TIỂU LUẬN
MÔN: THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI ĐƯƠNG ĐẠI
Đề tài :
SO SÁNH THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ MỸ VÀ THẾ CHẾ
CHÍNH TRỊ CỘNG HỊA PHÁP
MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ.......................................................................................................1
II. NỘI DUNG..........................................................................................................2
2.1. Khái niệm: Chính trị, Thể chế, Thể chế chính trị...............................................2
2.2 So sánh thể chế chính trị Mỹ và thế chế chính trị Cộng hịa Pháp....................14
III. KẾT LUẬN......................................................................................................20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................23
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thể chế chính trị là loại hình chế độ, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước mà
mỗi quốc gia lựa chọn để quyết định xây dựng những quy định, luật lệ cho
một chế độ xã hội mà chính phủ nước đó sử dụng để quản lý xã hội. Trên thế
giới có nhiều dạng thể chế chính trị khác nhau và Hiến pháp là văn bản pháp
lý cao nhất của mỗi nước quy định về loại hình chế độ hay thể chế chính trị
của nước đó.
Thể chế chính trị là một trong những vấn đề quan trọng của khoa học
chính trị được nhiều các học giả quan tâm nghiên cứu. Qua nhiều giai đoạn
hình thành và phát triển, cho đến nay thể chế chính trị của các quốc gia trở
nên hồn thiện hơn và đa dạng hơn so với các giai đoạn trước. Trong thời kỳ
hiện tại này, trước xu thế phát triển mạnh mẽ của thế giới trên tất cả các lĩnh
vực từ kinh tế, xã hội, văn hóa đến chính trị, mỗi quốc gia ln cố gắng xây
dựng và hồn thiện thể chế chính trị của mình để phát triển đất nước.
Cho đến thế kỷ 13, tại châu Âu chế độ phong kiến bắt đầu suy tàn và
nền quân chủ được củng cố tại các nước Tây Âu; tuy nhiên Trung Âu vẫn còn
sống dưới chế độ phong kiến thêm vài thế kỷ nữa.
Tại châu Á, các nước đã chuyển từ phong kiến sang quân chủ từ vài thế
kỷ trước. Tại Anh quốc, năm 1215, cuộc tranh chấp quyền hành giữa vua
John và các nhà quý tộc dẫn đến một sự kiện lịch sử có thể được coi là cuộc
cách mạng dân quyền đầu tiên của nhân loại; đó là sự ra đời của Đại Hiến
Chương (Magna Carta) quy định trên văn bản quyền lợi, và nghĩa vụ của nhà
vua và quý tộc. Tuy nhiên, từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 18, châu Âu vẫn chưa thực
sự ra khỏi chế độ quân chủ (hậu duệ của vua John vẫn muốn tìm cách tái lập
quân chủ chuyên chế) mãi cho đến cuộc cách mạng giành độc lập của Mỹ
năm 1776, và sau đó là cuộc cách mạng tư sản dân quyền Pháp 1789, thì lịch
sử nhân loại mới sang hẳn một chương mới, và hình thành các chế độ chính
trị khác nhau tuỳ theo lịch sử mỗi nước.
1
Đặc biệt ở khu vực châu Âu, không chỉ các quốc gia tư bản phát triển
mà cả các nước xã hội chủ nghĩa ở Đơng Âu trước đây. Hiện nay ở châu Âu
có: Mỹ, Áo, Phần Lan, Pháp, Ai-xơ-len, Ai-rơ-len, Bồ Đào Nha, Bun-ga-ri,
Lít-va, Ba Lan, Ru-ma-ni, Nga, Ucrai-na, Pháp.... Trong đó, Pháp và Mỹ
được xem là hai quốc gia điển hình cho dạng thể chế cộng hòa thổng thống và
thể chế cộng hòa lưỡng tính.
Vậy thì, thể chế cộng hòa tổng thống và thể chế cộng hòa lưỡng tính có
điểm gì ưu việt, lịch sử và cơ sở hình thành cũng như cách thức vận hành của
thể chế này như thế nào, ưu điểm và hạn chế ra sao, những điểm giống và
khác nhau giữa hai thể chế điển hình cho cộng hịa tổng thống và cộng hịa
lưỡng tính là gì, giữa Pháp và Mỹ thì bên nào ưu việt hơn… là những câu hỏi
đặt ra cho vấn đề nghiên cứu.
Như vậy, nghiên cứu so sánh thể chế chính trị so sánh thể chế chính trị
Mỹ và thế chế chính trị Cộng hòa Pháp là hai nước lớn ở trên thế giới và cũng
là nước đại diện cho chủ nghĩa tư bản hiện đại với những trường phái, tư
tưởng về nhà nước pháp quyền tiên tiến sẽ đóng góp cho những nội dung
nghiên cứu lý luận và thực tiễn theo tinh thần và nội dung chỉ đạo của Đảng
và Nhà nước Việt Nam.
Với những lý do trên, tác giả thực hiện nghiên cứu so sánh thể chế
chính trị của hai quốc gia với tiêu đề: “So sánh thể chế chính trị Mỹ và thế
chế chính trị Cộng hịa Pháp " làm bài tiểu luận hết mơn của mình.
II. NỘI DUNG
2.1. Khái niệm: Chính trị, Thể chế, Thể chế chính trị
2.1.1. Chính trị
Về lịch sử và nguồn gốc từ thì chính trị bắt nguồn từ chữ “polis",
chữ Hy Lạp cổ có nghĩa là thành bang (city-state). Xã hội Hy Lạp cổ đại lúc
đó gồm các thành bang gắn kết chặt chẽ với nhau và mỗi thành bang có một
2
chính quyền quản lý riêng. Một trong những thành bang quan trọng và có tẩm
ảnh hưởng nhất là Aten. Chính trị (politika) được xem là những công việc của
polis (các thành bang) thời kỳ đó.
Mặc dù chính trị được nghiên cứu từ thời kỳ cổ đại đến hiện đại, từ
phương Đông đến phương Tây nhưng để trả lời cho câu hỏi chính trị là gì thì
vẫn có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau. Trên thực tế, mỗi học thuyết chính
trị và mỗi nhà tư tưởng chính trị lại đưa ra những định nghĩa về chính trị dựa
vào cách tiếp cận và quan điểm khác nhau về chính trị.
Quan điểm phổ biến cho rằng chính trị là về quyền lực (politics as
power). Đại diện cho quan điểm này là Karl Marx (1818-1883)2 và Friedrich
Engels (1820-1895). Cả hai ông phân tích chính trị là quyền lực và quyền lực
chính trị là quyền lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp giai cấp khác.
Theo Marx, chính trị (cùng với luật pháp và văn hóa) thuộc thượng tầng kiến
trúc và chịu sự chỉ phối bởi cơ sở kinh tế của xã hội. Vladimir Lenin (1870-
1924)" tiếp tục khẳng định sự phụ thuộc của chính trị vào cơ sở kinh tế nên
khái qt chính trị là hình thức tập trung nhất của kinh tế. Do đó, chính trị là
quyền lực trong các cuộc đấu tranh giai cấp hay đấu tranh giai cấp và quyền
lực giai cấp trong nhà nước là trung tâm của chính trị.
Không chi các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Marx cho rằng chính trị là
quyền lực, Max Weber (1864-1920) cũng đồng quan điểm và nhấn mạnh về
quyền lực của nhà nước [20, tr. 78]. Nhà nước có thẩm quyền sử dụng vũ lực
vật chất hợp pháp đối với công dân trong lãnh thổ của quốc gia và đối với các
quốc gia khác. Nhà nước thực hiện quyền lực chính thức này thơng qua một
hệ thống các lực lượng chun chính gồm cảnh sát, tịa án và qn đội.
Mặc dù cùng quan điểm coi chính trị là quyền lực, các nhà tư tưởng
của phong trào nữ quyền cho rằng chính trị là một q trình trong đó một
người thực hiện quyền lực của mình đối với những người khác. Chính trị về
bản chất là sự trấn áp và nơ dịch vì trong xã hội gia trưởng, phụ nữ phụ thuộc
và chịu sự chi phối bởi quyền lực của đàn ông. Sự bất bình đẳng và thống trị
3
này có thể bị thay đổi thơng qua một cuộc cách mạng giới. Chính trị tập trung
vào các hoạt động bình đẳng giới (theo quan điểm nữ quyền) sẽ kết thúc bằng
việc xây dựng một xã hội khơng có phân biệt đối xử giữa người nam và nữ.
Ngồi ra, có quan điểm cho rằng chính trị là xung đột và hợp tác do
vậy chính trị là một q trình giải quyết xung đột hoặc chính trị là một q
trình phân phối những giá trị. Như theo David Easton (1917-2014)", chính trị
là “sự phân phối có thẩm quyền các giá trị" (politics as the authoritatve
allocation of values) [19]. Vậy chính trị gồm các quy trình để nhà nước có
quyền áp dụng phân chia lợi nhuận và thưởng phạt trong xã hội. Giá trị chính
thức ở đây có tính ràng buộc chặt chẽ và được xã hội thừa nhận chung. Các
công việc phân phối có thẩm quyền các giá trị này của nhà nước sẽ được diễn
ra trong các cơ quan công quyền cho nên chính trị thể hiện trong tổ chức và
hoạt động của chính phủ, nghị viện và tịa án.
Theo Harold Lasswell (1902-1978)": "Chính trị là: ai đạt được điều
gì, vào khi nào và bằng cách thức nào?" (Politics: Who Gets What, When,
How?). Chính trị liên quan đến sản xuất, phân phối và sử dụng nguồn tài
nguyên. Chính trị là khả năng đạt được kết quả mong muốn bằng bất kỳ
phương tiện nào. Trên thực tế, nhu cầu và mong muốn của con người là vô
hạn nhưng nguồn tài nguyên lại có giới hạn, vì vậy chính trị được xem như
cuộc đấu tranh về sở hữu những nguồn tài nguyên quý hiếm và quyền lực là
các phương tiện để tiến hành các cuộc đấu tranh này.
Trong các từ điển chuyên ngành, chính trị cũng được định nghĩa liên
quan đến quyền lực, nhà nước và đảng phái chính trị. Như theo Từ điển Chính
trị Oxford: "Chính trị: là những hoạt động quản trị và điều hành trong nhà
nước; là những mâu thuẫn và xung đột giữa cá nhân và đảng phái liên quan
đến giành, giữ và thực thi quyền lực". “Theo nghĩa rộng, chính trị là cá nhân.
Điều này có nghĩa chính trị có thể diễn ra trong bất kỷ mối quan hệ nào, kể cả
mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân. Theo nghĩa hẹp, chính trị chỉ gồm
4
những điều diễn ra ở cấp độ nhà nước, quốc gia và đảng phái chính trị (cạnh
tranh giữa các đảng chính trị)" [14, tr. 422].
Như vậy, cho dù có nhiều cách tiếp cận và giải thích về chính trị từ
rộng đến hẹp, phụ thuộc vào các quan điểm, tư tưởng chính trị khác nhau
nhưng khái quát lại chính trị là công việc liên quan đến hoạt động của nhà
nước, đảng phái chính trị; là quyền lực và các vấn đề liên quan đến giành, giữ,
thực thi, phân phối và kiểm soát quyền lực; quan hệ về quyền lực giữa nhà
nước và đảng phái chính trị.
2.1.2. Thể chế
Thể chế có nguồn gốc từ chữ Latinh (institutio) nghĩa là phong tục,
tập quán. Sau đó, với tư cách là thuật ngữ khoa học “thể chế" lần đầu được sử
dụng trong tác phẩm Scienza Nuova (Khoa học mới) của Giambattista Vico
(1668-1744). Cho đến nay, thể chế cũng có nhiều định nghĩa khác nhau.
Nhà kinh tế học Richard R. Nelson (1930-)" cho rằng thể chế là chủ thể
(người chơi) tham gia vào cuộc chơi. Các chủ thể này bao gồm cơng ty, doanh
nghiệp, các cơ quan của chính phủ, tòa án, cơ quan lập pháp...[17, tr.57).
Bổ sung vào quan điểm trên, theo Douglass C. North (1920-2015)0 thể
chế rộng hơn gồm tất cả các quy tắc của cuộc chơi [16, tr. 3-4]. Thể chế là
tổng thể các quy tắc điều chỉnh mối quan hệ xã hội, kinh tế và chính trị. Các
quy tắc gồm quy tắc chính thức như: hiến pháp, luật, chính trị và các quy tắc
khơng chính thức như: đạo đức, phong tục, tập quán, truyền thống...để điều
chinh hành vi giao dịch giữa các cá nhân với nhau [18, tr. 97]. Trong mối
quan hệ giữa thể chế và tổ chức thì thể chế là quy tắc điều chỉnh hoạt động
của tổ chức còn tổ chức là các chủ thể thực hiện các quy tắc đó. Tổ chức sẽ
tạo ra một cấu trúc, mơ hình cơ bản cho giao dịch cá nhân. Tổ chức bao gồm
các tổ hợp của kỹ năng, chiến lược và sự liên kết giữa các người chơi, các
nhóm cá nhân có cùng mục đích, mục tiêu và sử dụng các quy tắc, luật lệ
giống nhau. Cuối cùng, Douglass C. North kết luận thể chế là các quy tắc của
5
cuộc chơi và tổ chức (cá nhân và tập thể) là những người chơi tham gia, tổ
chức là một hình thức đặc biệt của thể chế [15].
Theo Từ điển Cambridge và Oxford: Thể chế (institution) có nghĩa là
tổ chức và luật lệ (84; 85). Trong Báo cáo của Ngân hàng Thế giới: thể chế
gồm 3 bộ phận cơ bản là luật lệ, cơ chế thực thi và người tham dự (cá nhân
hoặc tổ chức) [21]. Hay thể chế bao gồm: 1) Những quy định, chuẩn mực,
luật lệ phản ánh mối quan hệ chức năng giữa các yếu tố trong đời sống xã hội:
2) Những cấu trúc tổ chức phân bố theo những chức năng của hệ thống xã hội
và 3) là các yếu tố tổng hợp của 1 và 2 [13, tr. 264]. Do vậy, thể chế có nghĩa
rộng gồm các yếu tố trong đó có chính trị và các tổ chức thực thi các hoạt
động liên quan đến chính trị.
2.1.3. Thể chế chính trị
Trên thực tế, thuật ngữ thể chế chính trị, tiếng Anh là political
institution và có các từ đồng nghĩa là political system hay political regime.
Trong các nghiên cứu về các nền dân chủ, phi dân chủ, xã hội chủ nghĩa, tư
bản chủ nghĩa, đảng phái chính trị... đều sử dụng chung các thuật ngữ là chế
độ chính trị (political regime), hệ thống chính trị (political system) và thể chế
chính trị (political institution) nhằm tránh lặp từ và sẽ được hiểu tùy vào ngữ
cảnh và nội dung trình bày. Nếu nội dung nghiên cứu là về chế độ dân chủ,
phi dân chủ thì thể chế chính trị (political institution) sẽ được hiểu là chế độ
chính trị và khi phân tích về đảng phái chính trị, bộ máy nhà nước thì chế độ
chính trị (political regime) lại là thể chế chính trị. Điều này được thể hiện phổ
biến trong các nghiên cứu về chính trị và chính trị so sánh của các tác giả
Gabriel A. Almond (Đại học Stanford); Russell J. Dalton (Đại học California,
Irvine); Kaare Strom (Đại học California, San Diego); G. Bingham Powell
(Đại học Rochester); Giovanni Satori; Arend Lijphart; Seymour Martin
Lipset; Yves Meny; Andrew Knapp, Mathew Humphey (Đại học
Nottingham), Richard Gillespie (Đại học Liverpool), Keith Dowding (Đại học
Kinh tế và Chính trị London)..
6
Ở Việt Nam, gần đây thuật ngữ thể chế chính trị đã được cơ quan
nhà nước sử dụng chính thức. Như trong Thơng báo của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về Những nội dung cơ bản của Hiến pháp năm 2013 có ghi: Hiến
pháp tiếp tục kế thừa, khẳng định bản chất và mơ hình tổng thể của thể chế
chính trị là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân, bổ sung và phát triển nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp". Trong Thơng
điệp hằng năm về nhiệm vụ của Chính phủ: “Hồn thiện thể chế, phát huy
quyền làm chủ của Nhân dân, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2014, tạo nền
tảng phát triển nhanh và bền vững", có đề cập “Dân chủ và Nhà nước pháp
quyền là cặp song sinh trong một thể chế chính trị hiện đại" [11].
Trong các tài liệu khoa học phục vụ nghiên cứu và giảng dạy thì thuật
ngữ thể chế chính trị được sử dụng sớm hơn. Trong cuốn Thể chế chính trị
của 2 tác giả Nguyễn Đăng Dung và Bùi Ngọc Sơn xuất bản năm 2004 đã
phân chia thể chế chính trị của mỗi quốc gia thành hai loại: thể chế chính trị
hành vi và thể chế chính trị tổ chức. Thể chế chính trị hành vi là “tập hợp các
quy tắc được hình thành trong quá trình phát triển của quốc gia, quy định sự
tham gia của tất cả công dân... tham gia vào công việc của nhà nước". Thể chế
chính trị tổ chức: là các tổ chức, các cơ quan thực hiện các công việc nhà
nước ở tầm vĩ mơ gồm: đảng phái chính trị, nhà nước, các nhóm lợi ích, các
đồn thể chính trị khác [2, tr. 27-29].
Trong Tập bài giảng Chính trị học sử dụng giảng dạy cho hệ cao cấp lý
luận chính trị của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh có nêu “Thể chế
chính trị một mặt là những quy định, quy chế, chuẩn mực... nhằm điều chỉnh
và xác lập các quan hệ chính trị. Mặt khác, nó là những dạng thức cấu trúc tổ
chức, các bộ phận chức năng cấu thành của một chủ thể chính trị, hay hệ
thống chính trị... Những thể chế quan trọng cần quan tâm nghiên cứu là các
thể chế nhà nước (đồng thời là các thể chế chính trị), đảng chính trị, các
7
phong trào xã hội và các tổ chức chính trį xã hội..." [13, tr. 265-266]. Sau đó,
các tác giả đã trình bày về thể chế nhà nước và đảng phái chính trị như là các
bộ phận quan trọng của thể chế chính trị [13, tr. 266-286].
Tác giả Lưu Văn An cũng giới thiệu thể chế chính trị Việt Nam bằng
việc định nghĩa thuật ngữ thể chế chính trị theo cách tiếp cận của chính trị học
"là hệ thống các quy tắc, quy định, pháp luật, luật lệ với tư cách là những
chuẩn mực điều chinh hành vi của các chủ thể chính trị, các bộ phận chức
năng cấu thành hệ thống chính trị và cơ chế vận hành điều chinh các hoạt
động của chủ thể trong hệ thống đó... Thể chế chính trị gồm thể chế nhà nước,
thể chế đảng chính trị, thể chế các tổ chức chính trị-xã hội" [1, tr. 322].
Trong cuốn Tìm hiểu Thể chế Chính trị thế giới thì thể chế chính trị
(political institution) là toàn bộ các cơ cấu hoặc cơ chế chính trị cơ bản theo
quy chế hoặc theo tập quán bao gồm: a) hệ thống các định chế, các giá trị,
chuẩn mực; b) là cơ sở chính trị-xã hội quy định tính chất, nội dung của chế
độ xã hội; c) là hình thức biểu hiện các thành tố của hệ thống chính trị thuộc
thượng tầng kiến trúc [6, tr. 16]. Vì vậy, cơ cấu chính trị của thành tố thuộc
thượng tầng kiến trúc (theo quan điểm của Chủ nghĩa Marx-Lênin) sẽ là các
thiết chế, tổ chức tương ứng với chính trị, luật pháp bao gồm thể chế đảng
phái chính trị và nhà nước.
Từ nội hàm khái niệm chính trị, thể chế, thể chế chính trị được sử dụng
chính thức ở trên, luận án sử dụng khái niệm này theo nghĩa như sau: Thể chế
chính trị là: 1) Tổng thể những quy tắc, luật lệ (chính thức và khơng chính
thức) nhằm thiết lập và điều chinh mối quan hệ giữa các chủ thể liên quan đến
chính trị (về lợi ích, quyền lực); 2) Các chủ thể (cá nhân, tổ chức) tham gia
vào quan hệ chính trị, hoạt động của nhà nước, vào quá trình giành, thực thi,
phân chia và kiểm sốt quyền lực nhà nước. Thể chế chính trị tổ chức bao
gồm thể chế nhà nước (bộ máy nhà nước), đảng chính trị, nhóm lợi ích và một
số chủ thể khác có liên quan đến hoạt động của nhà nước, quyền lực chính trị.
Trong đó, thể chế nhà nước và đảng chính trị là hai chủ thể quan trọng nhất
8
chi phối và có ảnh hưởng đến tồn bộ đời sống chính trị, quyền lực nhà nước,
vào q trình hoạch định chính sách của mỗi quốc gia.
Nhà nước là một chủ thể đặc biệt và quan trọng nhất trong xã hội có
giai cấp vì có một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế (quân đội, cảnh
sát) và thực hiện chức năng quản lý (thông qua các thể chế nhà nước) nhằm
bảo vệ trước tiên cho lợi ích của giai cấp thống trị, lãnh đạo nhà nước (theo
quan điểm của Vladimir Lenin (1870-1924). Nhà nước là chủ thể đặc biệt còn
là do những đặc điểm riêng mà chỉ nhà nước mới có như ban hành ra luật
pháp, thuế khóa và nhà nước có chủ quyền quốc gia.
Khác với nhà nước, đảng chính trị ra đời mãi sau này khi xuất hiện
giai cấp tư sản, giai cấp cơng nhân... nhằm huy động lực lượng đấu tranh
giành chính quyền. Đảng chính trị cũng là một tổ chức đặc biệt trong xã hội
có giai cấp bao gồm: 1) Có từ hai đảng viên trở lên; 2) Tham gia, thành lập,
giải thể theo quyết định của các thành viên; 3) Hoạt động theo cương lĩnh,
điều lệ do các thành viên thỏa thuận, đề ra và tự nguyện chấp hành; 4) Mục
tiêu của đảng là giành, giữ, thực thi quyền lực nhà nước.
2.1.4. Phân loại thể chế chính trị
Có nhiều cách phân loại thể chế chính trị dựa vào các tiêu chí khác
nhau. Căn cứ vào tiêu chí phân loại theo cơ cấu tổ chức và hoạt động của các
chủ thể quyền lực chính trị, của thể chế nhà nước ở cấp trung ương thì thể chế
chính trị bao gồm hai mơ hình thể chế chính: Qn chủ và Cộng hịa.
Hiện nay, thể chế chính trị quân chủ (monarchy) chủ yếu của các
quốc gia trên thế giới là quân chủ đại nghị (parliamentary monarchy), ở châu
Âu (Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai len, Vương quốc Bi, Hà Lan, Đan
Mạch, Na Uy, Thụy Điển, Tây Ban Nha, Mô-na-cô...); châu Á (Vương quốc
Thái Lan, Ma-lai-xia, Nhật Bản, Cam-pu-chia, Nê-pan...); châu Phi (Lê-sô-
thô, Ma-rốc...). Thể chế quân chủ đại nghị có đặc điểm chính: a) Ngun thủ
quốc gia là vua, quốc vương, nữ hoàng tại vị suốt đời và được truyền ngơi lại
cho các thế hệ kế tiếp; b) Chính phủ do nghị viện thành lập trên cơ sở tín
9
nhiệm của đa số nghị sĩ. Mặc dù quyền điều hành đất nước thuộc về thủ
tướng, nhưng trên thực tế ảnh hưởng của nguyên thủ quốc gia (xét về lý
thuyết là không thực quyền) vẫn rất lớn đến đời sống chính trị của các quốc
gia nói chung và thể chế chính trị nói riêng.
Khác với thể chế quân chủ, thể chế chính trị cộng hịa có đến bốn thể
chế phổ biến gồm: cộng hoà đại nghị (parliamentary republic), cộng hoà tổng
thống (presidential republic), cộng hoà bán tổng thống (semi-presidential
republic) và cộng hoà xã hội chủ nghĩa (socialist republic) với đặc điểm cơ
bản như sau.
Thể chế cộng hoà đại nghị
Thể chế cộng hòa đại nghị (parliamentary republic) là thể chế trong đó:
a) Nguyên thủ quốc gia (tổng thống) do nghị viện bầu; b) Chính phủ do nghị
viện thành lập và chịu trách nhiệm trước nghị viện. Thủ tướng có thực quyền
hơn nguyên thủ quốc gia. Các quốc gia có thể chế này ở châu Âu như: Ý,
Cộng hòa Liên bang Đức, Hy Lạp, Hung-ga-ri, Thụy Sĩ, Séc..., châu Á: Xinh-
ga-po, Ấn Độ, Timor-Lester, Băng-la-đét.
Về mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia với chính phủ, tổng thống
được quy định có quyền bổ nhiệm thủ tướng chính phủ là người đứng đầu
đảng hoặc liên minh đảng chiếm đa số trong nghị viện. Như vậy, tổng thống ở
thể chế cộng hoà đại nghị cũng giống như nguyên thủ quốc gia ở thể chế quân
chủ đại nghị đều không có quyền lực hành pháp. Chính phủ ngày càng trở
thành cơ quan trung tâm quyền lực trong thể chế nhà nước.
Thể chế cộng hòa tổng tống
Thể chế cộng hòa tổng thống (presidential republic) là thể chế mà tổng
thống vừa là nguyên thủ quốc gia, đồng thời là người đứng đầu và điều hành
trực tiếp chính phủ với đặc điểm: a) Tổng thống do nhân dân trực tiếp hoặc
gián tiếp bầu (thông qua đại cử tri) và không chịu trách nhiệm trước nghị
viện; b) Thành viên của chính phủ đều do tổng thống bổ nhiệm hoặc chi định
và chịu trách nhiệm trực tiếp trước tổng thống.
10
Do áp dụng triệt để nội dung học thuyết tam quyền phân lập nên mối
quan hệ giữa tổng thống (hành pháp) với quốc hội (lập pháp) theo cơ chế
kiềm chế và đối trọng lẫn nhau. Quyền lực của tổng thống được tăng cường
và trong chính phủ khơng có chức danh thủ tướng. Loại hình thể chế này
được áp dụng ở các nước châu Mỹ (Hoa Kỳ, Bra-xin, Mê-hi-cô, Ác-hen-ti-
na...); châu Á (Phi-líp-pin, In-đơ-nê-xia, Iran...); châu Phi (Hai-i-ti, Ken-ni-a,
Ni-giê-ria, Xu-đăng, U-gan-đa...).
Thể chế cộng hòa bán tổng thống
Thể chế cộng hòa bán tổng thống (semi-presidential republic). Đây là
thể chế chính trị hình thành sau hai thể chế cộng hòa tổng thống và cộng hòa
đại nghị. Quốc gia thành lập đầu tiên là Phần Lan năm 1919, sau đó Ai-rơ-len
năm 1939, Ai-xơ-len năm 1944 và Cộng hòa Áo năm 1945. Cộng hòa thứ
Năm của Pháp theo mơ hình này năm 1958 và chính thức kể từ 1962
(sau khi có ban hành quy định tổng thống được bầu cử trực tiếp với nhiệm kỳ
7 năm). Cho đến nay, thể chế này trở thành một thể chế phổ biến được gần 60
quốc gia ở hầu hết các châu lục áp dụng như ở châu Âu (CH Pháp, Liên bang
Nga, Ba Lan, Bun-ga-ria, Li-thu-an-nia, Ru-ma-ni, U-crai-na...), châu Á (Hàn
Quốc, Đài Loan, Sri-lan-ca, Mông Cổ...), châu Phi (Ghi-an-na, Hai-ti, Ăng-
gô-la, Nam-mi-bia..). Trong số đó có đến 19 quốc gia ở châu Âu với hai
cường quốc là Cộng hòa Pháp và Liên bang Nga. Về lịch sử của tên gọi thể
chế cộng hòa bán tổng thống thì mơ hình này khơng có tên gọi ngay khi Phần
Lan và một số quốc gia cộng hòa ở châu Âu thành lập vào thời điểm trước
năm 1945. Sau khi CH Pháp thành lập, thể chế này lần đầu tiên do một phóng
viên của Pháp và là người sáng lập Tờ báo Le Monde, Hubert Beuve Méry sử
dụng trong một bài báo tiếng Pháp vào năm 1959. Sau 11 năm, nhà khoa học
chính trị người Pháp chuyên nghiên cứu về đảng chính trị và luật bầu cử,
Maurice Duverger đã đề cập thuật ngữ thể chế bán tổng thống bằng tiếng
Pháp “régime semi-présidentiel" trong bài nghiên cứu khoa học về thể chế
chính trị và luật hiến pháp vào năm 1970. Năm 1980, tác giả công bố thuật
11
ngữ semi-presidentialism trong bài báo khoa học bằng tiếng Anh trên tạp chí
European Journal of Political Research và đến năm 1983, một hội thảo quốc
tế lớn ở châu Âu được tổ chức với chủ đề cùng tên. Từ đó đến nay tên gọi thể
chế cộng hòa bán tổng thống được sử dụng rộng rãi trong tài liệu của chuyên
ngành chính trị và luật hiến pháp.
Thể chế này được dịch là bán tổng thống vì có tiền tố “semi" – có
nghĩa một nửa trước danh từ thể chế tổng thống "presidentialism". Thể chế
bán tổng thống gần với thể chế tổng thống vì cùng có hai kỳ bầu cử được tổ
chức riêng rẽ: bầu cử tổng thống và bầu cử nghị viện nhưng chi có khác là
trong chính phủ có sự hiện của cả tổng thống và thủ tướng.
Về đặc điểm của thể chế chính trị này, ban đầu Maurice Duverger
khái quát với 3 tiêu chí: 1) nguyên thủ quốc gia được bầu bằng phổ thông trực
tiếp; 2) tổng thống có nhiều quyền thực tế và 3) chính phủ do nghị viện thành
lập và chịu trách nhiệm trước nghị viện [86, tr. 166]. Những tiêu chí này trở
thành đặc điểm phổ biến để xác định và phân loại thể chế bán tổng thống với
các thể chế cộng hòa khác cho đến những năm 1990. Sau đó, đặc điểm này
khơng cịn phù hợp để giải thích thể chế của nhiều quốc gia theo hình thức
này. Ví dụ như, tổng thống của Phần Lan không do dân bầu trực tiếp như tổng
thống của CH Pháp và Liên bang Nga mà thông qua đại cử tri (grand elector)
theo đại diện ti lệ. Mặt khác, một số tổng thống được dân bầu trực tiếp nhưng
lại không thực quyền hơn thủ tướng. Như tại Ukraine, tổng thống phải phân
chia quyền lực với nghị viện. Quyền hạn của tổng thống ở các thể chế Cộng
hòa Áo, Ai-ro-len, Ai-xo-len chủ yếu mang tính tượng trưng, đại diện cho
quốc gia như thể chế cộng hòa đại nghị, trong khi đó thủ tướng kiểm sốt tồn
bộ q trình ra quyết định của chính phủ ở các quốc gia này. Do vậy, nguyên
thủ quốc gia của thể chế cộng hòa bán tổng thống có thể được bầu cả bằng
trực tiếp và gián tiếp. Quyền hạn của tổng thống thực chất hay hình thức sẽ
phụ thuộc vào đặc điểm riêng của mỗi quốc gia. Cho nên, hai đặc điểm cơ bản
của hình thức thể chế hiện nay được khái quát bao gồm: 1) Tổng thống được
12
bầu phổ thông (trực tiếp hoặc gián tiếp); 2) Thủ tướng và chính phủ chịu
tráchnhiệm trước cả nghị viện và tổng thống.
Thể chế cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Thể chế cộng hòa xã hội chủ nghĩa (socialist republic) là thể chế áp
dụng từ mơ hình thể chế nhà nước Liên bang Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa
Soviet (Liên Xô) trước đây. Khác với 3 mơ hình thể chế cộng hịa trên, thể
chế chính trị xã hội chủ nghĩa không tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc
tam quyền phân lập mà theo nguyên tắc tập quyền, quyền lực nhà nước là
thống nhất, không phân chia. Thể chế chính trị được tổ chức theo chế độ một
đảng lãnh đạo, đảng cộng sản.
Hiện nay, các quốc gia theo mơ hình thể chế chính trị cộng hồ xã hội
chủ nghĩa là Việt Nam, Trung Quốc, Lào và Cu Ba với đặc điểm cơ bản: a)
Những vị trí lãnh đạo quan trọng trong thể chế chính trị do cơ quan lập pháp
bầu; b) Cơ quan lập pháp đồng thời là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
(Quốc hội Quyền lực Nhân dân – Cu Ba) giám sát toàn bộ hoạt động của thể
chế, các tổ chức trong thể chế phải chịu trách nhiệm trước cơ quan lập pháp;
c) Thể chế chính trị tổ chức theo hệ thống một đảng, Đảng Cộng sản (Đảng
Nhân dân Cách mạng: Lào) là tổ chức lãnh đạo tồn diện thể chế chính trị.
Để có được những đặc điểm cơ bản về sự giống và khác nhau giữa các
mơ hình thể chế chính trị nêu trên là dựa trên một tập hợp rất nhiều các
nghiên cứu từ trước cho đến nay, trong đó có nghiên cứu so sánh và quan
điểm tiếp cận áp dụng trong nghiên cứu so sánh giữa thể chế chính trị các
quốc gia. Nghiên cứu so sánh giữa thể chế chính trị Mỹ và thế chế chính trị
Cộng hịa Pháp là một trường hợp so sánh có nhiều điểm khác nhau để rút ra
kết luận về sự thành công của mỗi thể chế và những đặc điểm nào của thể chế
này có thể được hay áp dụng cho thể chế khác. Do vậy, phần tiếp theo sẽ trình
so sánh thể chế chính trị Mỹ và thế chế chính trị Cộng hịa Pháp
13
2.2 So sánh thể chế chính trị Mỹ và thế chế chính trị Cộng hòa
Pháp
2.2.1. Nét tương đồng:
- Sự hình thành và phát triển của hệ thống chính trị hai nước đều có lịch
sử lâu đời và trải qua nhiều bước thăng trầm (nước Pháp sau cuộc cách mạng
tư sản 1789 theo chính thể có sự kết hợp giữa chính thể Cộng Hồ Đaị Nghị
với Cộng Hồ Tổng Thống –lưỡng thể; nước Mỹ sau cách mạng tư sản theo
chính thể cộng hoà Tổng thống).
- Cả hai nước đều có một lịch sử lập hiến lâu đời, ở các nước này, Hiến
pháp là đạo luật cơ bản làm cơ sở pháp lí cho việc tổ chức và vận hành bộ
máy nhà nước nói riêng và hệ thống chính trị nói chung. Vai trị của Hiến
pháp và pháp luật luôn được coi trọng.
- Hệ thống chính trị của hai nước đều là hệ thống chính trị đa ngun,
đa đảng đối lập. Vị trí, vai trị của các đảng phái chính trị là rất quyết định đối
với đời sống chính trị-xã hội.
- Cả hai nước đều vận dụng học thuyết phân quyền của Montesqiueu
trong tổ chức và vận hành bộ máy nhà nước. Pháp, Mỹ đều rất coi trọng cơ
chế kiểm soát quyền lực bằng nhiều kênh, nhiều biện pháp nhưng chủ yếu là
nhà nước và ln có hiệu quả..
- Nghị viện của hai nước đều tổ chức và hoạt động theo cơ cấu hai viện:
Thượng viện và Hạ viện.
- Hệ thống chính trị của cả hai nước đều được xây dựng trên cơ sở xã
hội công dân. Xã hội cơng dân trở thành cơ sở chính trị của hệ thống chính trị
nói chung và của nhà nước nói riêng. Cùng với sự phát và khẳng định của
những giá trị dân chủ tiến bộ, xã hội công dân từng bước được định hình và
khẳng định trong nền chính trị của các nước này.
- Hệ thống chính trị của hai nước đều nhằm mục tiêu chính trị của giai
cấp, tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là giai cấp cầm quyền.
14
2.2.2.Nét khác biệt:
a. Về lịch sử lập hiến và vai trò của hiến pháp:
- PHÁP: Theo trường phái luật dân sự với hiến pháp thành văn. Sau
cách mạng tư sản Pháp 1789, năm 1791, hiến pháp ra đời đánh dấu mốc quan
trọng cho lịch sử lập hiến nước Pháp. Lịch sử lập hiến cũng đã nhiều lần
chứng kiến sự thay đổi Hiến pháp, cũng chính là thay đổi chính thể-cách tổ
chức và vận hành quyền lực. Từ sau Hiến pháp 1958, với sự ra đời của nền
cộng hồ thứ V, mơ hình thể chế chính trị thực sự đi vào ổn định và phát triển
đến hiện nay.
- Mỹ: Theo trường phái luật án lệ với sự ra đời của Hiến pháp 1776 và
có hiệu lực đến ngày nay, tuy nhiên cũng có tu sửa và bổ sung. Sự duy trì hiệu
lực này là do thứ nhất là tính chất nguyên tắc và qui định khung, đồng thời xã
hội Mỹ đã định hình sau cách mạng và khơng biến đổi quá lớn.
Hiến pháp Mỹ trao quyển tự trị rộng rãi cho các bang, các bang có hiến
pháp, bộ máy quản lý nhà nước riêng. Nhưng các bang phải nghiêm chỉnh
tuân thủ những quy định, nghĩa vụ chung của liên bang, luật pháp không được
trái với hiến pháp và luật pháp liên bang. Nguyên tắc đó tạo nên sức mạnh
cho liên bang, để chính quyền liên bang có dủ tiểm lực, khả năng thực hiện
chức năng quản lý đất nước một cách thống nhất và mở rộng ảnh hưởng trong
quan hệ đối ngoại. Các cuộc trưng cầu dân ý thường xuyên được tổ chức tại
các bang, nhưng chưa bao giờ được tổ chức ở cấp toàn quốc.
b. Về vai trị của các đảng phái chính trị trong đời sống chính trị:
Nếu như ở Mỹ có chế độ hai đảng nổi trội -chế độ lưỡng đảng (Mỹ có
hai đảng Cộng hồ và Dân chủ), tức hai đảng lớn thay nhau cầm quyền thông
qua sự thắng cử ở các cuộc bầu cử thì ở Pháp lại tồn tại chế độ đa đảng với
nhiều đảng phái có khả năng cầm quyền (Pháp có đảng Xã hội, đảng Tập hợp,
đảng Mặt trận dân tộc..)
Ví dụ ở Pháp tại cuộc bầu cử năm 2002, nước Pháp đã chứng kiến một
sự kiện động trời khi ứng cử viên của đảng Mặt trận Dân tộc là ông J.M Le
15
Pen đã thu được đủ số phiếu để lọt vào vòng hai cuộc bầu cử Tổng thống
Pháp. Tại vòng 1 J.M Le Pen chiếm được 17,2% số phiếu, vượt qua ứng cử
viên nặng kí của Đảng Xã hội là ơng Lionel Jospin chỉ thu được 16,05% và
chỉ đứng sau đương kim Tổng thống Pháp J. Chirac với 19,65 %số phiếu,
cuộc bầu cử Tổng thống Pháp theo hai vòng, vòng1 là thực hiện phương thức
đa số tương đối, vòng 2 thực hiện phương thức đa số tuyệt đối. Chính cơ chế
bầu cử ở vịng 1 đã kích thích sự phát triển của các đảng và tạo cơ hội cho tất
cả các đảng có thể trở thành đảng cầm quyền.
c. Về phương thức tổ chức, vận hành của bộ máy nhà nước và cơ
chế iểm soát quyền lực:
- Mỹ: Mỹ là một xã hội da dân tộc và đa chủng tộc, được phân chia
thành đa số da trắng và thiểu số da đen, người Mỹ mếchxích và một số nhóm
thiểu số khác. Hiến pháp Mỹ là một trong những bản hiến pháp thành công
nhất thế giới. Với nội dung ngắn gọn, dơn giản, khái quát, nó tổn tại hơn hai
thế kỷ và đến nay vẫn còn hiệu lực với những điều bổ sung mới. Hiển pháp
tôn trọng nguyên tấc "tam quyền phân lập", quy định chế phân quyền rõ ràng
giữa ba cơ quan: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các cơ quan trên hoạt dộng
dộc lập, nhưng vẫn phụ thuộc vào nhau, kiểm cho nhau. Thể cho chính trị Mỹ
diển hình cho mơ hình cộng hịa tổng thống, thể hiện ro nét cơ chế tập trung
quyền hành pháp vào tay Tổng thống. Tuy nhiên, Tổng thống không nắm
dưới quyền lực tuyệt đối, mà phải chia sẻ quyến lực với Quốc hội và Tòa án
Tối cao.
Khác với hầu hết các nước khác, Hạ viện có quyền hơn Thượng viện, ở
Mỹ duy trì chủ nghĩa lưỡng viện cân bằng - hai viện Quốc hội có quyền lực
ngang nhau, cơ chế bầu cử Quốc hội dung hồ lợi ích giữa các bang lớn và
bang nhỏ: Hạ viện theo tỷ lệ dân cư, Thượng viện có đại diện các bang như
nhau. Cơ cấu Quốc hội hai viện cũng giúp cho q trình thơng qua các quyết
định kỹ càng, thận trọng hơn, làm giảm áp lực từ phía các đảng phái và cử tri.
Do khơng thể bị giải tán bởi Tổng thống, Quốc hội Mỹ hoạt động dộc lập và
16
được các nhà chính trị tư sản coi là Quốc hội có quyền lực nhất thế giới. Vì
mặc dù mang danh đại nghị nhưng quốc hội các nước Anh, Đức... khơng có
thực quyền, cịn trong thể chế cộng hịa tổng thống, Quốc hội Mỹ nắm quyền
thực sự và là cơ quan đối trọng, kiểm chế Tổng thống.
Khác với thể chế cộng hòa dại nghị- Quốc hội bầu ra và có quyền bãi
miễn Chính phủ- Tổng thống Mỹ do người dân bầu ra, có quyền lực bao trùm,
là nguyên thủ quốc gia và nấm trọn quyền hành pháp. Tổng thống tự thành lập
Chính phủ, các thành viên chính phủ thực chất là những cố vấn giúp việc cho
Tổng thống và chỉ chịu trách nhiệm trước Tổng thống. Chính phủ Tổng thống
khơng chịu trách nhiệm trước Quốc hội, tuy nhiên Tổng thống cũng khơng có
quyền giải tán Quốc hoi. Chính phủ Tổng thống là bộ máy hành pháp đơn
nhất, khác với Chính phủ Nghị viện là bộ máy hành pháp tập thể. Chính phủ
Tổng thống được bầu cho một nhiệm kỳ nắm quyển cố định, đảm bảo mức độ
ổn định cao, khác với thể chế Nghị viện, do phụ thuộc vào các đảng, Chính
phủ thưong xuyên có khả năng bị lạt đổ, nhất là trong các nghị viện da đảng
mà khơng có liên minh chặt chẽ, bền vững.
Nét đặc trưng trong hệ thống tư pháp Mỹ là không có Tịa án Hiến
pháp. Chức năng dó thuộc về Tịa án Tối cao. Các Thẩm phán Tòa án Tối cao
dược hưởng nhiểu ưu đãi (nhiệm kỳ suốt đời, lương cao), được trao nhiều
quyền lực: quyết dịnh tính hợp hiến của các đạo luật liên bang, các quyết định
của Tổng thống, luật pháp của các bang, giải quyết những mâu thuẫn, xung
đột xã hội. Vì vậy, nó là thành trì cuối cùng bảo vệ chế độ tư bản chủ nghĩa,
quyền lợi của giai cấp tư sản.
Hệ thống hai đảng ở Mỹ khơng gắn bó và kỷ luật chặt chẽ như các đảng
Bảo thủ và Cơng đảng ở Anh, nhưng Đảng Cộng hịa và Đảng Dân chủ vẫn
thay nhau cầm quyền, mặc dù đó là các liên minh lại ích hỗn tạp, lỏng lẻo
nhất. Nội bộ các dẳng không đồng nhất, thiếu sự gắn kết do nền tång xã hội
của mỗi đảng khác nhau, nhưng cương lĩnh, chính sách chung của hai đảng
tương tự như nhau. Sự khác biệt chủ yếu ở các vấn để kinh tế - xã hội và văn
17
hóa - dân tộc: Đảng Dân chủ theo truyền thống là đảng của tầng lớp dưới,
những người lao động, dân tộc thiểu số, da đen, những người miền Nam;
Đảng Cộng hịa đại diện cho lợi ích của giới đại tư bản ngân hàng, công -
thương nghiệp, tầng lớp trên, những người miền Bắc. Trên thực tế, tổ chức và
hoạt động của hai đảng giống như hai tổ chức bầu cử.
Hệ thống bầu cử Mỹ phức tạp, theo nguyên tắc da số tương đối,
người chiến thắng được tất cả. Cơ chế đó ngăn cản các đảng nhỏ và người
nghèo tham gia vào hệ thống quyền lực. Các khu vực bầu cử thường xuyên
thay đổi, luật bầu cử ở mỗi bang khác nhau, dễ dẫn đến sự nhẩm lẫn, gian lận
(điển hình nhất là trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 2000 ở bang Phlorida).
Cũng như các nước tư bản chủ nghĩa khác, thể chế chính trị Mỹ được
xây dựng, phát triển và ngày càng hoàn thiện trên cơ sở bảo vệ quyền lợi của
giai cấp tư sản, đối lập với quyền lợi của đa số quần chúng nhân dân. Những
chỉ số về mức độ tăng trưởng, về GDP bình quân đầu người khơng thể che lấp
tình trạng bi đát của đơng đảo dân nghèo trong quốc gia này. Đằng sau chế độ
dân chủ có vẻ nhộn nhịp qua các cuộc tranh cử giữa các đảng phái, vẫn là sự
xiết chặt về chính trị và sự hạn chế về tự do; các lực lượng đối lập (đặc biệt là
Đảng Cộng sản) đều bị kiểm sốt chặt chẽ. Vì vậy, khi nghiên cứu khía cạnh
cấu trúc, kỹ thuật, chúng ta cần nhận rõ bản chất giai cấp tư sản của thể chế
chính trị Mỹ để từ đó có cách đánh giá khách quan.
- Ở Pháp: Trong nền Cộng hịa thứ tư, Quốc hội đã thường ngăn cản
cơng việc của Chính phủ bằng cách bỏ phiếu chống lại các dể xuất xây dựng
luật do Chính phủ để xuất. Bản hiến pháp nền cộng hịa thứ năm dã xố khả
năng đó bằng cách trao cho Chính phủ quyển để nghị Tổng thống giải tán Hạ
viện. Trong nhiều trường hợp Quốc hội bất lực trước Tổng thống. Tuy nhiên,
trên thực tế, để bộ máy quyền lực hoạt động ổn dinh và hiệu quả, Tổng thống
phải dựa vào sự ủng hộ của Quốc hội. Vai trò của Quốc hội chỉ thực sự dược
để cao khi phe dối lập chiếm da số trong Hạ viện (thời kỳ cộng sinh). Thưong
viện Pháp có quyền lực hạn chế, do nó được bầu bởi các dại cử tri, trong dó,
18