MỤC LỤC
Phần Mở đầu............................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................2
2. Lịch sử nghiên cứu.........................................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.....................................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................5
CHƯƠNG 1:............................................................................................................6
1. Khái niệm........................................................................................................6
1.1. Đảng chính trị..........................................................................................6
1.2. Chức năng của đảng chính trị...................................................................7
2. Phân loại đảng chính trị...................................................................................9
3. Đảng lãnh đạo và đảng cầm quyền.................................................................9
CHƯƠNG 2:..........................................................................................................11
2.1 Vị trí của Đảng cộng sản Việt Nam trong các bản Hiến pháp.................11
2.2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đời sống chính trị..............16
2.3 Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.........................22
2.3. Mối quan hệ mật thiết giữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
xã hội....................................................................................................................23
CHƯƠNG 3:..........................................................................................................24
3.1 Đổi mới việc ra nghị quyết, xác định đúng và trúng nhiệm vụ................25
3.2 Đổi mới mạnh mẽ công tác tư tưởng, tuyên truyền, phổ biến,.................26
1
3.3 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ quan............................................27
PHẦN KẾT LUẬN................................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................28
2
Phần Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử đã cho thấy, trong q trình đấu tranh chống ách đơ hộ của thực dân
Pháp, khơng chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng chính trị duy nhất có mục
tiêu giải phóng đất nước khỏi ách thống trị của ngoại bang. Sau khi liên quân
Pháp - Tây Ban Nha nổ súng xâm lược Việt Nam (9-1858), các cuộc khởi nghĩa
chống thực dân Pháp theo tiếng gọi “Cần Vương” do các văn thân, sĩ phu lãnh
đạo đã nổ ra mạnh mẽ nhưng tất cả đều bị đàn áp đẫm máu và lần lượt tan rã.
Thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê (Hà Tĩnh) do Phan Đình Phùng lãnh
đạo (1895) đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của giai cấp phong kiến Việt Nam.
Sau khi phong trào Cần Vương thất bại, những năm đầu thế kỷ XX, phong
trào yêu nước chống xâm lược Pháp lại liên tục nổ ra như: Phong trào Đông Du
(1905); Việt Nam Quang phục Hội (1912) do Phan Bội Châu khởi xướng;
Phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh phát động (1906-1908); Phong trào
Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) do Lương Văn Can, Nguyễn Quyền và nhiều
nhân sĩ yêu nước lãnh đạo. Tất cả các phong trào đều lần lượt thất bại bởi sự
khủng bố khốc liệt của kẻ thù.
Trải qua một chặng đường dài, Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng của giai
cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, thành lập ngày 3-2-1930. Ngay từ khi ra
đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra mục tiêu, đường lối, chiến lược cách
mạng đúng đắn, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử dân tộc và thời đại, cho nên Đảng
được thừa nhận quyền lãnh đạo cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam đại diện
cho quyền lợi của cả dân tộc, thể hiện được năng lực lãnh đạo và uy tín chính
trị, có nhiều đảng viên của Đảng là những tấm gương, những tượng đài bất tử
trong lòng nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đi từ thắng lợi
3
này đến thắng lợi khác. Như vậy, chỉ có một đảng cách mạng chân chính, có
đường lối cách mạng đúng đắn, thực sự có bản lĩnh, có trí tuệ, phấn đấu vì mục
tiêu “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”, Đảng đó mới xứng đáng là Đảng
duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Có thể thấy rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam chúng ta đã
có cuộc sống độc lập, dân chủ. Và hiện nay đang đòi hỏi phải tiếp tục tập trung
nghiên cứu về vị trí, vai trị lãnh đạo của Đảng trong đời sống chính trị. Chính
vì những lý do trên, tơi lựa chọn đề tài: “Vị trí, vai trị của Đảng cộng sản Việt
Nam trong đời sống chính trị” để nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu
Doãn Hùng, Nguyễn Ngọc Hịa, Đồn Minh Huấn (2006), Đảng cộng sản
Việt Nam - Những tìm tịi và đổi mới trên con đường lên chủ nghĩa xã hội
(1986 - 2006), NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
PGS, TS Đinh Xuân Lý - TS Đoàn Minh Huấn (Đồng chủ biên) (2008), Một
số chuyên đề Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam( sách tham
khảo phục vụ giảng dạy và học tập môn đường lối cách mạng của Đảng cộng
sản Việt Nam, NXB lý luận chính trị, Hà Nội.
Đinh Xuân Lý (2009), Đảng lãnh đạo phát triển xã hội và quản lý phát triển
xã hội thời kỳ đổi mới - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXBCTQG, Hà
Nội.
PGS. TS Đinh Xuân Lý (2011), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực
hiện chính sách xã hội trong 25 năm đổi mới ( 1986- 2011), NXBĐHQG, Hà
Nội.
4
Cuốn sách của tác giả Phùng Hữu Phú và cộng sự, “Đảng Cộng Sản Việt
Nam - trách nhiệm trước dân tộc”, NXB Chính trị Quốc gia, 2011. Gồm các bài
viết khẳng định quan điểm: Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm
quyền trong điều kiện chính trị - xã hội ở Việt Nam. Nêu lên vai trò lãnh đạo
của Đảng trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc cũng
như trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Phản bác lại luận điểm sai trái của thế lực
thù địch về vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nêu ra những đề
xuất về xây dựng Đảng.
Luận văn của tác giả Nguyễn Thị Tuyết “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
thực hiện chính sách xã hội (2001 - 2012), chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, 2012 đã nghiên cứu một cách
có hệ thống vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với việc thực
hiện một số chính sách xã hội trong những năm 2001- 2012. Góp phần khẳng
định năng lực lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, từ đó
khẳng định những thành tựu, chỉ ra những hạn chế trong quá trình lãnh đạo, chỉ
đạo thực tiễn. Rút ra những kinh nghiệm bước đầu trong q trình thực hiện
một số chính sách xã hội, góp phần bổ sung, nghiên cứu đường lối đổi mới của
Đảng trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tiếp tục thực hiện vị
trí, vai trị của Đảng cộng sản Việt Nam trong đời sống chính trị hiện nay. Đồng
thời đề xuất xuất một số phương hướng giải pháp để từng bước Đảng Cộng sản
Việt Nam đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, đời sống
chính trị, xã hội trong điều kiện mới.
5
3.2 Nhiệm vụ
Để có thể đạt được mục tiêu trên, các tác giả của đề tài đã thực hiện những
nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu như:
- Trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của vị trí, vai trị lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam;
- Làm rõ thực trạng vị trí, vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong đời sống chính trị hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước, đời sống chính trị, xã hội hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về vị trí, vai
trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong đời sống chính trị.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Với điều kiện cụ thể khi triển khai, đề tài sẽ tập trung nghiên cứu lý luận
chung về vị trí, vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong đời sống chính
trị..
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Khi nghiên cứu đề tài, các tác giả dựa trên các nguyên lý,
phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử để
phân tích những khía cạnh cơ bản về vị trí, vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam
trong đời sống.
6
- Phương pháp chung: Trong quá trình nghiên cứu, các tác giả sử dụng phƣơng
pháp nghiên cứu chung của nhiều khoa học nhƣ: phƣơng pháp lôgic, lịch sử, kết
hợp lôgic và lịch sử, quy nạp và diễn dịch, phân tích và tổng hợp...
- Phương pháp cụ thể: Các tác giả sử dụng phƣơng pháp thu thập, nghiên cứu,
phân tích, sắp xếp các tài liệu và kết quả của các cơng trình nghiên cứu đã đƣợc
cơng bố để làm sáng tỏ những vấn đề cần nghiên cứu.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
LÀM RÕ CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1. Khái niệm đảng chính trị, chức năng của đảng chính trị, phân loại
đảng chính trị
1.1. Đảng chính trị
Từ khi xuất hiện đến nay đã có nhiều quan điểm khác nhau về Đảng chính
trị Nhà xã hội học nổi tiếng M.Weber định nghĩa: Đảng là một hiệp hội theo đuổi
một mục tiêu nhất định: mục tiêu vật chất hoặc tinh thần; mục tiêu chung hoặc mục
tiêu cá nhân; hoặc có thể tất cả các loại mục tiêu đó.
Một số học giả nêu lên hai tiêu chí xác định đảng gồm: tiêu chí xã hội (đảng
của giai cấp nào) và tiêu chí ý thức hệ (đảng theo tư tưởng chính trị gì). Theo cách
hiểu như vậy, đảng được xem là “tập hợp những người cùng chung sức phục vụ lợi
ích quốc gia trên cơ sở một nguyên tắc mà tất cả chấp nhận"; hoặc như “tập đồn
những người cùng chính kiến mà họ sử dụng đảng nhằm bảo đảm hiệu quả tác
động thật sự vào các cơng việc chính trị" (Burke, Jorge Xifra) Chủ nghĩa Mác -
Lênin luôn luôn xem đảng chính trị, nhất là đảng của giai cấp vơ sản, là đội tiền
phong của một giai cấp, được tổ chức trên nền tảng của một hệ tư tưởng nhất định,
7
hoạt động theo điều lệ, cương lĩnh, đường lối và chiến đấu vì các mục tiêu, lý
tưởng xác định.
Từ điển bách khoa triết học (Liên Xơ) xác định “đảng chính trị là tổ chức
chính trị thể hiện những lợi ích của một giai cấp hay tầng lớp trong xã hội, liên kết
những đại diện tích cực nhất của giai cấp hay tầng lớp ấy, lãnh đạo họ đạt tới
những mục đích và lý tưởng nhất định"
Đại từ điển tiếng Việt định nghĩa “Đảng là một nhóm người kết lại với nhau
để hoạt động với những mục đích nhất định; là tổ chức chính trị đại diện và đấu
tranh vì quyền lợi của một giai cấp, một tầng lớp xã hội". Từ điển tiếng Việt giải
thích: đảng là nhóm người kết hợp với nhau để hoạt động đối lập với nhóm người
khác chính kiến với minh”.
Từ các điều trình bảy nêu trên, chúng ta có thể nêu ra quan niệm sau đây về
đảng chính trị: Đảng chính trị là một đội ngũ có tổ chức bao gồm những người đại
diện giác ngộ nhất, tích cực nhất của một giai cấp, một tầng lớp xã hội có chung lợi
ích, mục tiêu, lý tưởng. Với tích cách là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp ở
trình độ cao, đảng chính trị là tổ chức, xét đến cùng, của một giai cấp hay tầng lớp
xã hội nhất định; đại diện trực tiếp và chủ yếu lợi ích của giai cấp hay tầng lớp xã
hội đó.
1.2. Chức năng của đảng chính trị
Đảng chính trị ln ln là một tổ chức có bộ máy chặt chẽ bao gồm các cơ
quan ban hành đường lối, cương lĩnh, nghị quyết như đại hội, hội nghị; các cơ quan
điều hành như ban chấp hành trung ương, bộ chính trị, ban bí thư; các cơ quan
quyền lực cơ sở như đảng uỷ các cấp.
Mỗi đảng chính trị thường bao gồm đội ngũ đảng viên khác nhau về nhiều
mặt (tuổi tác, nghề nghiệp, tôn giáo, chủng tộc, giai cấp, quốc tịch...). Bởi vậy,
8
đảng cần có điều lệ quy định tiêu chuẩn kết nạp đảng viên; đồng thời, chia đảng
viên thành mấy loại sau đây:
- Đội ngũ đảng viên là lãnh tụ hoặc cán bộ lãnh đạo đảng
-Đội ngũ đảng viên tích cực, thường trực (militante)
- Đội ngũ đảng viên ủng hộ, bỏ phiếu cho đảng, hoặc có cảm tình với đảng.
Sự tồn tại và phát triển của các đảng chính trị luôn luôn gắn liền với cuộc đấu tranh
của một giai cấp, một tầng lớp xã hội mà biểu hiện tiêu biểu và rõ rệt nhất là cuộc
đấu tranh để giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Các đảng chính trị được
các giai cấp, tầng lớp xã hội sáng lập nên và sử dụng như công cụ đấu tranh giành
quyền lực. Khi nắm được quyền lực nhà nước, các đảng chính trị lại sử dụng nó
như cơng cụ thực hiện mục tiêu, lý tưởng của mình. Tuỳ theo hồn cảnh cụ thể và
tương quan lực lượng trong đời sống chính trị quốc gia, mỗi đảng chính trị thực thi
các chức năng phong phú, đa dạng khác nhau. Tuy nhiên, có thể khái quát các chức
năng phổ biến của đảng chính trị gồm:
1). Đại diện quyền lợi cho một giai cấp hoặc tầng lớp xã hội.
2). Định hướng về tư tưởng và chính trị cho giai cấp hoặc tầng lớp xã hội đó
trong cuộc đấu tranh chính trị, đấu tranh giai cấp.
3).Tổ chức, lãnh đạo giai cấp hoặc tầng lớp xã hội đấu tranh thực hiện lợi
ích, mục tiêu, lý tưởng của mình.
4). Thuyết phục, động viên, tập hợp các lực lượng xã hội khác ủng hộ đảng,
hoặc hành động một cách có lợi cho đảng.
5). Tham gia các cơ cấu quyền lực và quá trình hoạch định chính sách bằng
chủ trương, đường lối, quan điểm... của đảng và thông qua đội ngũ đảng viên trong
các cơ cấu quyền lực.
9
6). Đào tạo, huấn luyện nhân sự cho các cơ cấu quyền lực.
7). Thực hiện giám sát, phản biện đối với việc thực thi quyền lực chính trị
trong nước và quốc tế.
2. Phân loại đảng chính trị
Các đảng chính trị được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau. Căn cứ vào
cơ sở giai cấp, có đảng tư sản, đảng vô sản (công nhân), đảng nông dân..
- Căn cứ vào ý thức hệ, có đảng tư sản, đảng cộng sản, đảng dân chủ - xã
hội...
- Căn cứ vào đường lối chính trị, các đảng được chia thành đảng cánh tả và
đảng cánh hữu; đảng bảo thủ và đảng tự do; đảng trung tả và đảng trung hữu; đảng
cực tả và đảng cực hữu; ngoài ra, cịn có đảng phát xít (Đảng Quốc xã), đảng phản
động (Đảng 3 K), đảng hoạt động vì mơi trường (Đảng Xanh)...
- Căn cứ vào mối quan hệ với quyền lực nhà nước, có đảng cầm quyền (lãnh
đạo), các đảng tham chính, các đảng liên minh (với đảng cầm quyền) các đảng trên
thế giới.
3. Đảng lãnh đạo và đảng cầm quyền
Đảng lãnh đạo là đảng có vai trị, vị trí tiền phong trong cuộc đấu tranh
chính trị, đấu tranh giai cấp; tập hợp, tổ chức, dẫn dắt và định hướng các lực lượng
chính trị - xã hội khác trong cuộc đấu tranh vì các mục tiêu đã được xác định trong
cương lĩnh. Đảng có thể thực hiện sứ mệnh lãnh đạo trên nhiều quy mơ (tồn quốc,
từng vùng, từng lĩnh vực, toàn xã hội hoặc đối với một số lực lượng xã hội...) và ở
các hoàn cảnh khác nhau (chưa có chính quyền, có chính quyền, đảng đối lập, đảng
tham chính...). Nội dung và phương thức lãnh đạo của đảng phải được xác định
phù hợp với từng hồn cảnh và quy mơ hoạt động cụ thể.
10
Trong hoàn cảnh có chính quyền, đảng lãnh đạo trở thành đảng cầm quyền
tức là đảng giành được quyền lực nhà nước (quốc hội, tổng thống, thủ tướng...). Tư
cách cầm quyền có thể là tuyệt đối khi một đảng trở thành đảng duy nhất cầm
quyền; có thể là sự cầm quyền tồn diện khi một đảng giành thắng lợi ở cả bầu cử
quốc hội và bầu cử tổng thống; có thể là sự cầm quyền trên một nhánh quyền lực
cụ thể (quốc hội hoặc tổng thống và chính phủ). Đồng nghĩa với khái niệm đảng
cầm quyền, có các khái niệm: đảng tại quyền, đảng thống trị ...
Đảng cầm quyền là đảng có quyền lực trên thực tế, quyền lực ấy thể hiện
trực tiếp ở vai trò lãnh đạo của đảng đối với bộ máy quyền lực nhà nước và nhiều
thiết chế quyền lực chính trị khác trong xã hội. Đảng cầm quyền là đảng có quyền
lực thống trị xã hội được thể chế hoá trong hiến pháp và các đạo luật cơ bản khác
của quốc gia. Đảng cầm quyền là đảng có đội ngũ đảng viên đơng đảo nắm giữ các
vị trí cao trong bộ máy quyền lực nhà nước và bộ máy quản lý xã hội; có điều kiện
vật chất thuận lợi cho hoạt động của toàn đảng.
Hoạt động lãnh đạo và hoạt động cầm quyền của đảng chính trị vừa có nhiều
điểm chung, thống nhất, đan xen; vừa không đồng nhất với nhau. Lãnh đạo và cầm
quyền đều có điểm chung là tác động, gây ảnh hướng đến các lực lượng chính trị
xã hội khác nhằm hướng tới thực hiện mục tiêu do mình vạch ra; đều phải tuyệt đối
tuân thủ cương lĩnh, quan điểm, lập trường, đường lối của đảng; đều phải được tiến
hành trong khuôn khổ pháp luật...Khái niệm lãnh đạo có nội hàm rộng lớn hơn;
còn khái niệm cầm quyền chỉ chủ yếu thể hiện vai trò lãnh đạo của đảng đối với bộ
máy quyền lực nhà nước và chỉ tồn tại khi đảng nắm được chính quyền. Hoạt động
lãnh đạo được thực hiện thông qua các phương thức chủ yếu là: sự định hướng của
cương lĩnh, điều lệ, nghị quyết; sự hoạt động của đội ngũ đảng viên trong các thiết
chế quyền lực; tính thuyết phục của cơng tác tư tưởng và tính nêu gương của đảng
viên đối với toàn xã hội. Hoạt động cầm quyền được thực thi chủ yếu thông qua
11
pháp luật, chính sách, cơ chế đã được thể chế hố và có tính thi hành bắt buộc đối
với các thành viên trong xã hội.
CHƯƠNG 2:
VỊ TRÍ, VAI TRỊ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ
Đảng Cộng sản Việt Nam - chính đảng của giai cấp cơng nhân Việt Nam ra
đời trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Ngay từ
đầu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm đứng ra nhận sứ mệnh lịch sử to lớn mà giai
cấp và dân tộc giao phó: Lãnh đạo các tầng lớp nhân dân Việt Nam đấu tranh
chống thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc, dân chủ cho nhân dân. Trước
sự bế tắc về lý luận cũng như đường lối của các lực lượng cách mạng Việt Nam
trong những năm 20 của thế kỷ XX, sự thất bại không tránh khỏi của các phong
trào chống Pháp do các sĩ phu yêu nước và các nhà cách mạng có xu hướng tư sản
lúc đó, dân tộc ta đã hướng đến con đường cứu nước mới, khác về chất, con đường
mà các thế hệ người Việt Nam yêu nước đã đi. Chính lúc dân tộc Việt Nam cần
một đường lối chính trị đúng đắn, một đội tiên phong dẫn đường, một bộ tham
mưu lãnh đạo thì Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đáp ứng kịp thời và đầy đủ những đòi hỏi bức thiết của lịch sử.
2.1 Vị trí của Đảng cộng sản Việt Nam trong các bản Hiến pháp
Đảng ta ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi xuất hiện trên vũ đài chính trị,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã tỏ rõ là một đảng cách mạng chân chính nhất, có sức
hội tụ lớn nhất mọi sức mạnh của dân tộc, của giai cấp, sớm trở thành đội tiên
phong của giai cấp và của dân tộc trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến.
12
Có thể nói, sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam là do thời đại, do giai
cấp và dân tộc quy định.
Trong tác phẩm "Đường Cách mệnh" Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra có ba
thứ cách mệnh là: Tư bản cách mệnh, dân tộc cách mệnh và giai cấp cách mệnh.
Ba cuộc cách mạng này về tính chất, mục tiêu, nội dung và phương pháp tiến hành
có khác nhau. Ở các nước dân tộc chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, ba cuộc cách
mạng này không tiến hành đồng thời; mỗi cuộc cách mạng đều do một giai cấp
cách mạng lãnh đạo (như: Cách mạng tư sản do giai cấp tư sản lãnh đạo đánh đổ
chế độ phong kiến, quý tộc; cách mạng vô sản do giai cấp công nhân lãnh đạo đánh
đổ chế độ tư bản). Ở Việt Nam, do tính quy định của lịch sử, cả ba cuộc cách mạng
đó đều thuộc phạm trù cách mạng vơ sản. Sự kiện Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa
Mác-Lênin đã đánh dấu bước ngoặt trong quá trình phát triển tư tưởng và cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người: Chủ nghĩa yêu nước chân chính đã bắt gặp chủ
nghĩa quốc tế vơ sản. Hồ Chí Minh khẳng định: "Muốn cứu nước giải phóng dân
tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản". Để thực hiện
được mục tiêu đó, Hồ Chí Minh khẳng định: "Trước hết phải có Đảng Cách mệnh,
để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với các dân tộc bị áp
bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành cơng, cũng
như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy".
Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trị lãnh đạo nhân dân Việt Nam cùng một
lúc vừa làm tư sản cách mạng, vừa làm dân tộc cách mạng và làm giai cấp cách
mạng. Đây là đặc điểm lớn nhất của cách mạng vô sản ở Việt Nam do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo và cũng là một đặc điểm của sứ mệnh lịch sử của Đảng đối
với giai cấp và dân tộc Việt Nam.
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh
nêu rõ trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Lời
13
kêu gọi của Đảng khi Đảng mới thành lập, đó là: "Chủ trương làm tư sản dân
quyền cách mạng (révolution démocratique bourgeoise) và thổ địa cách mạng
(révolution agratire) để đi tới xã hội cộng sản";..." Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp và bọn phong kiến";... Làm cho nước Việt Nam được độc lập;... Giải phóng
cơng nhân và nơng dân thốt khỏi ách tư bản; Mở mang công nghiệp và nông
nghiệp;... Đem lại mọi quyền lợi tự do cho nhân dân".
Trải qua gần 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng
bước thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. 15 năm sau khi thành lập,
Đảng ta đã lãnh đạo Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đánh đuổi đế
quốc, thực dân, lật đổ chế độ phong kiến, lập ra nhà nước công nông đầu tiên ở
Đông Nam châu Á; mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - kỷ
nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt
Nam, cả dân tộc Việt Nam đã nghe theo lời kêu gọi của Đảng, của Bác Hồ, lên
đường kháng chiến và cuối cùng đã giành được thắng lợi to lớn, đánh thắng đế
quốc xâm lược và lập lại hồ bình ở miền Bắc Việt Nam. Trong hoàn cảnh đất
nước tạm bị chia làm hai miền, Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành đồng
thời hai cuộc cách mạng: Cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam. Khi Mỹ đưa quân vào xâm lược ở miền Nam, tiến hành
chiến tranh cục bộ đánh phá các căn cứ cách mạng ở miền Nam và mở rộng chiến
tranh xâm lược ra miền Bắc (1964), Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân
dân hai miền "đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào", giải phóng hồn tồn miền
Nam, thống nhất Tổ quốc (1975), đưa cả nước đi lên CNXH.
Với thắng lợi vĩ đại của các cuộc cách mạng: Tháng Tám năm 1945, cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946 - 1954) và cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975) do Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là lãnh
tụ Hồ Chí Minh vĩ đại lãnh đạo, dân tộc Việt Nam trở thành một trong những dân
14
tộc đầu tiên làm cách mạng giải phóng dân tộc thành công ở một nước thuộc địa và
lệ thuộc; một trong những dân tộc đầu tiên đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ và chủ
nghĩa thực dân mới, mở đầu phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi,
châu Mỹ-La tinh.
Sau thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân năm 1975, đất nước
Việt Nam thống nhất, Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng XHCN,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước tình hình đất nước gặp nhiều khó khăn về kinh
tế, đời sống nhân dân cịn thiếu thốn, Đảng ta đã chủ động khởi xướng và lãnh đạo
thành công công cuộc đổi mới đất nước (1986). Những thành tựu to lớn trong 30
năm đổi mới trên các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, quốc phòng - an
ninh, quan hệ quốc tế... đã khẳng định tính đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Từ một đất nước bị tàn phá nặng nề bởi nhiều cuộc chiến tranh xâm
lược của chủ nghĩa đế quốc, bị các thế lực thù địch điên cuồng chống phá, bị bao
vây, cấm vận kinh tế, lại phải chịu nhiều tổn thất do thiên tai khắc nghiệt gây ra,
Việt Nam đã nhanh chóng khơi phục và phát triển kinh tế - xã hội; đời sống của
các tầng lớp nhân dân lao động không ngừng được cải thiện; chính trị ổn định; lịng
tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng được củng cố; vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế được nâng cao.
Với những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới đất nước, Việt Nam trở
thành một trong những nước đầu tiên tiến hành đổi mới thắng lợi theo định hướng
XHCN. Nhân dân, dân tộc Việt Nam có quyền tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam
- người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân. Từ thắng lợi của công
cuộc đổi mới đất nước, chúng ta có thể khẳng định một cách có cơ sở rằng, được
trang bị bằng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, được các tầng lớp
nhân dân ủng hộ, tin và đi theo, Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ,
khả năng lãnh đạo nhân dân Việt Nam không chỉ thắng lợi trong đấu tranh giành và
15
giữ chính quyền trong chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước, mà cả trong
xây dựng phát triển kinh tế, xây dựng đất nước theo mục tiêu: "Dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh".
Gần 90 năm thực hiện sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam, quãng
thời gian chưa dài nhưng những gì mà giai cấp, dân tộc đã thực hiện được quả là
phi thường. Nếu khơng phải là một đảng Mác xít-Lêninnít chân chính như Đảng
Cộng sản Việt Nam, tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, trung thành với lợi ích của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao động,
của dân tộc thì chưa hẳn đạt được nhiều kỳ tích đến như vậy.
Với tất cả sự khiêm tốn của người Cộng sản, có thể nói, Đảng Cộng sản Việt
Nam thật vĩ đại! Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng là lãnh tụ của giai cấp, của
dân tộc, xứng đáng là chính đảng cách mạng duy nhất được giai cấp, dân tộc trao
cho sứ mệnh lịch sử.
Điều 4 Hiến pháp năm 2013 chế định rõ:
- Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc,
lấy chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
- Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát
của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.
- Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật”.
16
Trong Hiến pháp năm 1946, mặc dù khơng có một điều khoản riêng quy
định về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và hệ thống chính trị nhưng thơng
qua chế định Chủ tịch nước, với vị trí và vai trị đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam và là vị Chủ tịch nước đầu tiên
của Việt Nam, các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng đã được tổ chức
thực hiện thắng lợi. Hiến pháp năm 1959 đã thể hiện quyền lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước và hệ thống chính trị trong Lời nói đầu. Hiến pháp năm 1980 đã thể
chế hóa vai trị lãnh đạo của Đảng trong Lời nói đầu, Điều 4 Hiến pháp và lần đầu
tiên thuật ngữ mới “Hiến pháp thể chế hóa đường lối của Đảng” được sử dụng.
Hiến pháp năm 1992, được sửa đổi, bổ sung năm 2001 tiếp tục ghi nhận ngắn gọn,
chặt chẽ và đầy đủ hơn vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và hệ thống
chính trị tại Điều 4.
Kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục
khẳng định sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội và đã có những bổ
sung, phát triển quan trọng: quy định đầy đủ hơn bản chất, vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân
tộc…, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (khoản 1 Điều 4); quy định rõ trách
nhiệm của Đảng đối với nhân dân, trước nhân dân: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn
bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu
trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình” (khoản 2 Điều 4);
đồng thời quy định: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” (khoản 3 Điều 4)
17
2.2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đời sống chính trị
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã
tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, xác
định đúng đắn đường lối cách mạng, đưa dân tộc bước vào kỷ nguyên mới của độc
lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Trước năm 1930 khi chưa có Đảng, đất nước
ta chìm đắm dưới ách thống trị, áp bức hơn 80 năm của chủ nghĩa thực dân Pháp
và hàng trăm năm của chế độ phong kiến thối nát. Biết bao cuộc đấu tranh giành
độc lập dân tộc của nhân dân ta đã liên tiếp nổ ra nhưng kết cục đều thất bại do
thiếu một đường lối chính trị đúng đắn soi đường. Phong trào đấu tranh dưới ngọn
cờ "Cần Vương" của các sĩ phu yêu nước lãnh đạo cùng với các cuộc khởi nghĩa
nông dân lấy hệ tư tưởng phong kiến làm nền tảng đã tỏ ra lỗi thời, bất lực trước
các nhiệm vụ lịch sử. Các phong trào đấu tranh dưới ngọn cờ của giai cấp tư sản
dân tộc cũng nhanh chóng lộ rõ sự yếu hèn, thất bại trước các nhiệm vụ lịch sử.
Chỉ có phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân liên minh với giai
cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác dưới ngọn cờ của Đảng Cộng
sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam trong hành động cách mạng, kiên trì mục tiêu
đấu tranh giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội là giành được những
thắng lợi vẻ vang.
Sự lựa chọn đúng đắn con đường cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua gắn
liền với tên tuổi và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh. Từ một người yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và Cách mạng
Tháng Mười Nga, Người đã sớm nhận ra rằng, “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Lênin. Đó chính là chủ nghĩa Mác - Lênin, một học thuyết cách mạng và
khoa học nhất về con đường giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng
18
con người. Ngay từ những năm đầu thập niên 20, thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã có
sự lựa chọn đúng đắn khẳng định con đường đi đến thắng lợi của cách mạng Việt
Nam: "khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"[5]. Trải qua
thực tiễn cuộc sống, hoạt động cách mạng phong phú và tiếp thu chân lý khoa học,
Người đã đi đến kết luận chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu được nhân loại, đem
lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng,
bác ái, đồn kết, ấm no trên trái đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm
vui, hồ bình, hạnh phúc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ln bám sát thực tiễn cách mạng, phân tích sâu
sắc thời cuộc, nắm vững mâu thuẫn cơ bản, thấy rõ mâu thuẫn chủ yếu trong mỗi
thời kỳ, xác định đúng đắn những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Đầu thế kỷ
XX, Việt Nam là một nước thuộc địa, nửa phong kiến, chính sách áp bức, bóc lột
tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp đã làm tích tụ những mâu thuẫn gay gắt giữa
toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa thực dân và bè lũ tay sai. Những mâu
thuẫn đó chỉ có thể được giải quyết bằng con đường cách mạng bạo lực và thực
hành cuộc cách mạng không ngừng, cách mạng “đến nơi”. Ngay từ ngày đầu thành
lập, Đảng ta đã xác định rõ mối quan hệ khăng khít giữa các nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng Việt Nam độc lập dân tộc, dân chủ gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Trong Chánh cương vắn tắt, Đảng ta đã xác định rõ "chủ trương làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"; "Đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc
lập"[1].
Từ khi có Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã trải qua những chặng
đường đấu tranh oanh liệt và thắng lợi vẻ vang, từng bước mang lại độc lập, tự do,
ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Cách mạng Tháng Tám thành cơng, nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hồ ra đời (2/9/1945) mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc Việt
19
Nam - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vận mệnh của Đảng gắn liền
với vận mệnh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Mối
liên hệ mật thiết giữa Đảng và quần chúng nhân dân là nguồn gốc sức mạnh và
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong bài viết nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày
thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Đảng đã đồn kết được những lực lượng
cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Cịn các đảng phái của các giai cấp
khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cơ lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng
của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường"[6].
Đảng luôn nhạy bén, bám sát tình hình thời cuộc để xác định đúng đắn
nhiệm vụ, phương pháp cách mạng phù hợp đưa đất nước tiến lên giành nhiều
thắng lợi to lớn. Trong thực tiễn, Đảng luôn kết hợp chặt chẽ giữa kiên trì chuẩn bị
lực lượng với nắm vững thời cơ, khi thời cơ đến đã biết chớp lấy, kịp thời tổ chức,
động viên nhân dân cả nước đứng lên đấu tranh giành thắng lợi. Hội nghị Trung
ương lần thứ tám của Đảng (10/5 - 19/5/1941) đã có quyết định chuyển hướng
chiến lược đấu tranh cách mạng kịp thời thành lập Mặt trận Việt minh, ra lời kêu
gọi toàn thể dân tộc Việt Nam đồn kết, đứng lên chống phát-xít, giành lại độc lập
tự do cho dân tộc. Sau khi phát-xít Đức, Ý bại trận, phát-xít Nhật sửa soạn đầu
hàng (7/1945), Hồ Chí Minh vẫn rất sáng suốt nhận định thời cơ cách mạng đang
đến gần và nhắc nhở các đồng chí Trung ương: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới,
dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết
giành cho được độc lập".
Ngay sau ngày giành được độc lập (02/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta đã khẩn trương lãnh đạo nhân dân cả nước bắt tay vào thực hiện đồng thời
hai nhiệm vụ chiến lược gắn xây dựng với bảo vệ chính quyền cách mạng; trong đó
trọng tâm là xây dựng, lấy xây dựng làm điều kiện cho bảo vệ. Trong cuộc kháng
chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược, Trung ương Đảng, Bác Hồ đã đề ra
20