TIỂU LUẬN
MƠN: THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI ĐƯƠNG ĐẠI
Đề tài :
GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ NGA
1
MỤC LỤC
I. Đặt vấn đề.............................................................................................................1
II. Nội dung..............................................................................................................2
2.1. Khái niệm thể chế và thể chế chính trị...............................................................2
2.2. Phân loại thể chế chính trị................................................................................12
2.3. Vị trí và vai trị của thể chế chính trị trong đời sống của mỗi quốc gia...........13
2.4. Đặc trưng thể chế chính trị Nga.......................................................................19
2.5 Giá trị và hạn chế của thể chế chính trị Nga......................................................23
KẾT LUẬN............................................................................................................26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................28
2
I. Đặt vấn đề
Nước Nga đã đi qua thế kỷ XX với bao nỗi đắng cay, tự hào và hy
vọng! Có rất nhiều nước trên thế giới đã trải qua những chấn động nặng nề,
nhưng không một nước lớn nào trong vòng 100 năm trở lại đây lại phải trải
qua những bước ngoặt liên tiếp, đột ngột và đau thương như nước Nga. Ngày
12 tháng 06 năm 1990 sau một thời kỳ vận động, đấu tranh gay gắt trong lòng
Nga, nước Nga tuyên bố độc lập. Năm 1991, lần đầu tiên nước Nga xuất hiện
chức vụ Tổng thống. Sau khi Nga tan rã, Liên bang Nga thực sự trở thành một
nước độc lập, kế thừa vị thế của Nga trong quan hệ quốc tế.
Thấm thoắt đã 15 năm trôi qua, nước Nga đã đau đớn, song nhân dân
Nga đã dũng cảm đứng lên sau cơn bệnh trầm trọng nhất. Vì một lẽ đơn giản,
nước Nga khát khao kỷ cương chứ không phải bạo lực. Liên bang Nga, kể từ
khi cịn là một trong 15 nước Cộng hồ Xã hội chủ nghĩa Xơ Viết, đã ln có
tiếng nói quyết định trong hầu hết các cơng việc nội trị và đóng vai trò quan
trọng trên trường quốc tế. Ngày nay, với tư cách là nước kế thừa Nga cũ, tuy
khơng cịn là siêu cường như Nga trước đây, nhưng Liên bang Nga vẫn là một
chủ thể quan trọng trên bàn cờ chính trị quốc tế.
Nước Nga bước sang thế kỉ mới với cương lĩnh chính trị và cải cách
dựa trên nền tảng “tư tưởng mới " với nội dung chính yếu là chủ nghĩa yêu
nước, ý thức về một cường quốc, một quốc gia dân chủ, pháp trị và sự hoả
nhập mạnh mẽ vào cộng đồng thế giới bằng những cải cách thể chế chính trị
của mình, xây dựng Nhà nước Nga thành một nhà nước pháp quyền, dân chủ,
đa nguyên, chuyển hoá xã hội Nga thành xã hội mở. Trong Thông điệp Liên
bang Nga ngày 25-4-2005 của Tổng thống Putin có đoạn: “tơi cho rằng,
nhiệm vụ cơ bản về ý thức chính trị là phát triển nước Nga thành một quốc
gia độc lập và dân chủ. Chúng ta thường xuyên hài lòng dùng những từ này,
1
nhưng ý nghĩa sâu xa của tư do và độc lập, bình đẳng và pháp quyền, ý nghĩa
thực tế của nó trong cuộc sống chưa được hiểu đúng nghĩa"
Một thể chế mới hình thành, phát triển và ổn định ở nước Nga, nó cũng
gợi mở cho khoa học pháp lý nói những vấn đề cần được tìm hiểu, nghiên
cứu, đặc biệt là về thể chế chính trị và tổ chức bộ nhà nước.
Việc nghiên cứu thể chế chính trị của Liên bang Nga, một nước bạn
truyền thống của ta, là một hướng nghiên cứu cơ bản mang ý nghĩa quốc gia,
giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn những chuyển biến đang diễn ra ở nước
Nga, qua đó góp phần giúp chúng ta thực hiện thành công hơn đường lối đối
ngoại của Đảng và Nhà nước trong quan hệ với một đất nước đã từng chia
ngọt sẻ bùi với nhân dân ta trong nhiều giai đoạn đấu tranh cách mạng. Bên
cạnh đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu các nước trên thế giới, đặc biệt là về
phương diện thể chế chính trị, tổ chức bộ máy nhà nước, cải cách hành chính,
cải cách bộ máy nhà nước v...nhằm khai thác, kế thừa những thành tựu của
nhân loại phục vụ sự nghiệp đổi mới đất nước, không những có ý nghĩa lý
luận mà cịn có ý nghĩa thực tiễn.
Với những lý do nói trên, tơi chọn đề tài: “Giá trị và hạn chế của thể
chế chính trị Nga " làm đề tài tiểu luận của mình.
II. Nội dung
2.1. Khái niệm thể chế và thể chế chính trị
2.1.1. Khái niệm thể chế
Trong đời sống xã hội hiện nay, đặc biệt là trong khoa học xã hội và
nhân văn (Quản lý xã hội, khoa học chính trị, khoa học pháp lý), thuật ngữ thể
chế chính trị được sử dụng tương đối phổ biến. Với tư cách là khoa học về
những quy luật hình thành và phát triển của các loại hình chính trị, thể chế
2
chính trị là hình thức biểu hiện tập trung, quan trọng nhất của chính trị [1].
Cùng các nguyên tắc tổ chức và phương thức vận hành của các xã hội có giai
cấp và nhà nước, khái niệm thể chế và thể chế chính trị được sử dụng như là
khái niệm công cụ hay phạm trù trung tâm. Tuy nhiên, cho đến nay sự nhận
thức về khái niệm này vẫn chưa có sự thống nhất. Nhìn chung, có thể khái
qt thành một số quan niệm như sau:
Trong Tiếng Anh từ “Institution" và trong Tiếng Nga từ “EHCTÈTYT"
đều được hiểu là thể chế hay định chế. Tuỷ theo nhiều cách hiểu khác nhau,
nhưng thể chế hay định chế đều là từ Hán Việt.
Trong cuốn từ điển Hán Việt của soạn giả Đào Duy Anh, tác giả cho
rằng: Thể chế là cách thức, chế độ. Còn định chế được giải thích là chế độ đã
nhất định từ trước[3].
Trong cuốn từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học được Nhà xuất
bản Đã Nẵng xuất bản năm 2001, "thể chế " được hiểu một cách tổng quát là
những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội buộc mọi người phải tuân
theo[13].
Có quan niệm lại cho rằng: Thể chế và thiết chế là đồng nhất, đó là
những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội buộc mọi người phải tuân theo.
Quan niệm này được thể hiện trong cuốn Đại từ điển tiếng Việt (do Nguyễn
Như Ý chủ biên), Từ điển tiếng Việt (do Hồng Phê chủ biên -1992) và Từ
điển Luật học (do Nguyễn Hữu Quỳnh chủ biên-1999).
Trái ngược với những suy nghĩ trên, có ý kiến cho rằng thể chế và định
chế là hai dạng biểu hiện khác nhau của cùng một cấu trúc xã hội. Theo cách
hiểu này, thể chế là những quy định, luật lệ, giá trị phản ánh mặt tinh thần của
cấu trúc xã hội. Còn thiết chế là những bộ phận cấu thành của một cấu trúc xã
hội , phản ánh mặt vật chất của cấu trúc đó. Quan niệm này gần giống với
3
quan niệm của các nhà biên soạn từ điển Tiếng Pháp. Theo đó, thuật ngữ
Institution có nghĩa là:
+ Thể chế là sự đặt định những luật lệ, là các luật lệ cơ bản của một
quốc gia.
+ Thiết chế là các bộ phận cấu thành của một cấu trúc, cần phải duy trì
và tơn trọng.
Một quan niệm khác lại cho rằng, thể chế có hai nghĩa rộng và hẹp:
- Theo nghĩa rộng, thể chế được xem gần như là những khái niệm hệ
thống, bao gồm cả những định chế và cả những thành tố cấu thành hệ thống,
với ý nghĩa này, khái niệm thể chế thống nhất với khái niệm hệ thống chính
trị.
- Theo nghĩa hẹp, thể chế là những quy định, luật lệ, chuẩn mực, giá trị
của một cấu trúc xã hội hoặc của xã hội buộc mọi người phải tuân thủ và theo
đó các thiết chế được dựng lên, các quan hệ xã hội được điều chinh.
Nhìn chung vẫn cịn tồn tại những khác biệt từ các quan niệm, nhưng
có thể khái qt những khía cạnh cơ bản về thể chế:
Thể chế và thiết chế là phạm trù xã hội chi được sử dụng trong đời
sống xã hội của con người, khơng có khái niệm thể chế nói chung và cũng
khơng có khái niệm thể chế thuộc về thế giới tự nhiên. Vì vậy, khi nói đến thể
chế hoặc thiết chế cũng đồng nghĩa với nói thể chế xã hội và thiết chế xã hội.
Tuy vậy, thuật ngữ "xã hội" lại thường được hiểu theo hai nghĩa:
- Nghĩa rộng là toàn bộ đời sống xã hội.
- Nghĩa hẹp là lĩnh vực xã hội của đời sống xã hội.
4
Theo đó, thể chế và thiết chế cũng được hiều theo hai nghĩa tương ứng:
Thể chế ( thể chế xã hội) theo nghĩa rộng là khái niệm dùng để chi một
hệ thống những quy định, luật lệ, giá trị, chuẩn mực hợp thành những nguyên
tắc tổ chức và phương thức vận hành của xã hội ở một giai đoạn phát triển
nhất định của lịch sử. Theo nghĩa này, thể chế bao gồm: Thể chế kinh tế,
chính trị, xã hội và văn hoá.
Thể chế theo nghĩa hẹp là khái niệm dùng để chi một hệ thống những
quy định, luật lệ, giá trị, chuẩn mực hợp thành những nguyên tắc tổ chức,
phương thức vận hành của một lĩnh vực hoặc một cấu trúc xã hội nào đó của
xã hội ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.
Thiết chế (thiết chế xã hội) theo nghĩa rộng là khái niệm dùng để chỉ
một hệ thống các yếu tố, phù hợp với thể chế tương ứng hợp thành một xã
hội. Với ý nghĩa này, thiết chế cũng bao gồm: Thiết chế kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hố.
Theo nghĩa hẹp, thiết chế xã hội là khái niệm dùng để chi mặt hệ
thống các yếu tố phù hợp với thể chế tương ứng, hợp thành một lĩnh vực hoặc
một cấu trúc xã hội nào đó của xã hội.
Tựu trung lại, thể chế và thiết chế là hai khái niệm biếu hiện khác nhau
của cùng một lĩnh vực, một cấu trúc xã hội và mối quan hệ biện chứng với
nhau, nếu như thể chế là những chuẩn mực quy định sự hình thành và phương
thức vận hành của một lĩnh vực, một cấu trúc và của tồn xã hội thì thiết chế
là yếu tố vật chất của một lĩnh vực, một cấu trúc của xã hội.
Khi xem xét, nghiên cứu cấu trúc xã hội về phương diện thể chế,
khơng thể khơng tính đến phương diện thiết chế của cấu trúc đó, bởi khơng
có một thể chế nào lại không gắn với một cấu trúc xã hội nhất định và ngược
5
lại khơng có một thiết chế của một cấu trúc xã hội nào lại được dựng lên từ
một thể chế tương ứng.
Trong xã hội chưa có giai cấp (xã hội cộng sản nguyên thuỷ) do chưa
có nhà nước, chưa có pháp luật, chi có những quy tắc tập qn, tín điều tơn
giáo hình thành trên cơ sở đời sống cộng đồng [12]. Nên những thiết chế xã
hội Thị tộc, Bộ lạc được tổ chức kém chặt chẽ và chính vì vậy, xã hội trở nên
kém bền vững trước sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất và
những xung đột ngày càng gay gắt về giai cấp. Tất nhiên, cả những hình thái
kinh tế - xã hội sau, thiết chế này vẫn không bền vững trước sự phát triển của
xã hội, đặc biệt là sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Điều này xuất phát từ
những luật lệ, những quy định và ngay cả những giá trị mang tính lịch sử.
Tuy nhiên, nó vẫn bền vững hơn, một phần là nhờ vào những giá trị
cộng đồng, mặt khác, phụ thuộc vào những định chế có tính pháp lý cho xã
hội tạo ra buộc cá nhân và tổ chức phải tuân theo.
2.1.2. Khái niệm thể chế chính trị
Chính trị là hoạt động đặc biệt quan trọng của đời sống, quan hệ đến lợi
ích của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội. Thể chế chính trị là bộ phận
cấu thành của chính trị. Trong một chế độ xã hội, thể chế chính trị tác động
trực tiếp đến đời sống của mọi người dân ít hay nhiều, mỗi quốc gia đều chịu
sự tác động của thể chế chính trị. Thể chế chính trị là một bộ phận của kiến
trúc thượng tầng có vai trị to lớn đối với sự tiến bộ cuả xã hội.
Phạm trù thể chế (Institution), Thể chế chính trị (Political/ Institution),
thể chế nhà nước (State/ Institution) thể chế Đảng (Party/ Institution) là những
phạm trù chính trị được dùng phổ biến trong các diễn đàn chính trị thế giới.
Bởi chúng có nội dung và giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống chính
trị. Ở Việt Nam, các phạm trù này thực tế trước đây cịn ít sử dụng và thực tế
6
cũng mới chi được sử dụng phổ biến từ những năm đổi mới, đặc biệt là phạm
trù thể chế chính trị (Political/ Institution). Tuy nhiên khái niệm thể chế chính
trị vẫn chưa có sự nhận thức thống nhất, nếu có đề cập thì cũng chỉ mang tính
rời rạc, chi nói đến một hoặc một số khía cạnh nào đó của thể chế chính trị.
Thể chế chính trị là một trong những vấn đề rất quan trọng trong đời
sống của mỗi quốc gia, nó can thiệp đến mọi con người và mọi tổ chức trong
một nhà nước. Để nhận thức đúng bản chất của thể chế chính trị, trước hết
phải bắt đầu từ khái niệm của nó.
Trong cuốn "Cải cách thể chế chính trị Trung Quốc" của Nhà xuất bản
Đại Liên, Viện thông tin khoa học thuộc Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh dịch năm 1995, các nhà chính trị học của
Trung Quốc là Tần Thụy Sinh, Chu Mãn Lương, Long Nguyên Chinh đã cho
rằng, thể chế chính trị là các loại chế độ chính trị cụ thể xây dựng trên cơ sở
chế độ chính trị cơ bản và tổng hồ của cơ chế vận hành, thuộc kiến trúc
thượng tầng. Cách hiểu này đã đồng nhất khái niệm thể chế chính trị và chế
độ chính trị.
Chính trị là một loại hoạt động căn bản của xã hội. Cịn nhiều cách hiểu
khác nhau về chính trị, song thơng thường, chính trị được hiểu là các lĩnh vực
hoạt động và tương ứng với nó là quan hệ giữa con người với nhau trong lĩnh
vực quyền lực.
Chính trị có nguồn gốc từ tiếng Latinh có chữ “Politic" nghĩa là: Cơng
việc nhà nước. Trong lịch sử tư tưởng, dù có những nhận thức khác nhau về
bản chất của chế độ chính trị, nhưng đều có điểm chung là thừa nhận chính trị
là công việc liên quan đến quyền lực của nhà nước. Tư tưởng chính trị Trung
Quốc cổ đại quan niệm: “Nhân đại chính vĩ đại" thì chính trị được hiểu là
những hoạt động liên quan đến việc trị quốc, bình thiên hạ, những hoạt động
quan trọng, lớn (đại) của con người. Còn ở xã hội Hi Lạp cổ đại, triết gia
7
Platon lại xem chính trị là: "Nghệ thuật cung đình liên kết trực tiếp các chuẩn
mực của người anh hùng và sự thông minh, sự liên kết cuộc sống của họ được
thực hiện bằng sự thống nhất tư tưởng và tình cảm hữu ái". Tư tưởng này đã
ảnh hưởng đến quan niệm coi chính trị là sự khơn khéo, khả năng đạt đến sự
phân chia chức năng mà vẫn bảo đảm duy trì tác động qua lại giữa chúng, duy
trì tính chính trị của hệ thống.
Theo V.Lênin, chính trị là những hoạt động liên quan đến lợi ích của
các giai cấp, các đảng phái, các dân tộc, mà vấn đề quan trọng nhất là tổ chức
chính quyền nhà nước. Chính trị nhằm bảo vệ lợi ích của các tầng lớp, các
giai cấp, các dân tộc trong xã hội trên cơ sở tôn trọng và bảo đảm quyền lực
và lợi ích của giai cấp cầm quyền, chính trị xét về hình thức thể hiện là những
quan điểm, tư tưởng, học thuyết, cương lĩnh, đường lối của chính Đảng, là
chính sách, pháp luật của giai cấp cầm quyền, cịn xét về nơi dung, chính trị là
những hoạt động và cùng với nó là mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng
lớp và giữa các dân tộc có liên quan tới q trình giành, giữ về tổ chức và
thực hiện quyền lực nhà nước.
Như vậy, dù ở khía cạnh nào, vấn để trung tâm của chính trị bao giờ
cũng là nhà nước, tuy nhiên hoạt động của nhà nước khơng bao giờ bao qt
hết tồn bộ hoạt động chính trị. Hoạt động của các đảng phái, các dân tộc, các
nhóm lợi ích chính trị..đều là hoạt động chính trị nhưng không đồng nghĩa với
hoạt động nhà nước. Tuy nhiên, ở một mức độ nhất định, hoạt động của các
đảng phái hay các tổ chức chính trị dù khơng đồng nghĩa với hoạt động của
nhà nước nhưng đều có mục đích tham gia hoặc gây ảnh hưởng đến quyền lực
của nhà nước.Chính vì vậy, có thể nói chính trị là những công việc của nhà
nước, những hoạt động liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến quyền lực nhà
nước.
8
Ở một phạm vi lớn hơn, chế độ chính trị là nội dung, phương thức tổ
chức và hoạt động của hệ thống chính trị của một quốc gia, mà trọng tâm là
nhà nước[1]. Chế độ chính trị được biểu hiện rõ nhất trong mơ hình tổ chức
của nhà nước, trong Hiến Pháp - Văn bản pháp lý cao nhất của mỗi quốc gia.
Chế độ chính trị là một bộ phận cấu thành chế độ xã hội, vì chính trị là cơng
việc của nhà nước, công việc xã hội, mà thể chế chính trị trong xã hội có giai
cấp, cơng việc của nhà nước là công việc chủ yếu của xã hội, nên chế độ
chính trị là chế độ thực hiện quyền lực nhà nước.
Trong lý luận về nhà nước và pháp luật, chế độ chính trị được hiểu là
nội dung và phương thức tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị Quốc
gia mà trung tâm là Nhà nước. Chế độ chính trị được cấu thành bởi sự kết hợp
các yếu tố: Chính trị - kinh tế - xã hội, tư tưởng văn hố, pháp luật, chế độ
chính trị được biểu hiện rõ nét trong mơ hình tổ chức nhà nước, trong Hiến
pháp của mỗi một nhà nước quy định về nguồn gốc và tính chất của quyền
lực, sự phân bổ và tổ chức các cơ quan quyền lực nhà nước và mối quan hệ
giữa các cơ quan quyền lực, về những quan hệ của nhà nước với cơng dân,
các đảng phái chính trị, các tổ chức xã hội, giữa các giai cấp và tầng lớp xã
hội giữa các dân tộc trong nước và trên thế giới.
Nếu xem xét dưới góc độ là một chế định của Luật Hiến pháp, chế độ
chính trị là tổng hợp những quy định có tính chất ngun tắc chung làm nền
tảng cho những quy định khác của Hiến pháp. Đó là những quy định về bản
chất nhà nước. Sự lãnh đạo của đảng đối với mọi hoạt động của nhà nước và
xã hội, những nguyên tắc cơ bản, tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước.
Những vấn đề này quy định hình thức tổ chức quyền lực nhà nước theo hình
thức cấu trúc bên ngồi nhà nước, cơ cấu lãnh thổ là hình thức tổ chức nhà
nước bên trong.
9
Chế độ chính trị được quy định bởi hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi hình
thái kinh tế - xã hội có thể có các chế độ chính trị khác nhau.Trên phạm vi
quốc tế có những chế độ chính trị khác nhau, chế độ quân chủ chuyên chế,
quân chủ lập hiến, chế độ dân chủ tư sản, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Hình thái kinh tế - xã hội và chế độ chính trị khơng đồng nhất với nhau, chế
độ chính trị thuộc phạm trù kiến trúc thượng tầng, bao gồm: Bộ máy nhà
nước, pháp luật và các thể chế kinh tế, chính trị, xã hội.
Với những khái qt trên, có thể khái qt chế độ chính trị ở các
phạm vi sau:
Dưới góc độ nội dung, phương thức tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị, thì chế độ chính trị là cơ chế vận hành của hệ thống chính trị.
Dưới góc độ cấu trúc, thì hệ thống chính trị được chia thành bộ máy
nhà nước và các thiết chế như pháp luật, đảng phái, các tổ chức chính trị- xã
hội và các thể chế kinh tế, chính trị, xã hội nhằm bảo vệ quyền lực của giai
cấp nắm quyền.
Dưới góc độ hình thức của nhà nước, thì chế độ chính trị là phương
thức cai trị, quản lý xã hội của giai cấp làm quyền, phương thức dân chủ hay
phản dân chủ[5].
Dưới góc độ pháp lý, chế độ chính trị là tổng hợp những quy phạm
pháp luật được thể hiện trong Hiến pháp, luật và dưới luật nhằm bảo vệ xã hội
và lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Trong qúa trình tồn tại và phát triển các thiết chế chính trị - xã hội
ln có sự ràng buộc với nhau, ln có sự tác động và ảnh hưởng qua lại lẫn
nhau, đều hay xảy ra trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Toàn bộ
các thiết chế này tạo thành hệ thống chính trị xã hội để nắm giữ và thực hiện
quyền lực chính trị trong xã hội. Như vậy, có thể hiểu chính trị là liên minh
10
các thiết chế chính trị - xã hội có liên hệ mật thiết với nhau, tồn tại và hoạt
động nhằm bảo đảm sự tồn tại và hoạt động của toàn xã hội đồng thời bảo vệ
lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Về cấu trúc hình thành, hệ thống chính trį là tập hợp các thiết chế
chính trị - xã hội được thành lập và hoạt động vì những mục đích chính trị -
xã hội khác nhau. Các thiết chế đó bao gồm có Nhà nước, các đảng phái chính
trị, các tổ chức đồn thể chính trị- xã hội, trong đó Nhà nước là tổ chức quan
trọng nhất. Các tổ chức đó được sắp xếp theo một trật tự khách quan, khoa
học và ln có những mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau.
Về nội dung, hệ thống chính trị được hiểu là một cơ chế thực hiện
quyền lực chính trị trong xã hội. Có thể nói quyền lực chính trị là cốt lõi của
hệ thống chính trị. Quyền lực đó được vật chất hố bằng các thiết chế chính
trị xã hội và được biểu hiện thơng qua các quan hệ chính trị giữa các lực
lượng chính trị - xã hội. Quyền lực chính trị được thể hiện một cách tập trung
và trước hết ở đường lối chính sách của các lực lượng chính trị - xã hội, ở
pháp luật của nhà nước, chính vì thế, hệ thống chính trị của mỗi nước có ảnh
hưởng rất tới sự tồn tại, phát triển của đất nước nói riêng, của xã hội lồi
người nói chung, sụ yếu kém, rạn nứt, thiếu thống nhất trong nội bộ hệ thống
chính trị thường được chuyển hố thành các xung đột chính trị - xã hội, cản
trở tiến bộ xã hội.
Có quan niệm khác lại đề cập hệ thống chính trị ở hai góc độ:
Thứ nhất, hệ thống chính trị là hệ thống quyền lực của giai cấp cầm
quyền, hay gọi là hệ thống chuyên chính của giai cấp cầm quyền, nghĩa là hệ
thống chính trị chi bao gồm các tổ chức chính trị - xã hội do giai cấp cầm
quyền - giai cấp nắm quyền lực về kinh tế . Các tổ chức chính trị - xã hội khác
khơng được coi là thành tố của hệ thống chính trị.
11
Thứ hai, hệ thống chính trị khơng chi là chuyên chính của giai cấp
cầm quyền mà là tất cả các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp hoặc trực tiếp
hoặc gián tiếp liên quan đến quyền lực thống trị của giai cấp thống trị. Đó là
hệ thống tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp, trong đó ưu thế cơ bản thuộc về
các thiết chế của giai cấp nắm quyền lực về kinh tế để tác động vào các quá
trình kinh tế - xã hội nhằm bảo vệ, duy trì và phát triển chế độ xã hội đương
thời và lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau
và cũng có nhiều định nghĩa khác nhau. Tuy nhiên có một điểm chung cho
những định nghĩa mà theo đó hệ thống chính trị được coi là hệ thống các tổ
chức chính trị - xã hội hợp pháp (trong đó có những tổ chức do giai cấp thống
trị lập nên và cả những tổ chức khơng do giai cấp thống trị lập nên), các đảng
chính trị hợp pháp và nhà nước của giai cấp cầm quyền, quan hệ qua lại thông
qua sự tác động qua lại của các yếu tố đó để chi phối các quá trình kinh tế - xã
hội nhằm bảo vệ, duy trì và phát triển xã hội đương thời, bảo đảm quyền lực
và lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Từ những quan niệm như trên, có thể khái quát: Thể chế chính trị là
các quy tắc được sắp xếp một cách logic hợp thành một chinh thể thống nhất
điều chỉnh các hoạt động của con ngươi có liên quan đến cơng việc của nhà
nước. Theo nghĩa khác, cũng có thể hiểu thể chế chính trị là cải được tạo
dựng nên từ các quy tắc đó.
Từ định nghĩa nêu trên, có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của
thể chế chính trị:
- Thể chế chính trị là hệ thống các định chế, các gia trị tạo thành
những nguyên tắc tổ chức và phương thức vận hành của một chế độ chính trị,
các hệ thống chính trị. Theo đặc điểm này, thể chế chính trị bao gồm: Thể chế
nhà nước, thể chế của đảng chính trị , thể chế các tổ chức chính trị - xã hội.
12
Cũng theo cách xác định tương tự, nhưng PGS .TS Nguyễn Đăng
Dung lại chia thể chế chính trị thành thể chế chính trị về hành vi và thể chế
chính trị về tổ chức[6]. Theo đó thể chế chính trị về hành vi bao gồm (quyền
và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân trong lĩnh vực chính trị, chế độ bầu cử và bỏ
phiếu trưng cầu). Thể chế chính trị về tổ chức bao gồm (các đảng phái chính
trị trong hệ thống chính trị tư sản và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ
chính trị). Vấn đề này sẽ được tiếp tục đề cập trong phần phân loại thể chế
chính trị.
Thể chế nhà nước là những chế định pháp luật có tính cưỡng chế
buộc mọi người, mọi tổ chức phải tôn trọng và chấp hành. Thể chế các đảng
chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội là những điều lệ, quy định nguyên tắc
tổ chức và phương thức hoạt động của tổ chức đó.
Thể chế chính trị là hình thức thể hiện các thành tố của hệ thống
chính trị thuộc thượng tầng kiến trúc.
- Thể chế chính trị thể hiện vai trị tuỷ thuộc vào hiệu lực, vai trị
của từng thể chế trong hệ thống chính trị cũng như của cơ chế vận hành của
toàn bộ hệ thống, trong đó thể chế nhà nước là quan trọng nhất.
2.2. Phân loại thể chế chính trị
Như đã trình bày ở phần trên, thể chế chính trị vừa với tư cách là
những định chế tạo thành những nguyên tắc tổ chức và phương thức hoạt
động của chế độ chính trị, vừa là hình thức thể hiện của các thành tố trong hệ
thống chính trị, trong thể chế chính trị, thể chế nhà nước bao giờ cũng giữ vai
trò quan trọng nhất. Vì vậy, các học giả thường dựa vào thể chế chính trị - cụ
thể là thể chế nhà nước để phân loại các thể chế chính trị. Tên gọi của hình
thức chính thể cũng chính là tên gọi của thể chế chính trị.Theo đó, có thể đánh
giá những nét cơ bản của thể chế chính trị thế giới đương đại. Có nhiều cách
phân loại thể chế chính trị khác nhau, dưới đây là những cách phân loại chính.
13
2.2.1. Phân loại theo chế độ chính trị
2.2.1.1. Thể chế chính trị quân chủ
Thể chế chính trị quân chủ là thể chế quy định và bảo đảm quyền lực
tối cao của nhà nước tập trung toàn bộ hay một phần trong tay người đứng
đầu nhà nước (có tên gọi Vua hoặc hoàng đế).
Đây là hình thể chính trị lâu đời nhất, hầu hết mang tính chuyên chế
của quyền lực nhà nước. Quyền lực chuyên chế khẳng định nhà vua có tồn
quyền để cai trị thiên hạ. Thể chế quân chủ được thịnh hành ho đến tận những
năm đầu thế kỷ XX.
2.2.1.2. Thể chế chính trị cộng hồ
Thể chế chính cộng hồ xét về bản chất, là loại hình tổ chức nhà nước
dân chủ, mà ở đó quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nếu như loại hình
thể chế quân chủ, tính chuyên chế, quyền lực nhà nước tập trung trong tay
một vị Vua được truyền ngôi theo nguyên tắc thế tập, nhân dân ở mọi tầng
lớp, trừ tầng lớp q tộc phong kiến, khơng có quyền tham gia vào cơng việc
của nhà nước, thì ở thể chế cộng hồ, quền lực này nước thuộc về nhân dân
gọi là thể chế cộng hoà.
Thể chế cộng hồ có hai loại chủ yếu là thể chế cộng hoà đại nghị và
cộng hoà tổng thống và một hình thứ ba kết hợp giữa hai hình thức này tạo
thành một hình thức nữa, được gọi là thể chể cộng hồ lưỡng tính.
2.3. Vị trí và vai trị của thể chế chính trị trong đời sống của mỗi
quốc gia
Thể chế chính trị có một vị trí quan trọng trong đời sống của mỗi quốc
gia, chúng can thiệp dù ít nhiều đến đời sống của mỗi công dân và của mọi
người dân khác nằm trong lãnh thổ của một quốc gia. Bởi lẽ, mọi người dân
14
khơng kể có quốc tịch hay khơng có quốc tịch đều phải phụ thuộc vào các thể
chế chính trị quốc gia. Các thể chế chính trị tác động đến sự lựa chọn cách
hành xử của cá nhân và tổ chức, tạo dựng sự ổn định, trật tự và phát triển xã
hội.
Vị trí, vai trị của thể chế chính trị thể hiện trước tiên trong mối tương
quan, tác động giữa thể chế chính trị và cơ sở kinh tế. Thể chế chính trị là một
bộ phận của thượng tầng kiến trúc. C.Mác đã chứng minh sự quy định của cơ
sở hạ tầng đối với thượng tầng kiến trúc. V.I.Lênin trong thời kỳ xây dựng
chính sách kinh tế mới đã đưa ra luận điểm kinh điển về mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị:
Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, hai là, chính trị không
thể không giữ địa vị ưu tiên so với kinh tế. Chính trị bao gồm nhiều bộ phận
cấu thành: Quan điểm chính trị, hệ tư tưởng chính trị, hoạt động chính trị thực
tiễn. Với tư cách là một bộ phận của chính trị nói chung, thể chế chính trị
trong quan hệ với kinh tế chịu sự chi phối của quy luật về sự phụ thuộc của
kiến trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng, chính trị là biểu hiện tập trung của
kinh tế, chính trị khơng thể khơng giữ địa vị ưu tiên so với kinh tế. Dựa trên
quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, quan hệ chính trị và kinh tế, có thể nhận
thấy tương quan và tác động của thể chế chính trị đối với cơ sở kinh tế ở các
khía cạnh sau đây:
- Kinh tế quy định sự hình thành và phát triển của các thể chế chính trị.
Cơ sở kinh tế quyết định sự ra đời của các thể chế chính trị. Các thể chế chính
trị sinh ra trên cơ sở các tiền đề kinh tế. Nhà nước- một thể chế chính trị tổ
chức căn bản ra đời do sự xuất hiện của chế độ tư hữu và mâu thuẫn giai cấp.
Chế độ tư hữu ra đời, đối kháng giai cấp xuất hiện. Để duy trì trật tự xã
15
hội và thống trị bộ phận xã hội còn lại, giai cấp chiếm ưu thế về kinh tế
đã tổ chức ra Nhà nước, trở thành giai cấp thống trị về chính trị, Khơng riêng
gì nhà nước, các thể chế chính trị khác ra đời đều do sự quy định của cơ sở
kinh tế. Đảng phái chính trị khơng phải là một thể chế chính trị cố hữu của
mọi xã hội tồn tại nhà nước. Đảng phái chính trị ra đời trong sự xuất hiện và
phát triển của chế độ kinh tế tư bản chủ nghĩa. Giai cấp tư sản khi đã chiếm
được ưu thế kinh tế so với giai cấp phong kiến, đã tập hợp thành các đảng
phái chính trị để đấu tranh giành quyền lực nhà nước.
Nội dung của thể chế chính trị phản ánh các lợi ích kinh tế. Sinh ra
trong một xã hội có mẫu thuẫn giai cấp, thể chế chính trị bao giờ cũng thể
hiện trước tiên lợi ích của giai cấp chiếm ưu thế về kinh tế. Các thể chế chính
trị trong một nền kinh tế bao giờ cũng phản ánh những lợi ích kinh tế căn bản.
Chẳng hạn, đảng cộng sản, cơng đồn là sự phản ánh lợi ích căn bản của giai
cấp công nhân [6].
Cơ cấu kinh tế quy định cơ cấu thể chế chính trị. Cơ cấu của thể chế
chính trị là hình thức biểu hiện các quan hệ kinh tế, phản ánh cơ cấu kinh tế.
Ví dụ về cơ cấu kinh tế Việt Nam những năm 80 thế kỷ XX là cơ cấu kinh tế
tập trung. Hiến pháp Việt Nam năm 1980 xác định cơ cấu của các thể chế
chính trị phản ánh cơ cấu kinh tế đó nên cùng mang tính chất tập trung. Điều
này biểu hiện ở các quy phạm của Hiến pháp quy định Chính phủ là cơ quan
chấp hành và hành chính nhà nước cao nhất của Quốc hội, tính chất tập thể và
hội đồng trong tổ chức và hoạt động của Chính phủ, thể chế Hội đồng Nhà
nước - Chủ tịch nước tập thể. Đến Hiến pháp 1992- Hiến pháp của thời kỳ
chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, thì cơ cấu của thể chế chính trị cũng có những biến đổi tương
ứng. Chính phủ vừa là cơ quan chấp hành của Quốc hội, vừa là cơ quan hành
chính nhà nước cao nhất của Nhà nước, được Hiến pháp mở rộng thẩm quyền
trong lĩnh vực hành chính. Thủ tướng chính phủ được tăng thêm nhiều quyền
16
hạn. Hội đồng nhà nước tách thành Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch
nước. Thể chế Chủ tịch nước cá nhân được tái lập.
Tính chất của các quan hệ kinh tế quy định tính chất của các quan hệ
của các thể chế chính trị. Chủ nghĩa tư bản thời kỳ tự do cạnh tranh nền kinh
tế thị trường hoạt động theo cơ chế tự điều chinh của bàn tay vơ hình, trong
điều kiện đó, nhà nước ít can thiệp vào lĩnh vực kinh tế. Chính phủ, về tính
chất là một thể chế can thiệp một cách trực tiếp nhất đến đời sống xã hội.
Nhưng trong thời kỳ này, do tình hình trên, chính phủ có ít quyền, phụ thuộc
vào nghị viện. Nhưng khi mức độ tập trung tư bản dù cao, chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước thay thế chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, thì nhà nước
ngày càng can thiệp sâu vào đời sống kinh tế, trở thành bàn tay điều tiết các
quan hệ kinh tế. Cùng với sự thay đổi đó, quan hệ giữa các thể chế chính trị
ngày càng thay đổi. chính phủ khơng cịn là cơ quan thuần t chấp hành luật
của Nghị viện, biến Nghị viện thành cơ quan hoạt động hình thức.
- Thể chế chính trị là kiến trúc thượng tầng của cơ sở kinh tế nhưng
nó khơng phản ánh các quan hệ kinh tế một cách thụ động. Thể chế chính trị
có tính độc lập tương đối, có ưu thế nhất định, tác động trở lại kinh tế. Điều
này biểu hiện ở những khía cạnh sau:
Các thể chế chính trị nếu khơng phản ánh đúng quy luật khách quan
của kinh tế thì chúng sẽ kìm hãm, cản trở sự phát triển kinh tế. Sự tụt hậu, bảo
thủ của các thể chế chính trị so với trình độ phát triển của kinh tế sẽ là yếu tố
lực cản đối với sự tiến bộ xã hội. Điều này thấy rõ ở thời kỳ cuối của chế độ
phong kiến. Nhà nước phong kiến là một tác nhân cản trở sự phát triển xã hội
vì nó lạc hậu so với các quan hệ sản xuất tư bản vào giai cấp đế chế chủ
nghĩa, và chiến tranh đế quốc cũng là lực cản đối với sự phát triển xã hội, vì
nó mâu thuẫn với các quan hệ sản xuất đang có xu hướng xã hội hoá ngày
17
càng cao, khơng thể bó hẹp trong khn khổ quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa.
Các thể chính trị nếu phản ánh đúng đắn sự phát triển khách quan
của các quan hệ kinh tế sẽ là một lực lượng cải tạo xã hội. Nhà nước phong
kiến trong thời kỳ đầu của nó đã có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển xã
hội vì đã tiến hành giải phóng lao động nơ lệ, tạo điều kiện cho các quan hệ
sản xuất phong kiến phát triển. Nhà nước tư sản ra đời sau sự sụp đổ của chế
độ phong kiến, phản ánh đúng hướng phát triển của các quan hệ kinh tế tư bản
chủ nghĩa nên nó là một tác nhân chính trị quan trọng đối với sự phát triển của
xã hội. Sau Cách mạng Tháng Mười, Nhà nước Xô Viết - Một nhà nước xã
hội chủ nghĩa ra đời phù hợp với nguyện vọng của quảng đại quần chúng
nhân dân lao động, phù hợp với xu hướng xã hội hơn và sự phát triển ngày
càng cao của lực lợng sản xuất. Vì vậy, Nhà Nước Xơ Viết đã tạo ra sự sự tự
phát thần kỳ của xã hội Xô Viết, trở tấm gương cho các nước xã hội chủ
nghĩa và các dân tộc (16].
Giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động muốn giải phóng
mình khỏi các quan hệ tư sản và tiểu tư sản, cải tạo các quan hệ kinh tế, làm
chủ sở hữu của các tư liệu sản xuất cơ bản, phát triển lực lượng sản xuất, tăng
cường kinh tế, trước hết phải tổ chức mình thành giai cấp thống trị. Trong
"Tun ngơn của Đảng cộng sản"C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: “Giai đoạn
thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai đoạn giai cấp vô sản tự xây
dựng thành giai cấp thống trị , là giai đoạn giành lấy dân chủ. Giai cấp vơ
sản sẽ dùng sự thống trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản
trong tay giai cấp tư sản, để tập trung những công cụ sản xuất vào trong tay
Nhà nước tức là trong tay giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp
thống trị, và để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất lên "[4].
18