Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Tiểu luận lịch sử tư tưởng chính trị phân tích cơ sở hình thành tư tưởng chính trị hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.34 KB, 35 trang )

.

T
I

U
L
U

N


N:
LỊC
H
SỬ



ỞN
G
CH
ÍN
H
TRỊ

ĐỀ
TÀI

:
“P



N
TÍC
H

SỞ

NH
TH
ÀN
H


ỞN
G
CH
ÍN

2

H
TRỊ
HỒ
CH

Í
MI
NH



3

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU:...................................................................................................................
Chương 1 : KHÁI QUÁT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1.1 Khái niệm tư tưởng
1.2 Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh

CHƯƠNG 2 : CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.
2.1 Nhân tố khách quan.
2.1.1 Bối cảnh xuất hiện tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.1.2 Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.2 Nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh

CHƯƠNG 3 : NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH BẢN CHẤT CÁCH MẠNG VÀ
KHOA HỌC CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.

3.1 Chủ nghĩa Mác - Lênin.
3.2 Con người Hồ Chí Minh.

KẾT LUẬN................................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................

A. MỞ ĐẦU

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa hơn 40 năm, thế giới đã có nhiều đổi thay
to lớn. Nhân loại đang sống trong kỷ ngun tồn cầu hóa với sự phát triển như
vũ bão của nền kinh tế tri thức và cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Tuy
nhiên, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên giá trị thời đại. Nói đến Hồ Chí

Minh là nói đến những điểm tương đồng, mẫu số chung của nhân loại dù trong
thời kỳ giải giáp chế độ thực dân, giải phóng thuộc địa hay trong công cuộc
kiến thiết đất nước, xây dựng xã hội mới; dù trong thời kỳ "chiến tranh lạnh"
hay trong thế giới tồn cầu hóa. Rõ ràng là trong thế giới ngày nay, khó tìm đâu
ra một nhân vật đã "trở thành huyền thoại ngay khi còn sống", một con người
hội đủ khát vọng của các dân tộc dù màu da, tiếng nói, chủng tộc, tơn giáo, văn
hóa khác nhau.... Tổng bí thư Nơng Đức Mạnh nêu rõ: Chủ tịch Hồ Chí Minh là
linh hồn, là ngọn cờ chói lọi lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đồn
kết một lịng, chiến đấu anh dũng, viết nên những trang sử vẻ vang nhất của Tổ
quốc. Tư tưởng Hồ Chí Minh là di sản tinh thần vơ giá sẽ mãi mãi soi đường
cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, của nhân dân ta. Chúng ta phải tiến hành
cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” một

cách sâu rộng, thiết thực, hiệu quả trong hệ thống chính trị và trong tồn xã hội,
khơi dậy và phát huy các giá trị đạo đức, truyền thống tốt đẹp, đấu tranh khắc
ph ục s ự suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; chặn đứng, đẩy lùi
tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội. Tuy nhiên để “Học tập
và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, chúng ta cần biết được cơ sở hình thành tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh, đó cũng là lý do em chọn chủ đề này làm bài tiểu
luận.

B. NỘI
DU
NG
Ch
ươn
g 1

KHÁI QUÁT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH 1.1 Khái niệm tư tưởng


Trong thuật ngữ “tư tưởng Hồ Chí Minh”, khái niệm “tư tưởng” không

phải là ý thức tư tưởng của một cá nhân, một cộng đồng mà có nghĩa là một hệ

thống những quan điểm, quan niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền

tảng triết học nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một

dân tộc, được hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt

động thực tiễn, cải tạo hiện thực.

1.2 Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh.

Dựa trên những định hướng cơ bản của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam, các nhà khoa học đã đưa ra đ

ịnh nghĩa: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả của sự vận dụng
sang tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê nin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
đồng thời là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người”. Tư tưởng Hồ Chí Minh bao
gồm: tư tưởng về vấn đề dân tộc; về chủ nghĩa vã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội; về Đảng Cộng Sản Việt Nam; về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết
quốc tế; về dân chủ, Nhà nước của dân, do dân, vì dân; về văn hóa, đạo đức,...

CHƯƠNG 2
CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.


2.1 Nhân tố khách quan.

Tư tưởng Hồ Chí Minh khơng phải là sản phẩm chủ quan, phản ánh tâm
lý, nguyện vọng của nhân dân Việt Nam đối với lãnh tụ kính u của mình. Tư
tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, ra đời do
yêu cầu khách quan và sự giải đáp những nhu cầu bức thiết do cách mạng đặt ra
từ đầu thế kỷ XX đến nay. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành dưới tác
động, ảnh hưởng của những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể của dân tộc và thời
đại mà Ngừơi đã sống và hoạt đơng. Thiên tài của Hồ Chí Minh là ở chỗ Người
đã nắm bắt chính xác xu hướng phát triển của thời đại để tìm ra con đ ường
cách mạng đúng đắn cho dân tộc mình.

2.1.1 Bối cảnh xuất hiện tư tưởng Hồ Chí Minh.

a. Tình hình thế giới.

Lúc này Chủ nghĩa tư bản đang chuyển dần từ giai đoạn cạnh tranh tự do
sang gia đoạn độc quyền đã xác lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi
toàn thế giới. Điền hình là đế quốc Anh, Nga, Pháp, Đức, Mỹ, Nhật đã chiếm
một khu vực thuộc địa rộng lớn. Riêng thuộc địa của Pháp là 10,6 triệu Km2
với số dân là 55,5 triệu trong khi diện tích nước Pháp mới là 0,5 triệu Km2 và
dân số 39,6 triệu người. Các nước đế quốc đều duy trì các chế độ bóc lột dã
man đối với các thuộc địa do vậy đã gây ra sự căm phẫn sâu sắc trong lòng
người dân thuộc địa, chính vì thế mà chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù
chung của các dân tộc thuộc địa.
Song song với việc khai thác thuộc địa, các nước đế quốc đã tạo cho các dân tộc
thuộc địa những phương tiện và phương pháp để tự giải phóng. Phong trào đấu
tranh của công nhân diễn ra sôi nổi trên tồn thế giới, đỉnh cao của phong trào
này chính là sự thắng lợi của Cách mạng tháng mười Nga 1917 đã thức tỉnh các

dân tộc thuộc địa. Các nước thuộc địa đã nhận thức đươc rằng, đế quốc là có thể
đánh thắng được và phải làm cách mạng để chống đế quốc, giải phóng dân tộc
mình. Trong khi phong trào giải phóng dân tộc đang diễn ra mạng mẽ tại các
thuộc địa thì phong trào cơng nhân cũng diễn ra tại các nước đế quốc. Hai

phong trào này có mối quan hệ mật thiết với nhau vì có cùng chung một kẻ thù
đó là chủ nghĩa đế quốc.

Hồ Chí Minh bước vào vũ đài chính trị khi chủ nghĩa tư bản tự do cạnh
tranh đã bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Năm 1912, Hốp-xơn (người
Anh) đã mô tả tường tận đặc điểm kinh tế - chính trị của chủ nghĩa đế quốc.
Lênin dựa trên quan điểm của Hốp-xơn đưa ra định nghĩa nói về bản chất của
chủ nghĩa đế quốc gắn liền đặc điểm kinh tế là các nước lớn xâm chiếm thuộc
địa và chia nhau xong đất đai thế giới. Đây là đặc điểm liên quan trực tiếp đến
việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh sau này. Theo Lênin, thế giới phân chia
đa số (70%) các dân tộc bị áp bức, số ít (30%) các dân tộc đi áp bức. Đặc điểm
chung là diện tích và dân số các thuộc địa lớn gấp nhiều lần so với diện tích và
dân số các nước chính quốc.
Đây là tư tưởng cơ bản của Quốc tế cộng sản và là cơ sở để chỉ đạo cách mạng
thế giới. Tại Đại hội V quốc tế cộng sản (1924) Hồ Chí Minh đã đưa ra con số
đầy thuyết phục như: thuộc địa của Anh lớn gấp 252 lần diện tích nước Anh,
dân số thuộc địa Anh lớn gấp 8,5 lần dân số nước Anh.

Bên cạnh mâu thuẫn vốn có là mâu thuẫn giữa Tư sản và Vô sản, khi chủ
nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển sang độc quyền hình thành hệ thống thuộc
địa làm nảy sinh mâu thuẫn mới là mâu thuẫn giữa các nước thuộc địa và các
nước Chủ nghĩa Đế quốc, phong trào giải phóng dân tộc dâng lên mạnh mẽ
nhưng chưa ở đâu giành được thắng lợi. Chủ nghĩa Mác-Lênin phát triển m ạnh
mẽ, sâu rộng, thâm nhập vào phong trào cách mạng thế giới, trở thành hệ tư
tưởng tiên tiến của thời đại. Chủ Nghĩa Tư bản phát triển không đều, một số

nước tư bản gây chiến tranh chia lại thuộc địa làm đại chiến Thế giới 2 nổ ra,
Chủ Nghĩa Đế Quốc suy yếu, tạo điều kiện thuận lợi cho Cách Mạng Tháng 10
nổ ra và thành công, mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ Chủ Nghĩa Tư Bản
lên Chủ Nghĩa Xã Hội, làm phát sinh mâu thuẫn mới giữa Chủ Nghĩa Tư Bản
và Chủ Nghĩa Xã hội. Năm 1917, Cách mạng tháng mười Nga thắng lợi mở ra
thời đại mới- thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Sự
xuất hiện của Quốc tế Cộng sản làm nảy sinh mâu thuẫn thời đại giữa CNXH
với CNTB. Quốc tế Cộng sản là trung tâm tập hợp lực lượng cách mạng và chỉ
đạo cách mạng thế giới. Sự xuất hiện chủ nghĩa Lênin có vai trị quan trọng đối
với sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và tạo tiền đề bỏ qua CNTB lên

CNXH ở Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành dần dần từ cảm
tính đến lý tính nhằm tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Việc
xuất hiện tư tưởng Hồ Chí Minh là nhu cầu tất yếu khách quan của cách mạng
Việt Nam và do lịch sử của cách mạng Việt Nam quy định.

b. Tình hình Việt Nam
- Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Xã hội Việt Nam trước khi Pháp xâm lược là xã hội phong kiến độc lập,
nền nơng nghiệp lạc hậu, trì trệ. Chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành chính sách
đối nội, đối ngoại bảo thủ, phản động... không mở ra khả năng cho Việt Nam cơ
hội tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới. Vì vậy, đã không phát huy
được những thế mạnh của dân tộc và đất nước, không tạo ra tiềm lực vật chất và
tinh thần đủ sức bảo vệ Tổ quốc, chống lại âm mưu xâm lược của chủ nghĩa thực
dân phương Tây. Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858) và hiệp định
Patơnốt (1884) được ký kết, xã hội Việt Nam bước sang giai đoạn mới và trở
thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Trong lòng xã hội thuộc địa, mâu thuẫn
mới bao trùm lên mâu thuẫn cũ, nó khơng thủ tiêu mâu thuẫn cũ mà là cơ sở để
duy trì mâu thuẫn cũ, làm cho xã hội Việt Nam càng thêm đen tối. Các phong


trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ, lan rộng ra cả nước... lãnh đạo họ
là các sĩ phu văn thân mang ý thức hệ phong kiến nhưng đều không thành công:
như Trương Định, Đồ Chiểu, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực (Nam Bộ);
Tơn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân
Ôn (Trung Bộ); Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quy Binh, Hoàng Hoa Thám
(Bắc Bộ).

Sang đầu thế kỷ 20, xã hội Việt Nam có sự phân hóa sâu sắc: giai cấp
công nhân, tư sản dân tộc, tiểu tư sản ra đời, các cuộc cải cách dân chủ tư sản ở
Trung Quốc của Khang Hiểu Vi, La Khải Siêu (dưới hình thức Tân Thư, Tân
Sinh) tác động vào Việt Nam làm cho phong trào yêu nước chống Pháp chuyển
dần sang xu hướng dân chủ tư sản gắn với phong trào Đông Du, Việt Nam
Quang Phục Hội của Phan Bội Châu, Đông Kinh Nghĩa Thục của Lương Văn
Can, Nguyễn Quyền, Duy Tân của Phan Chu Trinh,. do các sĩ phu phong kiến
lãnh đạo. Cuối thể kỷ XIX, triều đình nhà Nguyễn đã thi hành một số chính
sách đối nội, đối ngoại phản động: tăng cường đàn áp bóc lột ở bên trong và
thực hiện bế quan tỏa cảng đối với bên ngồi (2). Chính điều này đã khiến nước
ta lúc bấy giờ bị cô lập với nền văn minh tiên tiến của phương Tây mà đặc biệt

là thị trường tư bản Tây Âu. Vì thế mặc dù có được một vị trí thuận lợi nhất là
đường biển nhưng nước ta vẫn là một nước cùng kiệt nàn, lạc hậu, không đủ
tiềm năng về vật chất cũng như tinh thần để đấu chọi với sự “nhịm ngó” của
Phương Tây. Về sau, để bảo vệ lợi ích của hoàng tộc, triều Nguyễn đã từng
bước khuất phục thực dân Pháp, thừa nhận nền bảo hộ của thực dân Pháp trên
toàn cõi Việt Nam

Trong hồn cảnh triều đình hèn nhược như vậy thì trong nhân dân đã nổi
lên những cuộc khởi nghĩa vũ trang anh dũng. Điển hình là phong trào vũ trang
Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Cơng Tráng (1881-1887), Bãi Sậy của

Nguyễn Thiện Thuật (1885-1895), Hương Khê của Phan Đình Phùng (1885-
1895), cũng trong thời gian này nổ ra cuộc khởi nghĩa nơng dân n Thế do
Hồng Hoa Thám kéo dài đến năm 1913.. .Tuy các cuộc khởi nghĩa này đã thể
hiện được tinh thần yêu nước và chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta nhưng
đều thất bại do sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến lạc hậu không đấu chọi
được với những thế lực hiện đại, tiên tiến.

Bước sang đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp bắt tay vào cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ nhất, Việt Nam có nhiều biến chuyển to lớn từ một nước phong

kiến sang nước thuộc địa nửa phong kiến. Trong xã hội, xuất hiện thêm giai cấp
mới là công nhân, tiểu tư sản và tư sản bên cạnh hai giai cấp phong kiến cũ là
nông dân và địa chủ. Trong thời gian này, các phong trào giải phóng dân tộc
cũng có chuyền dần sang xu hướng dân chủ tư sản. Điển hình các sĩ phu yêu
nước như Phan Bội Châu, Phan Châu đã có những nỗ lực tìm ra các phương
pháp mới xong đều đi vào các ngõ cụt. Như Hồ Chí Minh từng nhận xét cụ Phan
Bội Châu muốn dựa vào sức Nhật để đánh Pháp như vậy chẳng khác nào “đưa
hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Cụ Phan Chu Trinh với chủ trương yêu cầu
người Pháp thực hiện cải lương, điều đó chẳng khác nào xin giặc rủ lòng thương.
Nhưng do bất cập với xu thế lịch sử nên đều thất bại. Tình hình đen tối như
khơng có đường ra.Chứng kiến hoàn cảnh đất nước lầm than, nhân dân cơ cực,
phong trào yêu nước còn đang loay hoay, khủng hoảng Hồ Chí Minh đã nhận ra
rằng cần tìm một con đường mới. Người đã từng nói với một người bạn học thủa
thiếu thời như thế này “tui muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác.
Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tui sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”Chính
lúc đó Nguyễn Ái Quốc đã xuất hiện Người đã sớm tìm ra nguyên nhân thất bại
của các phong trào giải phóng dân tộc là: các phong trào giải phóng dân tộc đều

không gắn với tiến bộ xã hội. Nguyễn Ái Quốc nảy ý định ra đi tìm đường cứu
nước - con đường đưa Nguyễn Ái Quốc đến với tư tưởng Hồ Chí Minh: độc lập

dân tộc gắn liền với CNXH, giải phóng dân tộc phải đi theo con đường mới. Sự
xuất hiện tư tưởng Hồ Chí Minh là một tất yếu, đáp ứng nhu cầu lịch sử của cách
mạng Việt Nam.

Quê hương và gia đình Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà Nho
yêu nước, gần gũi với nhân dân, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của
Người là một nhà nho cấp tiến, có lịng u nước, thương dân sâu sắc... Ông chủ
trương lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi cải cách về chính trị, xã hội của mình. Hồ
Chí Minh đã tiếp thu một cách sâu sắc tư tưởng thương dân của người cha. Sau
này gặp trào lưu tư tưởng mới của thời đại đã được nâng lên thành tư tưởng cốt
lõi trong đường lối chính trị của Người “lấy dân làm gốc”. Bà Hoàng Thị Loan
là một người phụ nữ Việt Nam giàu lòng nhân hậu, chịu thương chịu khó. Các
anh và chị của Người cũng tham gia các hoạt động yêu nước chống Pháp, bị bắt,
giam cầm và lưu đầy nhiều năm. Bên cạnh đó Nghệ Tĩnh, nơi Người sinh ra
cũng là mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm và cũng là
quê hương của nhiều anh hùng nổi tiếng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm

(Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung.); các lãnh tụ yêu nước cận đại
(Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu,.) và biết bao con người ưu tú khác của dân
tộc Việt Nam. Hơn nữa ngay từ nhỏ Người đã đau xót chứng kiến cuộc sống
nghèo khổ, bị bóc lột đến cùng cực của đồng bào mình ngay trên mảnh đất quê
hương. Những năm ở Huế, Người đã tận mắt nhìn thấy tội ác của bọn thực dân
và thái độ ươn hèn, bạc nhược của bọn quan lại Nam triều. Tất cả những điều đó
đã thơi thúc Người phải sớm ra đi tìm một con đường mới để cứu dân, cứu
nước. Quê hương, gia đình, truyền thống dân tộc,. đã chuẩn bị cho Người về
nhiều mặt, nhưng sẽ không thể thành công nếu không đến được với trào lưu mới
của thời đại.

2.1.2 Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
a. Giá trị truyền thống dân tộc.

Dân tộc Việt Nam trong hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước
đã tạo lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những
truyền thống tốt đẹp, cao quý.
- Trước hết, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước
và giữ nước. Từ văn hóa dân gian đến văn hóa bác học, từ nhân vật truyền

thuyết đến các tên tuổi sáng ngời trong lịch sử: Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Trần
Hưng Đạo, Nguyễn Trãi,. đều đã phản ánh chân lý đó một cách hùng hồn, chủ
nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu chảy suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam. Mọi học
thuyết đạo đức, tôn giáo từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam đều được tiếp
nhận, khúc xạ qua lăng kính của tư tưởng yêu nước đó. Đó là chuẩn mực cao
nhất, đứng đầu bảng giá trị văn hóa và tinh thần Việt Nam . Chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam được hun đúc nên bởi cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của
nhân dân ta, của dân tộc ta. Tinh thần yêu nước đã trở thành đạo lý, triết lý sống,
niềm tự hào của con người Việt Nam. Bởi vậy, ở mỗi người dân Việt Nam gắn
mình với vận mệnh của Tổ quốc, của dân tộc thì chủ nghĩa yêu nước ấy lại nhân
sức mạnh của bản thân, biến thành một sức mạnh thúc đẩy mình vượt qua mọi
khó khăn, nguy hiểm, mọi thử thách gian nan.

Chính từ thực tiễn, Hồ Chí Minh đã đúc kết chân lý ấy: “Dân ta có một
lịng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến
nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một
làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó
nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”. Chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu

nước Việt Nam, của chủ nghĩa yêu nước mang tính cộng đồng ấy, đã nhân sức
mạnh của bản thân Nguyễn Ái Quốc để Người có thể vượt lên mọi khó khăn,
thử thách, vươn lên hoàn thành sứ mệnh mà lịch sử giao phó. Chính sức mạnh
của chủ nghĩa u nước Việt Nam trở thành động lực tư t ưởng, tình cảm chi
phối mọi suy nghĩ, hành động trong suốt cuộc đời Hồ Chí Minh - Nguyễn ái

Quốc, là cơ sở dẫn Người đến với
chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu lý luận cách mạng và khoa học đó, để thực hiện sự
nghiệp giải phóng dân tộc, hồi bão của các thế hệ cách mạng Việt Nam. “Lúc đầu,
chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo
Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”. Và khi Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh tìm được
con đường cứu nước đúng đắn thì chủ nghĩa yêu nước Việt Nam lại được nâng lên
một tầm cao mới: giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống cần cù lao động, anh dũng
chiến đấu trong dựng nước và giữ nước, truyền thống đồn kết, sống có tình, có
nghĩa, nhân ái Việt Nam. Trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
thì chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân tộc. Chủ nghĩa yêu
nước đã trở thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo lý làm người, niềm tự hào


×