Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiêu luận lịch sử tư tưởng chính trị phân tích sự hình thành và phát triên của thuyét tam quyền phân lập ảnh hưởng của nó trong hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.94 KB, 22 trang )

TIÊU LUẬN

MƠN: LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ

ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIÊN CỦA
THUT TAM QUYỀN PHÂN LẬP. ẢNH HƯỞNG CỦA

NÓ TRONG HIỆN NAY”

MỤC LỤC
A....................................................................................................................................
MỞ ĐẦU:.....................................................................................................................
B....................................................................................................................................
NỘI DUNG:.................................................................................................................

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HỌC THUYẾT “TAM QUYỀN PHÂN LẬP” VÀ
SỰ VẬN DỤNG GIÁ TRỊ NỘI DUNG HỌC THUYẾT VÀO TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC TƯ BẢN.

1.1 . Giới thiệu chung về học thuyết “ tam quyền phân lập”
1.2 Hoàn cảnh ra đời của học thuyết “ tam quyền phân lập”.
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận của học thuyết “tam quyền phân lập”

CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT “TAM QUYỀN PHÂN
LẬP” VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC TRONG
CÁC KIỂU NHÀ NƯỚC.

2.1 khái niệm thuyết tam quyền phân lập
2.2 Quá trình hình thành thuyết tam quyền phân lập
2.3 Nội dung về tính phân quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy


Nhà nước

CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỠNG CỦA THUYẾT TAM QUYỀN PHÂN LẬP
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.

3.1 Ảnh hưởng của thuyết tam quyền phân lập trong giai đoạn hiện nay.
3.2 Có nên áp dụng thuyết tam quyền phân lập vào Việt Nam không?
C....................................................................................................................................
KẾT LUẬN..................................................................................................................

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................
A. MỞ ĐẦU

Có thể nói trong lịch sử các học thuyết chính trị của nhân loại, các học thuyết về

Nhà nước ln giữ vị trí quan trọng nhất. Trong các học thuyết ấy thì học thuyết về

quyền lực Nhà nước, về việc tổ chức và thực hiện quyền lực giữ vị trí cơ bản và trọng

yếu, chúng bao giờ cũng để lại dấu ấn trong các thể chế chính trị nhất định.

Vì vậy, nghiên cứu lịch sử các học thuyết chính trị mang lại một ánh sáng cần thiết cho

việc nghiên cứu nền chính trị và các thể chế chính trị đương đại. Học thuyết phân chia

quyền lực Nhà nước có mầm mống xa xưa trong lịch sử, từ thời cổ đại. Chúng ta có thể

tìm thấy những nét đại cương của nó trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước

Hy Lạp, La Mã thời kỳ cổ đại, trong các quan điểm chính trị của Aristote, Polybe... Sau


đó, học thuyết này được các nhà tư tưởng tư sản thế kỷ XVII - XVIII, điển hình là John

Locke và Montesquieu kế thừa, phát triển và hồn thiện nó, coi đó là cơ sở bảo đảm

quyền lực nhân dân và chống chế độ độc tài, chuyên chế. Montesquieu phát triển một

cách toàn diện học thuyết phân quyền và sau này khi nhắc tới học thuyết “tam quyền

phân lập” là nhắc tới tên tuổi của ông. Nó được áp dụng trong việc tổ chức bộ máy Nhà

nước của nhiều nước trên thế giới ở các mức độ khác nhau, được ghi nhận một cách

trang trọng trong các bản Tuyên ngôn và Hiến pháp của một số nước. Thậm chí, có nước

đã coi phân quyền là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức bộ máy Nhà nước của mình. Đó

chính là sự thừa nhận và khẳng định giá trị của học thuyết “tam quyền phân lập” trong

thực tế.

B. NỘI DUNG

Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ HỌC THUYẾT “TAM QUYỀN PHÂN LẬP”
VÀ SỰ VẬN DỤNG GIÁ TRỊ NỘI DUNG HỌC THUYẾT VÀO TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC TƯ BẢN.

1.1 Giới thiệu chung về học thuyết “ tam quyền phân lập”

Trước chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, mọi quyền lực nhà

nước đều tập trung vào trong tay một cá nhân. Chính đây là căn nguyên cho mọi
hành vi độc tài, chuyên chế của các công việc nhà nước. Vì vậy, muốn chống chế độ
này, một lý thuyết của nhiều học giả tư sản đã được nêu ra, đó là thuyết phân chia
quyền lực.

Cội nguồn của tư tưởng phân quyền đã có từ thời cổ đại ở Phương Tây mà điển
hình là nhà nước Athens và cộng hòa La Mã. Tư tưởng phân quyền trong xã hội Hy
Lạp cổ đại đã có mầm mống từ Aristotle. Ông đã quan niệm rằng trong bất kỳ nhà
nước nào cũng cần phải có những yếu tố bắt buộc: cơ quan làm ra luật có trách nhiệm
trơng coi việc nước, các cơ quan thực thi pháp luật và các tịa án, từ đó ơng chia hoạt
động nhà nước thành ba thành tố: nghị luận, chấp hành và xét xử. Tuy nhiên, tư
tưởng của Aristotle mới chỉ dừng ở việc phân biệt các lĩnh vực hoạt động của nhà
nước, chứ chưa chỉ rõ phương thức vận hành cũng như mối quan hệ bên trong giữa
các thành tố đó. Những tư tưởng phân quyền sơ khai trong thời cổ đại được phát triển
thành học thuyết ở Tây Âu vào thế kỷ 17 - 18, gắn liền với hai nhà tư tưởng lớn là
John Locke và C.L. Montesquieu.

Trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật”, Montesquieu đã lập luận tinh tế và chặt
chẽ tính tất yếu của việc tách bạch các nhánh quyền lực và khẳng định: “Trong bất cứ
quốc gia nào đều có ba thứ quyền: quyền lập pháp, quyền thi hành những điều hợp
với quốc tế công pháp và quyền thi hành những điều trong luật dân sự.” Ta có thể
nhận ra sự tiến bộ trong tư tưởng phân quyền của Montesquieu so với tư tưởng của
Locke, khi tách quyền lực xét xử - quyền tư pháp ra độc lập với các thứ quyền khác.

Từ đó, Montesquieu chủ trương phân quyền để chống lại chế độ chuyên chế,
thanh toán nạn lạm quyền, để chính quyền khơng thể gây hại cho người bị trị và đảm
bảo quyền tự do cho nhân dân. Montesquieu đã viết: “Khi mà quyền lập pháp và hành
pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện Ngun Lão, thì sẽ khơng có gì là tự

do nữa, vì người ta sợ rằng chính ơng ta hoặc viện ấy chỉ đặt ra những luật độc tài để

thi hành một cách độc tài. Cũng khơng có gì là tự do nếu như quyền tư pháp không
tách rời quyền lập pháp và hành pháp. Nếu quyền tư pháp được nhập với quyền lập
pháp, thì người ta sẽ độc đốn với quyền sống, quyền tự do của cơng dân; quan tòa sẽ
là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì quan tịa sẽ
có cả sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc
của quý tộc, hoặc của dân chúng, nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ
mất hết.”

Tóm lại, theo Montesquieu, cách thức tổ chức nhà nước của một quốc gia là: “Cơ
quan lập pháp trong chính thể ấy gồm có hai phần, phần này ràng buộc phần kia do
năng quyền ngăn cản hỗ tương. Cả hai phần sẽ bị quyền hành pháp ràng buộc và
quyền hành pháp sẽ bị quyền lập pháp ràng buộc.” Tư tưởng của Montesquieu tuy vẫn
còn điểm hạn chế là bảo thủ phong kiến, đòi hỏi đặc quyền cho tầng lớp quý tộc.
Nhưng nó vẫn là nền móng cho tư tưởng phân chia quyền lực sau này, có ảnh hưởng
sâu sắc đến những quan niệm sau này về tổ chức nhà nước cũng như thực tiễn tổ chức
của các nhà nước tư bản. Ví dụ như đa số Hiến pháp của các nhà nước tư bản hiện nay
đều khẳng định nguyên tắc phân quyền như một nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức
quyền lực nhà nước. Như điều 10 Hiến pháp liên bang Nga quy định: “Quyền lực nhà
nước ở Liên bang Nga được thực hiện dựa trên cơ sở của sự phân quyền thành các
nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các cơ quan của các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp phải độc lập.” Điều 1 của Hiến pháp Ba Lan cũng trực tiếp khẳng định
việc tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc phân chia quyền lực thành ba quyền:
lập pháp, hành pháp, tư pháp.

1.2 Hoàn cảnh ra đời của học thuyết “ tam quyền phân lập”.

Bắt đầu từ thế kỷ XV, ở Tây Âu, chế độ phong kiến với nền sản xuất nhỏ và các đạo
luật hà khắc trung cổ bước vào thời kỳ tan rã. Xuất hiện nhiều công trường thủ công, ban
đầu ở các nước ven Địa Trung Hải, nhất là ở Italia, sau đó lan sang Anh, Pháp và các
nước khác. Thay thế cho nền kinh tế tự nhiên kém phát triển là nền sản xuất công trường

thủ công đem lại năng suất lao động cao hơn. Nhiều công cụ lao động được cải tiến và
hoàn thiện nhằm thúc đẩy sản xuất. Với việc sáng tạo ra máy tự kéo sợi và máy in làm
cho cơng nghiệp dệt, cơng nghệ ấn lốt đặc biệt phát triển, nhất là ở Anh. Sự khám phá
và chế tạo hàng loạt đồng hồ cơ học đã giúp cho con người thời kỳ này sản xuất có kế
hoạch, tiết kiệm thời gian và tăng năng suất lao động. Những phát kiến địa lý như việc
tìm ra châu Mỹ và các đường biển đến những miền đất mới... càng tạo điều kiện phát
triển nền sản xuất theo hướng TBCN. Nhờ đó, thị trường trao đổi hàng hóa giữa các
nước được mở rộng. Các cuộc giao du Đông - Tây được tăng cường.

Các nước TBCN sớm phát triển như Anh, Pháp, Tây Ban Nha. thi nhau xâm chiếm
thuộc địa, khai thác tài nguyên thiên nhiên của các nước kém
phát triển, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa của mình. “Giờ đây, lần đầu tiên
người ta đã thực sự phát hiện ra trái đất và đặt nền móng cho nền thương nghiệp thế
giới sau này và đại công nghiệp hiện đại”.Đồng thời với sự phát triển của sản xuất và
thương nghiệp, trong xã hội Tây Âu, thời kỳ này, sự phân hóa giai cấp ngày càng rõ
rệt. Tầng lớp tư sản xuất hiện gồm các chủ xưởng cơng trường, xưởng thợ, chủ
thuyền bn... vai trị và vị trí của họ trong kinh tế và xã hội ngày càng lớn. Hàng loạt
nông dân từ nông thôn di cư đến các thành phố, trở thành người làm thuê cho các
công trường, xưởng thợ. Họ là tiền thân của giai cấp công nhân sau này. Các tầng lớp
xã hội trên đại diện cho một nền sản xuất mới, cùng với nông dân đấu tranh chống
chế độ phong kiến đang suy tàn. Những mầm mống của nền sản xuất TBCN xuất
hiện trước tiên ở Italia, nước được coi là quốc gia tư bản sớm nhất ở Tây Âu. Với nền

văn hóa phục hưng phát triển rực rỡ trong suốt thế kỷ XIV - XV, Italia trở thành
trung tâm của vũ đài lịch sử thế giới, tiêu biểu cho nền văn minh nhân loại thời kỳ
này.

Tiếp sau đó, các cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789 - 1794) với việc xử tử vua Lu
- i XVI là một trong những đòn quyết định tiêu diệt chế độ phong kiến ở châu
Âu.Vào thế kỷ XVI - XVII thành phần kinh tế TBCN ngày càng phát triển mạnh mẽ

trong nền kinh tế của các nước Tây Âu. Sự lớn mạnh của công nghiệp và thương mại
cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật đã dẫn tới sự tiếp tục tan rã
của chế độ phong kiến. Song, quyền sở hữu ruộng đất của phong kiến, chế độ nông
nô, chế độ đẳng cấp và sự bất bình đẳng về pháp luật đặc trưng cho xã hội phong kiến
đã ngăn cản sự phát triển của kinh tế TBCN dựa trên sự cạnh tranh tự do và bóc lột
lao động làm thuê. Nền quân chủ chuyên chế với những thể chế bảo thủ can thiệp
quan liêu vào tồn bộ đời sống xã hội kìm hãm sự phát triển của các xí nghiệp thương
mại và cơng nghiệp. Giai cấp tư sản đang trưởng thành và lớn mạnh
ở các nước phát triển nhất không thể khoan nhượng với chế độ chun chế phong
kiến. Giai cấp tư sản địi xóa bỏ đẳng cấp và thiết lập sự bình đẳng pháp luật, bảo
đảm tự do và an ninh cá nhân và quyền sở hữu tư nhân bằng cách tạo ra những sự
đảm bảo cần thiết về mặt chính trị và pháp lý.Trong cuộc đấu tranh chống nền quân
chủ chuyên chế, giới quý tộc và nhà thờ, các nhà tư tưởng tư sản muốn vứt bỏ vòng
hào quang thiêng liêng bao trùm lên chế độ phong kiến, tách các vấn đề Nhà nước và
pháp quyền ra khỏi tôn giáo.Khuynh hướng này được thể hiện rõ nét trong học thuyết
về pháp quyền tự nhiên,về chủ nghĩa tự do. Nội dung của các học thuyết này được
truyền bá rộng rãi ở Tây Âu đã tạo ra những quan niệm xây dựng nền tảng của thể
chế chính trị dân chủ tư sản. Nó cũng là nền móng của những hệ thống chính trị ở
các nước tư bản phát triển và các nền dân chủ tư bản hiện đại sau này.

Tóm lại, hồn cảnh lịch sử Tây Âu thế kỷ XV - XVIII và nền tảng tư tưởng trên đây
quy định nội dung của những tư tưởng chính trị thời kỳ này, làm cho nó khơng chỉ
đơn thuần dừng lại ở việc tiếp thu và khôi phục các giá trị tư tưởng truyền thống, mà
còn phát triển với nhiều sắc thái riêng của một thời kỳ lịch sử. Ở thời kỳ này, có rất
nhiều nhà tư tưởng chính trị tiêu biểu và nổi tiếng, những tư tưởng của họ về mặt
chính trị để lại cho nhân loại nhiều giá trị trong đó có thuyết “tam quyền phân lập”
của Montesquieu.
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận của học thuyết “tam quyền phân lập”

Học thuyết này đã được các nhà tư tưởng tư sản thế kỷ XVII - XVIII mà điển

hình là John Locke và Montesquieu kế thừa, phát triển và hồn thiện nó, coi đó là cơ
sở để bảo đảm quyền lực của nhân dân và chống chế độ độc tài chuyên chế.
Montesquieu đã phát triển một cách toàn diện học thuyết phân quyền và sau này khi
nhắc tới học thuyết “tam quyền phân lập” là nhắc tới tên tuổi của ơng. Nó đã được
thể hiện và áp dụng trong việc tổ chức bộ máy Nhà nước của nhiều nước trên thế giới
ở các mức độ khác nhau, được ghi nhận một cách trang trọng trong các bản Tuyên
ngôn và Hiến pháp của một số nước. Thậm chí, có nước đã coi phân quyền là ngun
tắc cơ bản trong tổ chức bộ máy Nhà nước của mình, là tiêu chuẩn và điều kiện của
nền dân chủ. Đó chính là sự thừa nhận và khẳng định giá trị của học thuyết “tam
quyền phân lập” trong thực tế.

Qua hai thế kỷ, loài người ngày càng hiểu biết hơn về giá trị của nguyên tắc phân
quyền của Montesquieu, đã góp phần đẩy nhanh việc kết thúc chủ nghĩa cực quyền,
ông được mệnh danh như là một người đặt nền móng cho việc thiết lập một Chính
phủ hiện đại. Hiện nay, dân chủ và tự do đã trở thành một giá trị rõ ràng, chế độ độc
tài dần dần được đẩy lùi, phân tích của Montesquieu về việc phân quyền như là một
trong những biện pháp quan trọng để chống sự độc tài chuyên chế của nhiều Nhà
nước trên thế giới hiện nay. Thuyết “tam quyền phân lập” của Montesquieu có ảnh

hưởng sâu sắc đến những quan niệm sau này về tổ chức Nhà nước cũng như thực tiễn
tổ chức Nhà nước của các Nhà nước tư bản. Học thuyết này là một nguồn quan trọng
của chủ nghĩa lập hiến. Đa số Hiến pháp của các nước tư bản hiện nay đều tuyên bố
phân quyền là một nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức quyền lực Nhà nước.

CHƯƠNG 2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT “TAM
QUYỀN PHÂN LẬP” VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ
MÁY NHÀ NƯỚC TRONG CÁC KIỂU NHÀ NƯỚC.
2.1 Khái niệm thuyết tam quyền phân lập
Quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được giao cho các cơ quan khác nhau
trong nhà nước: quyền lập pháp giao cho nghị viện, quyền hành pháp giao cho

chính phủ, quyền tư pháp giao cho tòa án.
Tam quyền phân lập là nhằm dùng quyền lực kiểm soát và kiểm chế quyển lực.
Theo mơ hình phân quyền của Mơngtexkiơ không chấp nhận việc một cơ quan nhà
nước đứng trên hoặc nắm trọn vẹn cả 3 quyền.
2.2 Quá trình hình thành thuyết tam quyền phân lập
Thuyết tam quyền phân lập xuất hiện lần đầu tiên bởi nhà triết học vĩ đại của Hy
Lạp Aristote. Theo Aristote, nhà nước quản lý xã hội bằng 3 phương pháp: lập pháp,
hành pháp và phân xử.
Ông cho rằng, khơng có loại hình chính phủ nào là duy nhất có thể phù hợp với
tất cả các thời đại và các quốc gia. Ơng phân chính phủ theo tiêu chuẩn số lượng (số
người cầm quyền) và chất lượng (mục đích của sự cầm quyền) - kết hợp 2 mặt đó, các
chính phủ có thể xếp theo 2 loại: chân chính (qn chủ, q tộc, cộng hồ) và biến
chất (độc tài, quá đầu, dân trị)
Bên cạnh Aristote, bàn về thuyết ”tam quyền phân lập” cịn có John Locke. Theo
ơng, quyền lực của nhà nước là quyền lực của nhân dân. Nhân dân nhường một phần
quyền của mình cho nhà nước qua khế ước. Và để chống độc tài phải thực hiện sự

phân quyền. Kế thừa tư tưởng phân quyền xcủa Aristote, Locke cho rằng, quyền lực
phải phân chia theo 3 lĩnh vực: lập pháp, hành pháp và liên hợp.

Từ thế kỷ 18, nhà tư tưởng vĩ đại người Pháp Montesquieu, đã phát triển thuyết
tam quyền phân lập trở thành một học thuyết độc lập. Tiếp thu và phát triển tư tưởng
về thể chế chính trị tự do, chống chuyên chế, Mongtesquieu xây dựng học
thuyết phân quyền với mục đích tạo dựng những thể chế chính trị đảm bảo tự do
cho các công dân.

Theo ơng, tự do chính trị của cơng dân là quyền mà người ta có thể làm mọi cái
mà pháp luật cho phép. Pháp luật là thước đo của tự do. Cũng như Aristote và J.
Locke, Mongtesquieu cho rằng, thể chế chính trị tự do là thể chế mà trong đó, quyền
lực tối cao được phân thành 3 quyền : lập pháp, hành pháp và tư pháp.


+ Lập pháp: Biểu hiện ý chí chung của quốc gia . Nó thuộc về toàn thể nhân
dân, được trao cho hội nghị đại biểu nhân dân - Quốc hội + Hành pháp: Là
việc thực hiện luật pháp đã được thiết lập.
+ Tư pháp: là để trừng trị tội phạm và giải quyết sự xung đột giữa các cá nhân.
Các thẩm phán được lựa chọn từ dân và xử án chỉ tuân theo pháp luật.
Tư tưởng phân quyền của Mongtesquieu là đối thủ đáng sợ của chủ nghĩa chun
chế phong kiến và có thể khẳng định ơng là người đã phát triển và hoàn thiện thuyết:
”tam quyền phân lập”. Học thuyết về sự phân chia quyền lực gắn liền với lí luận về
pháp luật tự nhiên đã đóng vai trò quyết định trong lịch sử đấu tranh của giai cấp tư
sản chống lại sự độc đoán, chuyên quyền của nhà vua
Cùng với sự hình thành chế độ tư bản, nguyên tắc “phân chia quyền lực” đã trở
thành một trong những nguyên tắc chính của chủ nghĩa lập hiến tư sản, lần đầu tiên
được thể hiện trong các đạo luật mang tính hiến định của cuộc Cách mạng Pháp và
sau đó thể hiện đầy đủ trong Hiến pháp Hoa Kỳ 1787. Học thuyết pháp luật - chính
trị (thuyết “phân quyền”) với quyền lực nhà nước được hiểu không phải là một thể

thống nhất, mà là sự phân chia thành 3 quyền: quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp,
các quyền này được thực hiện độc lập với nhau, kiểm soát lẫn nhau, kiềm chế lẫn
nhau. Trên thực tế, việc phân chia quyền lực trong bộ máy nhà nước được áp dụng
khác nhau trong hệ thống các nước cộng hoà tổng thống, theo nguyên tắc “kiềm chế
và đối trọng”, tức là các quyền kiểm tra và giám sát lẫn nhau, tạo ra sự cân bằng giữa
các quyền.

2.3 Nội dung về tính phân quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước

Nội dung đầu tiên trong học thuyết phân quyền của Montesquieu là quyền lực
Nhà nước được cấu thành bởi ba hình thái cơ bản (tam quyền): lập pháp, hành pháp
và tư pháp: “Trong mỗi quốc gia đều có ba thứ quyền lực: quyền lập pháp, quyền thi

hành những điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi hành những điều hợp với
luật dân sự. Với quyền Thứ nhất, nhà vua hay pháp quan làm ra các thứ luật cho một
thời gian hay vĩnh viễn, và sửa đổi hay hủy bỏ luật này. Với quyền lực thứ hai, nhà
vua quyết định hòa hay chiến, gửi Đại sứ đi các nước, thiết lập an ninh, đề phòng
xâm lược. Với quyền lực thứ ba, nhà vua hay pháp quan trừng trị tội phạm, phân xử
tranh chấp giữa các cá nhân. Người ta gọi đây là quyền tư pháp, và trên kia là quyền
hành pháp quốc gia”. Nội dung tiếp theo là quyền lực Nhà nước phải được tổ chức
làm sao cho tự do của công dân được bảo đảm: “Tự do chính trị của cơng dân là sự
yên tâm vì mỗi người nghĩ rằng mình được an ninh. Muốn đảm bảo tự do chính trị
như vậy thì Chính phủ phải làm thế nào để mỗi cơng dân không phải sợ một công
dân khác”. Montesquieu kịch liệt lên án chế độ quân chủ chuyên chế ở Pháp lúc bấy
giờ.

Chế độ quân chủ chuyên chế là tổ chức quyền lực phi lý. Chuyên chế là hình
thức cầm quyền của một người phủ nhận pháp luật, Nhà nước phụ thuộc vào sự lộng
quyền của người cầm quyền. Chế độ chuyên chế sở dĩ tồi tệ, phi lý là vì: Nhà nước
tồn tại vốn biểu hiện của ý chí chung nhưng trong chế độ chun chế nó lại biểu hiện
ý chí đặc thù; chế độ chuyên chế với bản chất vô pháp luật và ý chí tùy tiện của nó
lại trái với bản chất pháp luật và nhu cầu pháp luật. Montesquieu nhận thấy pháp luật
gồm nhiều lĩnh vực, phân nghành rõ rệt, cho nên tập trung vào một
người duy nhất là trái với bản chất của nó. Gắn với bản chất của chế độ chuyên chế là
tình trạng lạm quyền. Vì vậy, việc thanh tốn hiện tượng lạm quyền chỉ có thể đồng thời
là sự thanh toán chế độ chuyên chế.

Theo Montesquieu, một khi quyền lực được tập trung vào một mối, kể cả một
người hay một tổ chức, thì nguy cơ chuyên chế vẫn cịn. Từ đó, Montesquieu cho rằng tổ
chức quyền lực Nhà nước theo phương thức phân chia quyền lực Nhà nước để chống lại
chế độ chuyên chế, thanh toán nạn làm quyền, bảo đảm quyền tự do của con người...

Montesquieu viết: “Khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay

một người hay một Viện Ngun lão thì khơng cịn tự do nữa; vì người ta sợ rằng chính
ơng ta hay viện ấy sẽ đặt ra những luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng khơng
có gì là tự do nếu quyền tư pháp khơng tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp.
Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp, thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống
và quyền tự do của cơng dân; cơ quan tịa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp
nhập lại với quyền hành pháp, thì ơng quan tịa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu
một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng nắm
ln cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết”.Chứng nghiệm vào thực tế, nhận
xét của Montesquieu rất đúng.

Tự do sẽ khơng có nếu quyền lập pháp và quyền hành pháp chập vào một bàn
tay. Vì người nắm quyền lực sẽ đặt ra những quy tắc thuận tiện cho mình cai trị và sẽ
không ban hành các quy tắc gây bất lợi cho mình. Quyền lập pháp nhập với quyền tư
pháp thì tự do cũng sẽ bị đe dọa. Nếu một người vừa có quyền lập
pháp vừa có quyền tư pháp thì sẽ: làm luật cho những trường hợp hay cá nhân mà
ông ta muốn hại, chẳng hạn một nhà độc tài làm ra những đạo luật riêng nhằm bỏ tù
những kẻ chống đối mình; sẽ đem thi hành đạo luật cho những cá nhân mà ông ta
bênh vực hay biệt đãi, chẳng hạn một nhà độc tài đóng vai trị thẩm phán sẽ khơng
phạt tù những kẻ thân thuộc đã phạm tội. Như vậy, luật khơng cịn là luật nữa vì
khơng có giá trị tổng qt nữa mà thay đổi tùy theo ý muốn chủ quan của nhà cầm
quyền.

Lạm quyền là thuộc tính của quyền lực Nhà nước. Một người càng có nhiều
quyền hành trong tay thì càng có khả năng lạm quyền. Nếu một người hay một cơ
quan nắm trọn cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thì tự do của dân chúng sẽ
khơng cịn gì. Phân quyền có nghĩa là ba quyền đó được giao cho những cơ quan khác
nhau, độc lập với nhau có những phương thức hình hành riêng, cách thức hoạt động,
lĩnh vực hoạt động riêng.

Nội dung cốt lõi của học thuyết này cho rằng, quyền lực nhà nước ln có xu

hướng tự mở rộng, tự tăng cường vai trị của mình. Bất cứ ở đâu có quyền lực là xuất
hiện xu thế lạm quyền và chuyên quyền, cho dù quyền lực ấy thuộc về ai. Do vậy, để
đảm bảo các quyền tự do cơ bản của công dân, ngăn ngừa các hành vi lạm quyền của
các chủ thể nắm giữ quyền lực nhà nước thì phải thiết lập pháp chế nhằm giới hạn
quyền lực nhà nước. Cách tốt nhất để chống lạm quyền là giới hạn quyền lực bằng các

công cụ pháp lý và cách thực hiện không phải là tập trung quyền lực, mà là phân chia
nó ra.

Muốn hạn chế quyền lực nhà nước thì trước hết phải phân quyền, và sau đó
phải làm cho các nhánh quyền lực đã được phân chỉ được phép hoạt động trong
phạm vi quy định của pháp luật. Sau này, trong một bức thư gửi cho một người
cùng thời, ông Samuel Kercheval, Thomas Jefferson - tổng thống thứ 3 của Hoa
Kỳ, đã chỉ rõ thêm của sự phân quyền không đơn thuần chỉ diễn ra ở một chiều
ngang, mà còn cần thiết ở cả chiều dọc, và ở bất cứ lĩnh vực nào của nhà nước.

CHƯƠNG 3. ẢNH HƯỠNG CỦA THUYẾT TAM QUYỀN PHÂN LẬP
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

3.1 Ảnh hưởng của thuyết tam quyền phân lập trong giai đoạn hiện nay.

Hiện nay, nguyên tắc phân quyền được áp dụng trong tổ chức bộ máy nhà nước
của một số nước trên thế giới nhưng mức độ áp dụng khơng hồn tồn giống nhau.
Những nước theo chế độ cộng hòa tổng thống thường áp dụng triệt để nguyên tắc
phân quyền theo quan điểm của tam quyền phân lập. Trong khi đó các nước theo
chính thể cộng hịa đại nghị hoặc quân chủ đại nghị thường áp dụng nguyên tắc phân
quyền mềm dẻo hơn. Theo đó, có sự dung hợp quyền lực giữa cơ quan lập pháp và cơ
quan hành pháp. Mơ hình tam quyền phân lập là kết quả của sự phát triển triết học về
nhà nước từ trong lịch sử châu Âu bắt đầu từ John Locke (1632-1704) và Charles de
Secondat Montesquieu (1689- 1755).


Mơ hình tam quyền phân lập ra đời, ban đầu nhìn chung, với chủ trương phân
quyền để chống lại chế độ phong kiến chun chế, thanh tốn nạn lạm quyền, để
chính quyền không thể gây hại cho người bị trị và bảo đảm quyền tự do cho nhân dân.
Tuy nhiên, mơ hình này mang tính lịch sử, xã hội và sự vận dụng cịn
phụ thuộc vào truyền thống văn hóa, điều kiện lịch sử; quan hệ cũng như tương quan
lực lượng giữa các giai cấp và trong từng giai cấp trong xã hội.

3.2 Có nên áp dụng thuyết tam quyền phân lập vào Việt Nam không?

Chưa nên và không nên vận dụng vào Việt Nam hiện nay, bởi các lý do sau:

Thứ nhất, quyền lực nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thống nhất,
mà quyền lực này thuộc về Nhân dân. Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam (Hiến pháp 2013) ghi rõ:

“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

2. Nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức.

3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Khi quyền lực nhà nước thống nhất thuộc về nhân dân thì quyền lực này về
nguyên tắc không chia sẻ cho cá nhân hay tổ chức nào khác. Về bản chất, các cơ quan
nhà nước khi thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là thực hiện các
quyền của nhân dân giao phó, ủy quyền. Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ


nghĩa Việt Nam, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp theo quy định của Hiến pháp
2013 và Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân (2015) cũng do
nhân dân bầu ra theo nguyên tắc phổ thơng, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các
đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp có trách nhiệm, nghĩa vụ phục vụ
nhân dân, thực hiện nhiệm vụ mà nhân dân ủy quyền. Điều 94, Hiến pháp 2013 quy
định: “Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hịa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước”. Điều 102, Hiến pháp 2013 quy định:

1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền tư pháp.

2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định.

3. Tịa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.

Điều 107, Hiến pháp 2013 quy định:

“1. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.

2. Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm
sát khác do luật định.

3. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được

chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.

Như vậy, ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước Việt Nam
đều có mục đích duy nhất là phục vụ nhân dân. Trên thực tế, ba cơ quan này đều thực
hiện quyền lực của nhân dân ủy quyền. Hơn nữa, trong Nhà nước Việt Nam có sự
phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Điều 69, Hiến pháp 2013 quy định: Quốc hội là
cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến,
quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao
đối với hoạt động của Nhà nước. Như vậy, về bản chất quyền lực của nhân dân không
thể phân chia. Nhà nước Việt Nam khơng cần tới mơ hình tam quyền phân lập bởi sự
phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp vì mục tiêu phục vụ Nhân dân được bảo đảm và
thực hiện tốt.

Thứ hai, như chúng ta đều rõ, lý luận phân quyền của J. Locke và Ch.S. Montesquieu
đều xuất phát từ khảo sát thực tế mơ hình chính thể qn chủ lập hiến của nước Anh
thế kỷ XVII - XVIII. Lý luận phân chia quyền lực của J. Locke được tiến hành trong
thời kỳ cách mạng của giai cấp tư sản Anh đạt được thắng lợi, tạo ra sự thỏa hiệp giai
cấp và phân quyền giai cấp. Từ đời sống chính trị nước Anh, ông quan sát đến cách
thức củng cố quyền lực nhà nước của giai cấp tư sản, phòng trừ việc phục hồi của thế
lực phong kiến. Ông phản đối chế độ qn chủ quyền lực vơ hạn, vì cho rằng nếu nhà
vua có tồn quyền thì quyền lợi của mọi người sẽ bị nhà vua xâm hại, không thể có
được sự xét xử cơng bằng. Tuy nhiên, ơng khơng chủ trương xóa bỏ triệt để chế độ
qn chủ vì cho rằng người dân Anh khơng dễ gì từ bỏ chế độ cũ, chỉ trong trường
hợp nghiêm trọng khi nhà vua lạm dụng quyền lực thì mới đặt vấn đề phế truất nhà
vua.

Trong khi chế độ quân chủ lập hiến của nước Anh đã được xác lập và chế độ

dân chủ nghị viện đã bước đầu định hình thì nền chính trị nước Pháp vẫn có xu
hướng phản động, cụ thể là khi Luis XIV (1638-1715) lên nắm quyền vẫn cho rằng
“nhà nước chính là ta”. Để đấu tranh chống xu hướng độc đoán, chuyên chế này,
Ch.S. Montesquieu quyết tâm học tập chế độ quân chủ lập hiến của nước Anh, đả
kích chế độ chuyên chính của Pháp, đưa ra nhiều sáng kiến cho việc cải cách chế độ
chính trị của Pháp. Ơng cũng phản đối chuyên chế quân chủ, cho rằng trong các nhà
nước chuyên chế người ta chẳng khác gì một sinh vật phục tùng một sinh vật có ý chí
khác, sinh mệnh con người ở đâu cũng giống nhau. Ông cũng khơng chủ trương xóa
bỏ hồn tồn chế độ qn chủ, cho rằng nguyên tắc của chính thể quân chủ là vinh
dự, tự trọng mà vinh dự, tự trọng là động lực thúc đẩy các “bộ phận của cơ thể chính
trị”. Có nghĩa là cả J. Locke và Ch.S. Montesquieu đều nhận định chế độ quân chủ
lập hiến của Anh vừa bảo đảm được chế độ quân chủ vừa hạn chế được quyền lực
của vua. Do vậy đó là một thể chế chính trị lý tưởng. Lý luận phân quyền của các ơng
mặc dù về nội dung và hình thức có những điểm không giống nhau nhưng đều dựa
trên chế độ quân chủ lập hiến của Anh và đều là biểu hiện lý luận của chính thể này.
Hơn nữa, phân quyền mà cả hai ông cùng nghiên cứu là phân quyền giai cấp. Điều
này cho thấy, tính lịch sử và điều kiện lịch sử của sự ra đời cũng như của việc vận
dụng mơ hình tam quyền phân lập. Ở Việt Nam hiện tại khơng có những điều kiện
lịch sử giống như lịch sử nước Anh và Pháp thế kỷ XVII-XVIII, cũng khơng có nhà
nước chun chế phong kiến cần đánh đổ. Do vậy, không nhất thiết và không cần
phải vận dụng mơ hình tam quyền phân lập.

Thứ ba, như trên chúng ta đã rõ, phân quyền mà cả J. Locke và Ch.S. Montesquieu
cùng nghiên cứu là phân quyền giai cấp - phân chia quyền lực giữa giai cấp tư sản và
giai cấp phong kiến quý tộc đứng đầu là vua - đang “lụi tàn”, nhưng còn rất mạnh và
vẫn chiếm vị trí quan trọng trong lịng người dân ở các nước này do truyền thống văn

hóa và tâm lý dân tộc. Để dung hịa, xoa dịu mâu thuẫn và để giải quyết tương quan
lực lượng giữa hai giai cấp này tốt nhất họ đã tìm thấy mơ hình nhà nước chính thể
qn chủ lập hiến. Mơ hình này giúp cho giai cấp tư sản lợi dụng được truyền thống

của giới quý tộc phong kiến trong việc khơi gợi tự hào dòng tộc, truyền thống quốc
gia. Trên cơ sở đó giúp giai cấp tư sản tập hợp được sự nhất trí của các giai tầng vì
một dân tộc quốc gia thống nhất. Mặt khác, về hình thức thì giai cấp phong kiến q
tộc vẫn cịn danh dự, vẫn có quyền lực mặc dầu chỉ là quyền lực hình thức. Đối với
Việt Nam, giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân, tầng lớp trí thức,v.v.. mặc dù khác
nhau về tính chất nghề nghiệp, cơng việc, đặc điểm lao động, trình độ học vấn, v.v..
nhưng nếu xét về địa vị trong nền sản xuất xã hội, xét về địa vị chính trị trong chế độ
chính trị - xã hội thì các giai cấp này thống nhất và bình đẳng về quyền lợi và nghĩa
vụ như nhau, kể cả đối với quyền lực nhà nước. Hơn nữa, trong nội bộ mỗi giai cấp
này cũng có sự thống nhất. Cơ sở của sự thống nhất giữa giai cấp công nhân, nơng
dân và tầng lớp trí thức ở Việt Nam cũng như trong nội bộ từng giai cấp này là sự
thống nhất về lợi ích. Hơn nữa, lợi ích của các giai cấp này cũng thống nhất với lợi
ích của Nhà nước Việt Nam và toàn thể dân tộc Việt Nam. Tương quan giữa giai cấp
công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức cũng như tương quan trong nội bộ từng giai
cấp như vậy khơng địi hỏi phải phân chia quyền lực nhà nước!.

Thứ tư, chúng ta đều rõ ở phương Tây, chính phủ được thành lập bởi nhóm thắng cử
đa số và đủ số lượng phiếu theo luật định trong cuộc bầu cử. Nếu thắng cử với đa số
phiếu nhưng vẫn chưa đủ thắng áp đảo theo luật định thì nhóm thắng cử phải liên
minh với các nhóm chính trị khác để có đủ số phiếu theo luật định thành lập chính
phủ. Trong khi đó, có thể nhóm chính trị khác lại thắng cử ở hạ viện hoặc thượng
viện. Nói khác đi, ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp có thể thuộc về các nhóm
chính trị khác nhau hoặc liên minh của các nhóm chính trị khác nhau của

các giai cấp. Các nhóm chính trị này chỉ đại diện cho ý chí của các nhà tài trợ thuộc
các tập đoàn tài phiệt kinh tế, các ngân hàng lớn, các công ty luật,v.v.. mà thôi.
Trong giai cấp thống trị có nhiều nhóm chính trị khác nhau (chẳng hạn ở Mỹ có tới
112 đảng, phái, nhóm chính trị), nhưng nhóm thắng cử trong bầu cử chỉ đại diện cho
ý chí của những nhà tài trợ. Do vậy, nếu không kiểm sốt quyền lực bằng cách phân
chia (dù chỉ là hình thức) thì nguy cơ lạm quyền, độc quyền, chuyên quyền bởi các

nhóm chính trị này là khơng tránh khỏi. Nghĩa là từ tư tưởng phân chia quyền lực
nhà nước giữa các giai cấp trong xã hội của J. Locke và Ch.S. Montesquieu thì ở
phương Tây hiện đại, người ta đã vận dụng tư tưởng này vào phân chia quyền lực
nhà nước giữa các nhóm chính trị trong nội bộ các giai cấp. Nghĩa là sự tương quan
lực lượng giữa các giai cấp cũng như sự tương quan lực lượng trong nội bộ từng giai
cấp mất cân bằng và cần đến mơ hình tam quyền phân lập để cân bằng quyền lực.

Ở Việt Nam, như trên chúng ta đã khẳng định, giai cấp cơng nhân, giai cấp
nơng dân, tầng lớp trí thức,v.v.. thống nhất và bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ
như nhau, kể cả đối với quyền và nghĩa vụ trong thực hiện quyền lực nhà nước.
Các giai cấp này chỉ có một mục tiêu duy nhất là làm cho “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”. Do vậy, khơng cần phải nói tới việc phân chia quyền lực
giữa các giai cấp này cũng như trong nội bộ từng giai cấp này. Từ đây cho thấy,
những người hô hào phải vận dụng mơ hình tam quyền phân lập vào nhà nước Việt
Nam là những người ủng hộ đa đảng, đa ngun chính trị. Mà điều này là khơng phù
hợp thực tế Việt Nam cả về mặt lý luận, cả về mặt thực tiễn.

Thứ năm, tinh thần tam quyền phân lập của J. Locke và Ch.S. Montesquie rất phù
hợp trong điều kiện chống chế độ quân chủ phong kiến thế kỷ XVII-XVIII ở châu
Âu nhưng vận dụng vào điều kiện hiện nay cần cân nhắc rất kỹ lưỡng. Chưa kể, một
số tư tưởng của họ còn hạn chế. Chẳng hạn, J. Locke chưa phân định rõ ràng


×