoặc sửa đổi trong các giai đoạn này. Việc thi
hành luật có thể khác nhau tùy từng thời điểm và mỗi giai đoạn có thể có
nhiều phương thức thi hành luật. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu hai ví dụ
điển hình để mơ tả cách thức thực hiện pháp luật trong thực tế: Luật


Như vậy, vấn đề quan trọng không chỉ là xây dựng hệ thống pháp luật
như thế nào mà hơn nữa còn là vấn đề thực hiện pháp luật như thế nào. Vậy
trước hết ta cần hiểu thực hiện pháp luật là gì.

5

Theo quy định của pháp luật, ta có thể hiểu thực hiện pháp luật là hành
vi của chủ thể (hành động hoặc không hành động) được tiến hành phù hợp với
quy định, với yêu cầu của pháp luật, tức là không trái, không vượt quá khuôn
khổ mà pháp luật đã quy định. Như vậy, thực hiện pháp luật có thể là một xử
sự có tính chủ động, được tiến hành bằng một thao tác nhất định nào đó
nhưng thực hiện pháp luật cũng có thể là một xử sự mang tính thụ động, tức là
không tiến hành vượt xử sự bị pháp luật cấm. Nó có thể ở dạng im lặng, thiếu
tuân thủ, v.v., để bạn nghe thấy nó nói: "anh ấy đã khơng làm điều này". Từ
"hạnh kiểm" ở đây có nghĩa là chủ thể phải có hiểu biết về sự tồn tại của pháp
luật và anh ta có khả năng tuân thủ nó. Nếu anh ta biết có luật, anh ta sẽ
khơng nghi ngờ gì về việc phải làm. Nhưng nếu anh ta thiếu kiến thức đó, anh
ta có thể khơng biết rằng có một mơn học bị cấm trước mặt anh ta. trong đó
con người phải hành động. Chúng rất chi tiết, nhưng chúng đều được nêu như
những quy tắc chung, tức là chúng khơng cụ thể. Do đó, khi một người nói
điều gì đó như: "Nếu anh ta biết điều đó, tại sao anh ta khơng tn theo nó?",
Điều này có nghĩa là anh ta khơng muốn làm theo những điều đó một cách chi
tiết và muốn tránh làm bất cứ điều gì sai trái. Những luật này được che giấu
khỏi anh ta, vì lý do này hay lý do khác.

2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật:

Thực hiện pháp luật rất nhiều đặc điểm. Tuy nhiên, ta có thể nêu ra
những đặc điểm cơ bản sau đây:


- Đặc điểm đầu tiên và rất quan trọng đó là thực hiện pháp luật bằng
hành vi: Chúng ta đều biết mỗi con người trước một sự việc đều sẽ nảy sinh ra
các hành vi trên cơ sở nhận thức và hành vi đó được biểu hiện bằng hành
động hoặc khơng hành động trên thực tế. Khi có hành vi xảy ra thì con người
phải chịu trách nhiệm về hành vi đó.

6

- Một đặc điểm nữa cũng vơ cùng quan trọng đó là thực hiện pháp luật
phải đảm bảo các yêu cầu theo quy định pháp luật: thực hiện pháp luật trước
hết và cơ bản là thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý được pháp luật quy
định đối với chủ thể. Việc thực hiện pháp luật trên từng lĩnh vực của đời sống
pháp lý là khác nhau.

- Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích cụ thể: Mỗi đối tượng
khi thực hiện việc gì đều sẽ mục đích cụ thể. Mục đích thực hiện pháp luật
của chủ thể là phạm trù mang tính cơ quan và tùy thuộc vào từng lĩnh vực,
hình thức thực hiện pháp luật mà mục đích khơng giống nhau, có tính rõ ràng
đảm bảo thực hiện pháp luật có tác dụng lâu dài của các chủ thể.

- Thực hiện pháp luật phải thông qua quan hệ pháp luật: Mối quan hệ
giữa thực hiện pháp luật và pháp luật như sau, pháp lật là sản phẩm của việc
thực hiện pháp luật và quan hệ pháp luật là môi trường, điều kiện cần thiết
cho quá trình thực hiện pháp luật.

- Đặc điểm cuối cùng của thực hiện pháp luật là trong quá trình thực
hiện pháp luật phải được đảm bảo bằng các biện pháp của Nhà nước quy định
bởi vì pháp luật là sản phẩm của Nhà nước tạo nên. Trong thực tế xã hội,
pháp luật được dùng để thể hiện ý chí số đơng nhân dân lao động trong xã hội

chính vì thế việc pháp luật được tôn trọng và thực thi nghiêm minh là yêu cầu
khách quan được đặt ra từ chính đời sống xã hội và sự mong muốn của Nhà
nước cũng như nguyện vọng chung của đa số nhân dân trên mỗi quốc gia.

3. Các hình thức thực hiện pháp luật:

Thực hiện pháp luật có bốn hình thức sau đây, cụ thể là:

- Thứ nhất là tuân thủ pháp luật:

Tuân thủ pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật theo một cách thụ
động, thể hiện ở sự kiềm chế của chủ thể để không vi phạm các quy định hay
cấm đoán của hệ thống pháp luật các quốc gia.

7

Sự kiềm chế của các chủ thể pháp luật được hiểu là khi pháp luật quy
định cấm làm một điều gì đó thì họ khơng tiến hành hoạt động này mặc dù họ
có cơ hội để thực hiện một hành vi bị cấm. Ở hình thức này, hành vi của chủ
thể pháp luật được thể hiện dưới dạng không hành động. Chẳng hạn, sinh viên
không trao đổi bài trong khi làm bài kiểm tra.

Ví dụ thực tế: Các chủ thể làm việc trong một cơ quan Nhà nước không
nhận tham nhũng.

- Thứ hai là thi hành pháp luật:

Thi hành pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật một cách chủ động.
Chủ thể pháp luật sẽ chủ động thực hiện các nghĩa vụ của mình.


Chủ thể pháp luật phải tiến hành các hoạt động bắt buộc là khi họ ở
trong điều kiện mà pháp luật quy định thì phải làm những việc mà nhà nước
yêu cầu, họ khơng thể viện lí do để từ chối. Sự đòi hỏi của nhà nước đối với
các chủ thể là phải tích cực tiến hành những hoạt động nhất định. Ở hình thức
này, hành vi của chủ thể thi hành pháp luật được thể hiện dưới dạng hành
động. Chẳng hạn, một người bơi lội giỏi đã thực hiện hành vi cứu giúp người
gặp nạn, sắp bị chết đuối.

Ví dụ thực tế: Cơng dân Việt Nam thực hiện nghĩa vụ đóng thuế theo
đúng quy định pháp luật.

- Thứ ba là sử dụng pháp luật:

Tại hình thức sử dụng pháp luật các chủ thể có thể thực hiện quyền chủ
thể của mình.

Sử dụng pháp luật được hiểu là khả năng của các chủ thể pháp luật có
thể sử dụng để khai thác hay không sử dụng, khai thác, hưởng quyền mà pháp
luật đã dành cho mình.

8

Ngoài ra, đây cịn là hình thức chủ thể pháp luật thực hiện các quyền
theo quy định của pháp luật. Nhà nước tạo khả năng cho chủ thể pháp luật có
thể được hưởng những quyền nào đó và họ đã căn cứ vào mong muốn, điều
kiện của mình để thực hiện các quyền này. Chẳng hạn, một người làm di chúc
để lại tài sản của mình cho những người thừa kế.

Ví dụ thực tế: Cán bộ Ủy ban nhân dân các cấp xem xét cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kết hôn cho công dân theo quy định của pháp luật.


- Hình thức thực hiện pháp luật cuối cùng là áp dụng pháp luật:

Hình thức áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó
nhà nước thơng qua các cơ quan có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp
luật thực hiện các quy định của pháp luật hoặc ban hành các quyết định cụ thể
để làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể.

Đây là hình thức thực hiện pháp luật rất quan trọng, phức tạp, vì vậy nó
cần được nghiên cứu kĩ hơn ở phần sau.

Ví dụ cụ thể: Cảnh sát giao thông ra quyết định xử phạt vi phạm hành
chính đối với các cá nhân tham gia giao thông sai làn đường.

Áp dụng pháp luật có một số đặc điểm sau đây cần phải chú ý:

 Hình thức áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà
nước, được thực hiện bằng quyền lực của Nhà nước.

 Hình thức áp dụng pháp luật là hoạt động có thủ tục phức tạp và chặt
chẽ được pháp luật quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật liên quan.

 Hình thức áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo.
 Hình thức áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính cá biệt cho từng
quan hệ xã hội nhất định.

9

Thực tế đối với việc phân chia thực hiện pháp luật thành bốn hình thức
thực hiện pháp luật nêu trên chỉ có tính chất tương đối, có ý nghĩa chính về

mặt lý luận bởi các hình thức thực hiện pháp luật nêu trên thường không tồn
tại một cách riêng lẻ, mà sẽ được tiến hành đồng thời, có những trường hợp
các hình thức này lại bao gồm cả hình thức khác khi các chủ thể thực thi
quyền, nghĩa vụ của mình trong từng mối quan hệ pháp luật.

Cần lưu ý là, trong thực tiễn, các thuật ngữ tuân theo pháp luật, thi hành
pháp luật, áp dụng pháp luật... có thể được hiểu theo những nghĩa rộng hơn,
nhiều khi chúng được sử dụng đồng nghĩa với thuật ngữ thực hiện pháp luật.
Chẳng hạn, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định: “Cơng dân có nghĩa vụ
tn theo Hiến pháp và pháp luật”, trong trường hợp này cụm từ “tuân theo
Hiến pháp và pháp luật” được hiểu tương đồng với “thực hiện Hiến pháp và
pháp luật”. Tương tự, Quốc hội có Nghị quyết về việc thi hành Hiến pháp
năm 2013, Nghị quyết về việc thi hành Bộ luật hình sự năm 2015..., trong
những trường hợp này, thuật ngữ “thi hành” được hiểu tương đồng với thuật
ngữ “thực hiện”, nó được sử dụng thay thế cho thuật ngữ “thực hiện”. Luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 có điều khoản quy định về
áp dụng văn bản quy phạm pháp luật, tuy nhiên cần phải hiểu, điều luật này
chính là sự quy định về việc thực hiện các quy định trong văn bản quy phạm
pháp luật.

10

CHƯƠNG 2:
CƠ SỞ THỰC TIỄN VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1. Thực trạng việc thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
1.1. Thành tựu


Việt Nam đang trên con đường phát triển kinh tế xã hội theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, tạo những điều kiện thuận lợi nhất định đối với đời
sống vật chất, tinh thần của người dân cũng như các hoạt động thực hiện pháp
luật của họ.Bài báo này phản ánh các xu hướng và vấn đề của cảnh sát quốc
gia ở Việt Nam.

Lực lượng Công an là tổ chức có nhiệm vụ giữ gìn trật tự, an ninh, an
tồn cơng cộng, phịng chống tội phạm và bảo vệ quyền con người. Tầm quan
trọng của việc duy trì sự tồn vẹn của trật tự cơng cộng càng trở nên cấp thiết
hơn kể từ khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ra đời ở nước ta. Nghĩa vụ gìn giữ
hịa bình và hịa hợp là nhiệm vụ phải được mọi công dân đề cao mọi lúc.
Trong những năm gần đây, Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam rất chú
trọng đến vấn đề kiện toàn các cơ quan bảo vệ pháp luật với mục tiêu nâng
cao hiệu quả và năng lực tổ chức, hoạt động, phát triển nhân sự và đào tạo
theo nhu cầu. Những nỗ lực này đã dẫn đến những thành tựu mới và phát triển
các phương pháp thực hành tốt. Các cơ quan hành pháp đóng một vai trị quan
trọng trong xã hội. Họ khơng chỉ có trách nhiệm phịng, chống tội phạm mà
cịn bảo vệ lợi ích của Nhà nước và của cơng dân. Với việc thực hiện Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc tạo ra vai trò và trách nhiệm
mới cho các cơ quan hành pháp đã được thực hiện như một phần của sứ mệnh
lịch sử to lớn. Phạm vi của công việc này bao gồm tất cả các khía cạnh hoạt
động của cảnh sát, bao gồm phịng ngừa, phát hiện, bắt giữ, điều tra và trừng
phạt, bảo vệ tài sản và tài sản công, v.v

11

Có thể nói rằng, thực tiễn thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay có
biểu hiện tương đối tốt. Thực hiện Đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam,
chính sách của nhà nước, sự quan tâm chỉ đạo của các ban cấp lãnh đạo, công
tác tuyên truyền pháp luật của các cơ quan chức năng; tất cả những nhân tố đó

đã tạo cho người dân một cái nhìn tổng quan và chính xác nhất về pháp luật,
từ đó, người dân chấp hành, tuân thủ và thực hiện pháp luật một cách tự giác,
chủ động và nghiêm chỉnh. Ví dụ như có nhiều vụ tham nhũng của các cán bộ
công chức nhà nước như tham nhũng về đất, tiền đóng góp của người dân. . .
đã bị người dân khiếu nại, tố cáo. Nhân dân ủng hộ nhiệt tình với các chủ
trương của chính phủ trong việc giải quyết dứt khốt, khơng tránh né dù đối
tượng có cương vị, trọng trách cao đến đâu, cũng có nghĩa rằng nhu cầu cơng
bằng xã hội được dư luận xã hội quan tâm, tán thành, ủng hộ. Không chỉ đem
lại quyền lợi cho người dân mà thể hiện tính dân chủ của nhà nước. Điều này
cũng cho thấy nhận thức về pháp luật của người dân đã được củng cố và nâng
cao.

Hơn nữa, việc thực hiện pháp luật đã đạt nhiều điểm nổi bật. Hệ thống
pháp luật nước ta được bổ sung, hoàn thiện ngày càng trở nên đồng bộ và toàn
diện hơn. Nhiều văn bản cũng như qui định pháp luật được thực hiện nghiêm
chỉnh trong thực tế và phát huy vai trị của mình trong việc ổn định kinh tế xã
hội, tạo điều kiện phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho người dân. Công bằng, dân chủ từng bước được củng cố trong hệ thống
pháp luật, thúc đẩy xã hội phát triển, tiến tới xây dựng đất nước ngày càng
phát triển vững mạnh, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.

Sự phát triển về kinh tế với những chính sách kinh tế thuận lợi; đường
lối chính trị đúng đắn, định hướng nhân cách con người; nét đẹp truyền thống
và những đổi mới theo hướng tích cực, lối sống văn hóa cùng với các hệ
thống pháp lý chặt chẽ đã tạo điều kiện cho người dân thực hiện pháp luật

12

một cách hiệu quả nhất. Nhìn chung, xã hội hiện nay tương đối ổn định, có

điều kiện phát triển kinh tế xã hội; để có được điều này là nhờ có hoạt động
thực hiện pháp luật của con người được đảm bảo, duy trì và giữ vững.

1.2. Hạn chế và bất cập
- Bên cạnh những mặt tích cực trong thực tiễn hoạt động thực hiện
pháp luật ở nước ta hiện nay thì trong thực tế vẫn còn tồn đọng một số hạn
chế, bất cập trong quá trình thực hiện pháp luật. Mặc dù có sự chỉ đạo của các
cơ quan chức năng có thẩm quyền, đường lối chính trị đúng đắn của nhà
nước, tuy nhiên, trong xã hội vẫn tồn tại một bộ phận không nhỏ thực hiện
pháp luật trái với quy định nhà nước, có thể gọi là vi phạm pháp luật và tội
phạm. Điều này cho thấy ý thức pháp luật của những bộ phận này chưa cao,
kém hiểu biết và ảnh hưởng xấu tới sự ổn định và trật tự xã hội.
- Không chỉ vậy, một số bất cập, hạn chế cũng có thể được kể đến
như : kinh tế tăng trưởng nhưng chưa đồng đều, chất lượng cũng như khả
năng cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao; vấn đề về xóa đói giảm ngh giải
quyết còn chậm chạp; chất lượng giáo dục còn thấp; nạn tham nhũng, tội
phạm và các tệ nạn xã hội khác vẫn có xu hướng tăng; hiệu quả hoạt động của
bộ máy nhà nước cịn chưa cao, cơng tác quản lí, giám sát chưa thật chặt
chẽ… Ngồi ra, nguồn kinh phí đầu tư cho hoạt động thực hiện pháp luật
cũng chưa được quan tâm thích đáng. Nhiều trường hợp thiếu kinh phí thực
hiện nhưng nhiều trường hợp lại có hiện tượng lãng phí, tốn kém. Một số thủ
tục pháp lí cịn rườm rà, khơng cần thiết. Các bộ luật cịn hay phải sửa đổi gây
tốn kém mà nhiều khi vẫn không đáp ứng kịp nhu cầu phát triển của cuộc
sống.
1.3. Nguyên nhân của những mặt hạn chế, tiêu cực :
- Hệ thống pháp luật có chất lượng chưa cao. Dù đã được hồn thiện
nhưng do trình độ pháp lí thấp nên những bất cập khơng được giải quyết triệt
để. Một phần cũng là do kĩ năng, trình độ, lực lượng của đội ngũ cán bộ chưa

13


cao, một số nội dung, tư tưởng chỉ đạo còn thiếu thống nhất. Nhiều văn bản
pháp luật còn chung chung, khơng thể trực tiếp thực hiện trong thực tế. Ngồi
ra công tác đánh giá chất lượng của hoạt động xây dựng và thực hiện pháp
luật chưa được tiến hành thường xuyên và đầy đủ gây khó khăn cho việc tổng
kết, đúc rút kinh nghiệm.

- Hoạt động giải thích pháp luật ít được tiến hành hoặc tiến hành
khơng chính danh gây khó khăn cho việc thực hiện pháp luật chính xác.

- Công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục chưa được đầu tư đúng
mức nên pháp luật khơng đến được với tồn thể nhân dân.

- Cũng phải kể đến ý thức pháp luật của người dân chưa cao, không
nhận thức được đầy đủ vai trò của pháp luật, còn nhiều tình trạng nói mà
khơng làm của cả người dân lẫn các cán bộ, cơng chức nhà nước. Lí do này
cũng xuất phát từ trình độ dân trí cịn hạn chế cũng như điều kiện phát triển
kinh tế-xã hội của nước ta.

- Để khắc phục những hạn chế trên, nước ta đã chú trọng đến một số
giải pháp cơ bản như: đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật trong đời sống
nhà nước và xã hội; không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ
thống pháp luật bằng cách đổi mới từ các qui định, văn bản đến công tác tổ
chức quản lí thực hiện của các cơ quan nhà nước cũng như chất lượng đội ngũ
nhân viên; tiếp tục cải cách và hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; triển khai mạnh mẽ và thường xuyên hoạt
động tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật của người dân; đẩy
mạnh công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện pháp luật; đẩu tư cơ sở vật
chất một cách thích đáng; và đề cao vai trò lãnh đạo của đảng và nhà nước.


2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật ở nước ta
hiện nay.

Pháp luật được thực hiện trong nhiều điều kiện, hoàn cảnh. Song pháp
luật chỉ được thực hiện nghiêm minh trong các điều kiện nhất định, gồm rất

14

nhiều yếu tố. Những yếu tố này ảnh hưởng đan xen lẫn nhau và ảnh hưởng
đến thực hiện pháp luật. Sau đây em xin được trình bày một số yếu tố, điều
kiện cơ bản

- Pháp luật có thể được áp dụng cho một cá nhân miễn là cá nhân đó
đã thực hiện hoặc cố gắng thực hiện một tội ác hoặc hành vi chống lại nhà
nước. Và một tội danh hoặc hành vi phạm tội như vậy phải bị trừng phạt bởi
pháp luật, có nghĩa là nó phải được quy định rõ ràng trong Bộ luật Hình sự
của Nhật Bản. Bằng cách đó, bất kỳ ai phạm tội hoặc hành vi phạm tội sẽ phải
chịu hình phạt bất kể họ có nhận ra mình đã phạm tội gì hay khơng.

- Hồ sơ tội phạm của một người khơng thể được xóa trừ khi người đó
được kết luận là vơ tội về tội phạm mà người đó đã bị buộc tội hoặc bị kết án.
Vì vậy, bất cứ ai phạm bất kỳ hình thức tội phạm hoặc tội phạm nào đều bị
cấm xin việc hoặc tìm kiếm việc làm. Ngay cả khi một người khơng có tội,
nhưng bị Tịa án tun có tội do nhầm lẫn hoặc do ép buộc, thì việc kết tội đó
khơng được xóa bỏ. Nó có thể thay đổi danh tiếng của người nộp đơn ở một
mức độ nào đó. Nhưng điều này khơng có nghĩa là người đó khơng bị trừng
phạt. Người đó vẫn bị quản chế ngay cả khi đã chấp hành xong bản án (nếu bị
kết án) hoặc đã mãn hạn (nếu bị quản chế). Tuy nhiên, vẫn có những trường
hợp ngoại lệ, ví dụ, khi người phạm tội đã chấp hành được một khoảng thời
gian đáng kể (thường có nghĩa là hơn năm năm)


2.1 Chất lượng của hệ thống pháp luật thực định:
Đây là một trong những yếu tố cơ sở để đảm bảo cho việc thực hiện
pháp luật đạt kết quả cao trong thực tiễn. Chất lượng của hệ thống pháp luật
thực định được đánh giá ở cả nội dung và hình thức. Nếu chất lượng của pháp
luật thấp, tính khả thi kém thì việc thực hiện chúng sẽ gặp rất nhiều khó khăn,
thậm chí khơng thực hiện được.Bài báo này khám phá chất lượng và tính khả
thi là gì và thảo luận cách cải thiện chúng. Hệ thống pháp luật khơng chỉ bao
gồm luật mà cịn bao gồm tịa án, nhà tù, luật sư, v.v. Bởi vì tồn bộ q trình

15

nên được tiến hành theo luật, nó địi hỏi phải đánh giá toàn diện tất cả các
thành phần này. Theo các nghiên cứu pháp lý, pháp luật là một loại trật tự xã
hội điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người với nhau. Nó có thể được chia
thành luật dân sự (các quy tắc chung của cuộc sống của đất nước) và luật hình
sự (luật chống lại các hành vi bất hợp pháp). Ngồi ra, cịn có luật chung (luật
do tập quán đặt ra), không bắt nguồn từ một quy định nào; tồ án hiến pháp
(tồ án có quyền tư pháp tối cao); luật hành chính (luật quản lý công việc nhà
nước); luật lao động (các quy tắc điều chỉnh quan hệ giữa người sử dụng lao
động và người lao động); luật bảo vệ môi trường (BVMT); luật tài chính (luật
điều chỉnh các hoạt động kinh tế); luật quốc tế (các quy tắc điều chỉnh mối
quan hệ giữa các quốc gia); luật tư (luật liên quan đến quyền tài sản và các
vấn đề khác chỉ được các cá nhân quan tâm); luật công (luật cung cấp các
dịch vụ của chính phủ); luật thương mại (luật về hoạt động kinh doanh); và
luật công ty (các quy tắc liên quan đến quản trị và hoạt động của công ty).
Mặc dù nhiều học giả đã khám phá những khía cạnh này của luật, nhưng họ
hiếm khi tập trung vào khía cạnh thực tiễn của lĩnh vực này.

Hệ thống pháp luật thực định có chất lượng đòi hỏi các văn bản pháp

luật được xây dựng đúng thẩm quyền; đúng trình tự thủ tục luật định; có tên
gọi phù hợp với nội dung; hình thức rõ ràng; nội dung được kết cấu chặt chẽ,
logic; các thuật ngữ pháp lí được sử dụng chính xác, một nghĩa, lời văn trong
sáng, ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với khả năng nhận thức của quảng đại quần
chúng nhân dân. Để đảm bảo chất lượng, hệ thống pháp luật cần đạt được các
yêu cầu cơ bản sau:

Tính tồn diện và đồng bộ trong việc đáp ứng đầy đủ nhu cầu điều
chỉnh pháp luật trên các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội; các qui định
pháp luật có khả năng bao qt tồn bộ đời sống xã hội.

16

Ngoài ra, từng qui phạm pháp luật phải có cấu trúc logic, chặt chẽ; mỗi
chế định phải có đầy đủ các qui phạm cần thiết; mỗi ngành luật cũng cần có
đầy đủ các chế định; hệ thống pháp luật có đủ các ngành luật đáp ứng nhu cầu
phát triển của các quan hệ xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển của đất nước. Các
văn bản cũng đòi hỏi phải được ban hành tồn diện và đầy đủ về cả nội dung
và hình thức, thủ tục. Tính tồn diện và đồng bộ cịn thể hiện ở việc ban hành
đầy đủ các văn bản hướng dẫn thi hành, các văn bản hướng dẫn chi tiết cho
các văn bản hay qui phạm pháp luật. Các văn bản cũng như các qui phạm
pháp luật không tồn tại riêng lẻ mà nằm trong một hệ thống, có quan hệ chặt
chẽ với nhau nên tính tồn diện và đồng bộ của hệ thống pháp luật có ảnh
hưởng rất lớn đến việc thực hiện pháp luật.

Tính thống nhất của hệ thống pháp luật cũng là một yếu tố cơ bản
trong hệ thống pháp luật bởi các bộ phận hợp thành hệ thống pháp luật khơng
chỉ có mối quan hệ chặt chẽ mà còn là một thể thống nhất với nhau. Giữa các
ngành luật trong hệ thống pháp luật, các chế định trong cùng một ngành luật,
các qui phạm trong cùng một chế định pháp luật đều phải thống nhất với

nhau; khơng có hiện tượng trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn giữa các qui
phạm pháp luật trong mỗi bộ phận và trong các bộ phận khác nhau của hệ
thống pháp luật. Để đạt được tính thống nhất của hệ thống pháp luật, các văn
bản được ban hành khơng chỉ cần có sự thống nhất về nội dung mà còn phải
thống nhất về mặt hình thức, đảm bảo tính thứ bậc về giá trị pháp lí của
chúng.

Tính phù hợp của hệ thống pháp luật chính là nói đến sự phù hợp của
pháp luật với trình độ phát triển kinh tế xã hội của đất nước, với các điều kiện
kinh tế, chính trị, đạo đức, tập quán, truyền thống và các qui phạm xã hội
khác. Hệ thống pháp luật phải phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế của
xã hội, khơng cao hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó. Pháp luật cũng phản
ánh trình độ văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó sinh ra. Không chỉ thế,

17

hệ thống pháp luật cũng cần phản ánh được qui luật kinh tế đặc thù của
phương thức sản xuất tồn tại trong đất nước. Như ở nước ta hiện nay, trong
giai đoạn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiến tới mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hệ
thống pháp luật cũng cần được củng cố, phản ánh đúng tính chất, đặc điểm,
trình độ phát triển kinh tế-xã hội, định hướng đúng cho sự phát triển kinh tế.
Ngoài ra, hệ thống pháp luật cũng cần phản ánh được những điều kiện chính
trị nước ta như đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước; bảo vệ lợi ích
của các tầng lớp khác nhau một cách hài hòa, phù hợp; đảm bảo cho xã hội
phát triển ổn định. Bên cạnh đó, sự phù hợp với các yếu tố đạo đức, phong tục
tập qn, tín điều tơn giáo và pháp luật quốc tế cũng rất cần chú ý. Khi có sự
phù hợp với các yếu tố đó, pháp luật sẽ được đảm bảo thực hiện có hiệu quả

hơn, dễ dàng đi vào cuộc sống. Trong xu hướng hội nhập như hiện nay, pháp
luật cũng rất cần chú ý tới sự phù hợp với các công ước, qui định quốc tế để
có thể tiếp thu cũng như rút kinh nghiệm về điều chỉnh pháp luật của các
nước khác, từ đó hồn thiện hệ thống pháp luật của nước mình.

Để đạt được sự phù hợp như trên, các nhà làm luật, các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phải nghiên cứu tồn diện, sâu sắc, phân tích, đánh giá
một cách chính xác về những điều kiện kinh tế-xã hội, chính trị cũng như các
cơng ước quốc tế, các phong tục tập quán, tín điều tong giáo…của đất nước
trong mỗi giai đoạn và thời điểm cụ thể.

Ngôn ngữ và kĩ thuật xây dựng pháp luật là tổng thể những phương
pháp, phương tiện được sử dụng trong quá trình soạn thảo và hệ thống hóa
pháp luật nhằm đảm bảo cho pháp luật có được đầy đủ các khả năng để điều
chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội. Khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật
cần đưa ra được những nguyên tắc, trình tự thủ tục tối ưu; xác định chính xác,

18


×