TIỂU LUẬN
MƠN: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ QUY TRÌNH CHÍNH SÁCH
Đề tài:
PHÂN TÍCH VAI TRỊ CỦA BÁO IN TRONG Q TRÌNH
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC HIỆN NAY
MỤC LỤC
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI...............................................................................1
II. NỘI DUNG.................................................................................................2
2.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn.........................................................................2
2.1.1. Khái niệm về dân tộc, dân tộc thiểu số...................................................2
2.1.2. Khái niệm chính sách dân tộc.................................................................6
2.1.3. Nội dung chính sách dân tộc của Đảng và Nhà mước ta.........................7
2.1.4. Báo in với công tác tuyên truyền chính sách dân tộc..............................9
2.2.Mục đích tác động đến chính sách.........................................................11
2.3 Cơ chế tác động.......................................................................................12
2.4 Kết quả tác động của báo chí trong.......................................................13
2.5 Một số giải pháp......................................................................................17
III. KẾT LUẬN.............................................................................................19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................21
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CSDT Chính sách dân tộc
DTTS&MN Dân tộc thiểu số và miền núi
ĐBKK Đặc biệt khó khăn
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Việt Nam là một quốc gia thống nhất gồm 54 thành phần dân tộc anh
em cùng sinh sống, có mối liên kết cộng đồng bền vững. Trong đó, có 53 dân
tộc thiểu số cư trú trên một địa bàn rộng lớn, có vị trí chiến lược đặc biệt
quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh - quốc phòng. Từ sau Cách mạng
tháng Tám năm 1945 đến nay, cùng với việc hoạch định chính sách chung
cho cả nước, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm xây dựng và triển khai
chính sách cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN).
Đến nay, các chính sách đối với địa àn vùng DTTS&MN được thể chế
qua gần 160 văn bản quy phạm pháp luật. Ngồi ra, trên cơ sở tình hình thực
tế, các địa phương đã chủ động xây dựng và ban hành nhiều chính sách thực
hiện trên địa àn vùng DTTS&MN. Trong quá trình thực hiện chính sách dân
tộc (CSDT), cùng với hệ thống chính trị, các phương tiện truyền thơng đại
chúng (gọi tắt là báo chí) nước ta đã tích cực phát huy vai trị chức năng “cầu
nối”, cụ thể hóa các chủ trương, CSDT của Đảng và Nhà nước “hóa thân” vào
cuộc sống của đồng bào. Báo chí đã phản ánh tâm tư, nguyện vọng, những
kiến nghị, đề xuất của đồng bào một cách trung thực, khách quan, bản chất,
đóng góp được những thông tin quan trọng giúp các chuyên gia, nhà quản lý,
hoạch định chính sách nắm bắt, điều chỉnh, thiết kế CSDT cho đồng bào phù
hợp với từng thời điểm, từng giai đoạn lịch sử cách mạng dân tộc.
Nhìn nhận về vai trị quan trọng của báo chí đối với cơng tác tun
truyền CSDT, từ năm 2001, Chính phủ có Quyết định số 975/QĐ - TTg về
việc cấp không thu tiền một số báo, tạp chí cho vùng dân tộc, miền núi, vùng
đặc biệt khó khăn (ĐB) (Năm 2006 được thay bằng Quyết định 1637/QĐ -
TTg; Năm 2011 thay bằng Quyết định 2472 và Quyết định 1977/QĐ - TTg).
Theo đó, đến năm 2014, cả nước đã có 25 báo, tạp chí được cấp phát cho
đồng bào.
1
Qua công tác tuyên truyền cho thấy, các tờ báo, tạp chí phục vụ đồng
bào vùng DTTS&MN đã đem lại cho độc giả cái nhìn tồn diện về chủ
trương, quan điểm, nội hàm hệ thống CSDT của Đảng và Nhà nước ta. Lượng
thông tin trên các áo cấp phát cho đồng bào trở thành cẩm nang, tài liệu
truyền đạt những kinh nghiệm phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống ,
từng bước tác động làm thay đổi nếp nghĩ, cách làm của đồng bào; đóng góp
tích cực vào việc ổn định đời sống, nâng cao dân trí, bảo tồn và phát huy các
giá trị bản sắc văn hóa truyền thống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, báo chí phục vụ đồng bào vùng DTTS&MN vẫn cịn nhiều hạn
chế. Tuyên truyền về đồng bào, về CSDT nhưng chưa có nhiều tác phẩm áo
chí xuất sắc, mang hơi thở cuộc sống. Những hạn chế từ việc hoạch định
CSDT; tình trạng lãng phí, thất thốt nguồn vốn từ tổ chức thực hiện chính
sách ở cơ sở; chính sách chưa phù hợp, khơng phát huy hiệu quả... rất ít được
báo chí phát hiện, phản biện kịp thời giúp Đảng và Nhà nước, các nhà hoạch
định có thêm cơ sở, thơng tin để điều chỉnh, nghiên cứu bổ sung chính sách
mới phù hợp với quy luật phát triển xã hội, xóa đói giảm nghèo bền vững
trong vùng DTTS&MN.
Từ những trăn trở trong q trình cơng tác và học tập, tác giả chọn đề
tài: “Phân tích vai trị của báo in trong q trình chính sách dân tộc hiện
nay”. Qua đó, tác giả phân tích rõ vai trị của báo in trong chính sách dân tộc,
đưa ra những đề xuất giải pháp phát huy vai trò của báo in trong công tác
tuyên truyền CSDT.
2
II. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn
2.1.1. Khái niệm về dân tộc, dân tộc thiểu số
a. Khái niệm về dân tộc
Hiện nay, khái niệm về “dân tộc" cịn có nhiều ý kiến. Điều đó một
phần là do vấn đề dân tộc được xem xét từ nhiều quan điểm. lập trường và
góc độ khác nhau; phần khác là do hiện thực phong phú, phức tạp của các loại
hình dân tộc đang tồn tại ở các quốc gia, khu vực trên thế giới. Sự phong phú,
phức tạp đó làm cho nhiều định nghĩa được nêu ra, cho đến nay chưa diễn đạt
được đầy đủ, trọn vẹn các thuộc tỉnh của các loại hình dân tộc đã xuất hiện
trên thế giới. Tim kiếm một định nghĩa chuẩn xác về dân tộc đang là đòi hỏi
của lý luận và thực tiễn, cần được quan tâm.
Từ điển Bách khoa Việt Nam đưa ra định nghĩa:
Dân tộc (nation) hay quốc gia dân tộc, là một cộng đồng chính trị - xã
hội được chi đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ nhất định, ban
đầu được hình thành do sự tập hợp của nhiều bộ lạc và liên minh bộ lạc, sau
này của nhiều cộng đồng mang tính người (ethnie) của bộ phận tộc người.
Tính chất của dân tộc phụu thuộc vào những phương thức sản xuất khác
nhau...
- Dân tộc (ethnie) còn đồng nghĩa với cộng đồng mang tính tộc người...
Cộng đồng này có thể là bộ phận chủ thể hay thiểu số của một dân tộc
(nation) sinh sống ở nhiều quốc gia dân tộc khác nhau được liên kết với nhau
bằng những đặc điểm ngơn ngữ, văn hóa và nhất là ý thức tự giác tộc [14,
tr.655].
Từ điển Tiếng Việt nêu định nghĩa dân tộc như sau:
3
- Dân tộc là cộng đồng người hình thành trong lịch sử có chung một
lãnh thổ, các quan hệ kinh tế, một ngôn ngữ văn học và một số đặc trưng văn
hóa và tính cách...
- Dân tộc là tên gọi chung những cộng đồng người cùng chung một
ngôn ngữ, lãnh thổ, đời sống kinh tế và văn hóa, hình thành trong lịch sử từ
sau bộ lạc...
- Dân tộc là cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có
ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởời quyền lợi chính trị,
kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung [15, tr.255].
Dân tộc và Miền núi - là cách gọi ngắn gọn khi chúng ta dùng để
chỉtoàn bộ các DTTS và các vấn đề liên quan đến miền núi, cao nguyên, vùng
cao. Gọi như thế để dễ dàng trong giao tiếp và nhằm khu biệt với những nội
dung khác.
Hiện nay, cụm từ này đang được dùng phổ biến trong các đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
b.. Khái niệm dân tộc thiêu số
Tiến sĩ Bế Trường Thành, nguyên là Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm
UBDT đã đề cập về khái niệm DTTS qua bài viết “ Dân tộc thiểu số hay dân
tộc ít người" trong cuốn sách “Vấn đề dân tộc và cơng tác dân tộc" , NXB
Chính trị Quốc gia - Sự thật (2011) như sau: “Ở Việt Nam chúng ta khơng có
thổ dân, dân bản xứ (dân bản địa) vì các dân tộc Việt Nam đều là những cư
dân - chủ nhân của đất nước Việt Nam (tất cả mọi người cùng sinh sống trên
đất nước, có quốc tịch Việt Nam, không phân biệt nguồn gốc). Như vậy, cộng
đồng các dân tộc Việt Nam là bao gồm: dân tộc đa số và DTTS.
Dân tộc đa số là dân tộc có số người đơng nhất trong cộng đồng, tức là
dân tộc Kinh. DTTS là những dân tộc có số người ít hơn so với dân tộc đa số,
4
trong đó bao gồm cả dân tộc Hoa (người Hoa khơng có quốc tịch Việt Nam là
Hoa kiểu).
Khái niệm DTTS không đồng nghĩa với dân tộc lạc hậu, chậm phát
triển, không đồng nhất với khái niệm dân tộc ít người. Trên thế giới có một số
nước tương đối đồng nhất về dân tộc (một dân tộc có thể chiếm tới trên 90%
dân số như: Nhật Bản, Ixraen...), nhưmg cũng có những quốc gia dân tộc đa
số chi chiếm khoảng 50%, hoặc có DTTS của nước này, lại là đa số của nước
khác.
Xuất phát từ những quan điểm nêu trên, khái niệm “Dân tộc thiểu số",
đã được làm rõ tại Điều 5, Nghị định số 05/NĐ - CP về Công tác dân tộc của
Chính phủ ban hành ngày 14/01/2011 qui định: “Dân tộc thiểu số là những
dân tộc có số dâm it hon so với dâm tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ mước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" và “Dân tộc đa số là dâm tộc có số dân
chiếm trên 50% tổng dâm số của cả mước, theo điều tra dân số quốc gia".
Đặc điểm dâm tộc thiểu số
Việt Nam là một quốc gia thống nhất, có 54 dân tộc anh em cùng
chung sống, trong đó có 53 DTTS, với dân số 12.250.436 người, chiếm
khoảng 14,3% dân số cả nước. Đồng bào DTTS cư trú chủ yếu ở 52 tỉnh,
thành phố. Vùng DTTS&MN chiếm ¾ diện tích tự nhiên, có vị trí chiến lược
đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng và bảo
vệ môi trường sinh thái.
Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam có một số đặc điểm sau
- Các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam có q trình lịch sử cư trú
lâu đời, có tinh thần đồn kết gắn bỏ với nhau từ buổi binh minh lịch sử cho
đến quá trình dựng nước và giữ nước hôm nay.
5
- Trong lịch sử cũng như hiện tại, các dân tộc Việt Nam cư trú đan
xen, sống hỏa thuận với nhau theo triết lý “lá lành đùm lá rách", “tuy rằng
khác giống nhưng chung một giản".
- Các DTTS phát triển không đồng đều cả về đời sống kinh tế, dân trí,
mức hưởng thụ văn hóa, tiến bộ khoa học kỹ thuật, cả về dân số và môi
trường sống.
Đồng bào cư trú chủ yếu ở vùng miền múi, biên giới, địa hình đèo
dốc. chia cắt, khí hậu thời tiết khắc nghiệt: phương thức sản xuất chủ yếu là tự
cung tự cấp, thậm chí một số dân tộc đang còn trong thời kỳ kinh tế tự nhiên.
Dân số thấp và không đồng đều, trong 53 DTTS chi có 5 dân tộc có số dân
trên 1 triệu người (Tày, Thái, Mường, Khmer, Mơng) có 15 dân tộc dưới
10.000 người, có 5 dân tộc dưới 1.000 người (Si La, Pu péo, Rơ Măm, Brâu,
Ở - đu). Chất lượng dân số bao gồm cả trí lực, thể lực, chiều cao, cân nặng,
tuổi thọ đều thấp hơn so với bình quân cả nước. Thu nhập của đồng bào
DTTS chi bằng 4 binh quân toàn quốc. Tổ chức xã hội cổ truyền của đồng
bảo DTTS vẫn là tổ chức cộng đồng làng bản, gia đình, dịng họ - một quan
hệ xã hội chưa có phân hóa tầng lớp, giai cấp sâu sắc.
Có nhiều loại chính sách, trong đó có loại chính sách chung như:
Chính sách đối ngoại của Nhà nước, Chính sách kinh tế, Chính sách xã hội...
Trong các loại chính sách chung lại có các chính sách đối với từng lĩnh vực.
Vi dụ, trong Chính sách xã hội có các chính sách dân tộc. Trong CSDT có
những chính sách được cụ thể tùy thuộc vào nội dung và lĩnh vực kinh tế - xã
hội. Chính sách được thực thi khi được thể chế hóa bằng pháp luật. Nói một
cách khác, pháp luật là kết quả thể chế hóa đường lối, chính sách, là cơng cụ
để thực thi chính sách. Ví dụ như Chính sách hỗ trợ y tế đối với hộ nghèo
đồng bào DTTS&MN nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho
đồng bào như cấp thẻ bảo hiểm y tế, phát triển hệ thống y tế thôn bản, y tế dự
phòng ..
6
Từ phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về chính sách một cách
ngắn gọn nhất: Chính sách là tập hợp các chủ trương, các biện pháp khuyến
khích đổi tượng phụ thuộc vào chính sách nhằm đạt được mục đích của chủ
thể ra chính sách.
2.1.2. Khái niệm chính sách dân tộc
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, cùng với việc hoạch
định chính sách chung cho cả nước, Bác Hồ hết sức quan tâm đến việc hoạch
định chính sách cho vùng DTTS&MN. Chính sách dân tộc của Hồ Chí Minh
là sự vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lê nin vào hoàn cảnh
Việt Nam, trên cơ sở 3 ngun tắc: “Đồn kết, bình đẳng, tương trợ".
Khi nói về vấn đề dân tộc Người ln nhắc đến 3 nguyên tắc trên.
Trong bài nói chuyện với đồng bảo các dân tộc tỉnh Tuyên Quang. Người
nói: “ Đồng bảo các dân tộc phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ
nhau như anh em một nhà" [7, tr.323]. Trong bài phát biểu tại Hội nghị
Đảng bộ Việt Bắc, Người nhấn mạnh: “các cấp bộ đảng phải thi hành đúng
đắn chính sách dân tộc, thực hiện đồn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các
dân tộc" [8, tr.457].
Thẩm nhuần tư tưởng, lời dạy của Hồ Chủ tịch, trong quá trình thực
hiện đường lối cách mạng. CSDT luôn được Đảng và Nhà nước ta hoạch
định, triển khai thực hiện qua tìng giai đoạn, nhiệm kỳ, kế hoạch phát triền đất
nước.. nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện cho vùng DTTS&MN phát huy sức mạnh
tồng hợp. tiềm năng của từng dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập
dân tộc và tiếp tục duy trì, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dụng chủ nghĩa
xã hội hiện nay. Việc hoạch định CSDT được Đảng, Nhà nước cụ thể hóa bao
trùm trên các lĩnh vực về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc
phòng.
Từ phân tích khái niệm chính sách; đặc điểm của các DTTS ở Việt
Nam; quan điểm của Đảng, tư tưởng của Hồ Chủ tịch, của Nhà nước về xây
7
dựng chính sách đối với vùng DTTS&MN, có thể hiểu CSDT là “một hệ
thống chính sách tác động vào các quan hệ tộc người, vào vùng DTTS&MN
nhằm thúc đẩy sự phát triển tồn diện về chính trị, kinh tế, văm hóa, xã hội và
an ninh quốc phịng ở các vùng này".
2.1.3. Nội dung chính sách dân tộc của Đảng và Nhà mước ta
Nội dung CSDT bao trùm các nguyên tắc: bình đẳng, đồn kết,
tương trợ giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Bình đẳng: bình đẳng tồn diện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội.
Đoàn kết: thể hiện ở đoàn kết các dân tộc và chủ yếu là nói đến quan
hệ dân tộc.
Nếu quan niệm dân tộc theo nghĩa rộng (nation - dân tộc - quốc gia)
nghĩa là quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc nói chung trên các lĩnh vực của
đời sống xã hội, thì đó là đồn kết dân tộc quốc tế, quan hệ dân tộc gắn bó
chặt chẽ với quan hệ quốc tế, với chính sách đối ngoại của Nhà nrớc, một thể
chế chính trị. Bởi nó liên quan đến giải quyết các quan hệ giữa các quốc gia
dân tộc trên thế giới
Theo nghĩa hẹp có thể hiều quan hệ dân tộc là quan hệ giiữa các dân
tộc - tộc người, hay giữa các thành phần dân tộc trong một quốc gia đa dân
tộc, cũng như quan hệ giữa các thành viên trong nội bộ một dâm tộc, cũng
như quan hệ giữa các thành viên trọng nội bộ một dân tộc - tộc người.
Nội dung đoàn kết cịn bao gồm đồn kết giữa các DTTS với nhau,
khơng được coi dân tộc mình là lớn hơn dân tộc khác. Thực tế cho chúng ta
thấy, muốn đoàn kết các DTTS với nhau trên một địa bàn phải xử lý hài hòa
8
việc bố trí cán bộ, phải cơng bằng, cơng khai, minh bạch về kinh tế, về đầu tư
xây dựng trên địa bàn.
Tôn trọng: Đây là nội dung mới được bổ sung từ Đại hội toàn quốc
lần thứ X của Đảng. Các dân tộc không được phân biệt số lượng it hay nhiều,
trình độ phát triển nhanh hay chậm, đều phải tơn trọng văn hóa, phong tục tập
qn của nhau, hiều biết và chia sẻ hồn cảnh với nhau khơng được xem
thường các dân tộc khó khăn, nghèo đói. Khi xây dựng các chủ trương, chính
sách liên quan đến vùng DTTS&MN, phải tham khảo ý kiến đồng bảo các
dân tộc. Xử lý bất cứ một việc gì đều phải có quan điểm lịch sử, cụ thể,
xemxét điều kiện hoàn cảnh mỗi dân tộc.
Giúp nhau cùng phát triển: thể hiện ở việc phải có các chính sách
đặc thù cho đồng bào các DTTS ở các vùng miền khác nhau cùng phát triển,
nghĩa là rút ngắn dần khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, cùng nhau đi lên
trong quá trình phát triển. Hiện nay, nguy cơ mức sống, mức hưởng thụ của
đồng bảo DTTS đang ngày càng doãng ra so với mặt bằng trung bình của cả
nước, đây là thách thức lớn nhất đối với sự nghiệp đại đoàn kết các dân tộc ở
nước ta.
Nội dung cơ bản của CSDT phải là một khối liên kết chặt chẽ, bổ
sung cho nhau cùng phát triển thi mới đoàn kết; phải đồn kết thực sự, thực
lịng thì mới có thể tôn trọng nhau và xác định giúp nhau cùng phát triển.
2.1.4. Báo in với cơng tác tun truyền chính sách dân tộc
2.1.4.1. Khái niệm báo in
Báo in là một trong những loại hình của báo chí, là phương tiện
truyền thơng không thể thiếu của đời sống xã hội. Đến nay, có rất nhiều quan
niệm khác nhau về báo in.
9
Giáo trình Truyền thơng đại chúng, Nxb Chính trị quốc gia - 2001,
của Tạ Ngọc Tấn: Báo in là những ấn phẩm định kỳ chuyển tải nội dung
thông tin mang tính thời sự và được phát hành rộng rãi trong xã hội.
Theo Tiến sĩ Hà Huy Phượng, Học viện Báo chí Tuyên truyền: “Báo
in là thuật ngữ chỉ một loại hình báo chí định kỳ thơng tin thời sự các sự kiện,
các vấn đề trong đời sống xã hội thông qua việc sử dụng ngôn ngữ chữ viết và
kỹ thuật in ấn để chuyền tải thông tin".
2.1.4.2. Thế mạnh của báo in với cơng tác tun truyền chính sách
dân tộc
Trải qua thời gian dài phát triển độc tôn, mặc dù loại hình báo in đã
và đang phải đối mặt với sự cạnh tranh phát triển khốc liệt của các loại hình
báo chí truyền thơng hiện đại. Tuy nhiên báo in vẫn đang có thể mạnh:
Thứ nhất, là khả năng lưu trữ thơng tin cao, nhất là lưu trữ bằng trí
não. Khi người đọc, tiếp nhận thông tin qua mắt nhưng đồng thời với đó là trí
não hoạt động, tập trung mọi ý nghĩ vào trong tờ báo để tiếp nhận thơng tin.
Như phát thanh hay truyền hình thì thính giả và khán giả chỉ có thể xem khi
khơng tập trung mọi giác quan, trí não của mình thì những chi tiết, nội dung
thông tin chuyển đến người đọc là không hiệu quả và khơng lnı lại được trong
trí não.
Thứt hai, báo in có khả năng phân tích, bình luận, lý giải sâu rộng
đầy đủ các vấn đề, sự kiện. Đây là một thế mạnh mà có thể nói đặc trung nhất
của báo in mà đến nay khơng loại hình báo chí nào có thể làm được điều này,
kể cả báo mạng điện tử. Chính lợi thế này mà nó đã giúp báo in đứng vững và
cạnh tranh với các loại hình báo chí khác trong sự phát triển nhanh chóng
vượt bậc của khoa học công nghệ.
Thứ ba, báo in đa dạng về chủng loại, tính tiện ích trong sử dụng sân
phẩm. Báo in bao gồm nhiều chủng loại như: Nhật báo, Tuần báo, Nguyệt
10
san, Bán nguyệt san, Đặc san, Phụ san...; Ngoài ra, báo in cịn có nội san,
chun san, tập san, chun đề, bản tin và các loại tạp chí khác. Với bảo in,
cơng chúng, độc giả có thể mang tờ báo in đến bất cứ đâu, có thể tìm đọc
ngay thơng tin, hoặc lưu giữ để lúc rảnh rỗi có thể tìm đọc lại bất cứ lúc nào,
khác với phát thanh, truyền hình người nghe có thể nghe bất cứ lúc nào nhưng
thơng tin khơng được rõ vì có thể nghe đoạn cuối nói nhưng khơng nghe đoạn
đầu nên rất dễ gây hiểu lầm cho người nghe và thông tin phụ thuộc vào biên
tập viên, phát thanh viên.
Thứ tư, báo in có thể đáp ứng nhu cầu thông tin chuyên biệt của công
chúng. Với nội dung, hình thức chuyển tải phong phú, nhiều chủng loại, báo
in còn trở thành nguồn tài liệu quý giá đối với người đọc vi những thông tin
mà người đọc lưu trữ trong trí não. So với các loại hình bảo chí khác, Báo in
cịn có khả năng đi sâu phân tích, bình luận, lý giải các sự kiện, vấn đề cơng
chúng quan tâm; báo in có thể làm tài liệu, minh chứng cho các cơng trình
nghiên cứu khoa học.
Với những lợi thế trên cho thấy, báo in là loại hình báo chí phù hợp cho
nhóm cơng chúng chun biệt, trong đó có nhóm cơng chúng vùng
DTTS&MN. Xuất phát từ những thế mạnh này mà Thủ tướng Chính phủ đã
có quyết định 25 cơ quan báo in tham gia dự án về cấp một số ấn phẩm báo,
tạp chí cho vùng DTTS&MN, vùng ĐBKK theo Quyết định 2472 và 1977.
Thời gian qua, các báo, tạp chí phục vụ cơng chúng vùng DTTS&MN ln
bám sát định hướng tuyên truyền, đổi mới hình thức chuyền tài nhiều nội
dung thông tin đến với đồng bào, nhất là những vấn đề liên quan đến cuộc
sống dân sinh, qua đó thu hút sự quan tâm của cơng chúng.
Tuy nhiên, báo in có một số hạn chế nhất định đó là việc cập nhật
thôngtin, phân ánh đến công chúng độc giả thường chậm hơn so với các loại
hình báo chí khác, việc phần hồi thông tin chậm do báo in phải thực hiện qua
nhiều cơng đoạn. Bên cạnh đó, báo in là loại văn bản tĩnh, thiếu tính hấp dẫn
11
thu hút cơng chúng và hạn chế tính tương tác. Ngoài ra, việc phát hành báo in
được thực hiện theo hình thức trao tay vì thế báo in đến với người đọc sớm
hay muộn cịn phụ thuộc vào trình độ phát triển giao thông và các phương tiện
chuyên chở, phân phối báo. Do vậy, việc phát hành báo in đến với vùng
DTTS&MN đang là vấn đề được các tờ báo phục vụ đồng bào DTTS&MN
quan tâm, tìm giải pháp.
2.2.Mục đích tác động đến chính sách
Thơng tin tuyên truyền phục vụ đồng bào DTTS&MN luôn được sự
quan tâm của Đảng, Nhà nước, đội ngũ người làm báo và đông đảo người dân
quan tâm. Trong giai đoạn hiện nay, việc triển khai thực hiện công tác dân
tộc, CSDT cịn gặp nhiều khó khăn. Trong đó, nguồn lực thực hiện CSDT còn
hạn chế, chưa tạo được bước đột phá trong phát triển vùng DTTS&MN. Kinh
tế - xã hội vùng DTTS &MN phát triển còn chậm; đời sống đồng bào tuy
được cải thiện, nhưng tỷ lệ hộ nghèo vẫn ở mức cao, công tác giảm nghèo.
Mục đích tác động của báo in trong q tình chính sách dân tộc là:
- Tuyên truyền chính sách về bảo tồn, gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa
các dân tộc
- Giải thích chính sách: Cơng tác tun truyền CSDT đầu tiên được xác
định trên các báo là việc giải đáp những băn khoăn, thắc mắc của đồng bào
DTTS về chính sách để đồng bào hiểu. Các tờ báo in, thông qua các bài viết,
chuyên mục, CSDT được làm rõ trên các trang báo, giúp độc giả là đồng bảo
DTTS&MN có nhận thức đúng về các chính sách mà mình được thụ hưởng.
Cách thức tuyên truyền này rất hiệu quả đối với việc đưa CSDT “thẩm thẩu"
vào đời sống đồng bào DTTS&MN.
- Góp phần tham mưu xây dựng chính sách dân tộc: Một tưu điểm nổi
bật là, các báo đã thực hiện tốt vai trò phản biện chính sách. Ngồi thơng tin
tun truyền hiệu quả của các CSDT, các báo cũng đã kịp thời phản ánh
12
những vướng mắc, hạn chế trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án
ở vùng đồng bào DTTS&MN. Từ đó, đóng góp những kiến nghị, đề xuất giải
pháp để các nhà hoạch định chính sách có thêm cơ sở điều chinh, xây dựng
chính sách mới phù hợp hơn.
Nước ta đang phải đối mặt với nguy cơ “diễn biến hịa bình" do các thế
lực thù địch, một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí nhân danh vấn đề nhân
quyền can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, bịa đặt vấn đề dân tộc
nhằm xuyên tạc chính sách đúng đắn của Nhà nước Việt Nam, trước thực tiễn
và những vấn đề mới này sinh, địi hỏi báo chí cách mạng nước ta nói riêng và
báo in nói chung cần tích cực phát huy ưu thế, có giải pháp tốt hơn nhằm thể
hiện vai trị là kênh thơng tin quan trọng nhất trong công tác tuyên truyền
CSDT. Đồng thời, động viên, cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân tham gia xây
dựng, củng cổ, bảo vệ và phát triển sự nghiệp Đại đoàn kết các dân tộc.
2.3 Cơ chế tác động
Theo Công văn số 441/VHTT - BC Hướng dẫn thực hiện Quyết định số
1637/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 31/12/2001 về nội dung các
báo, tạp chí cho vùng DTTS&MN, đã chỉ rõ: Các loại báo, tạp chí phục vụ
đồng bào DTTS&MN bảo đảm nội dung: Tin bài, ảnh sát thực tế, phù hợp
trình độ của cán bộ, nhân dân vùng DTTS&MN, viết ngắn, gọn, dễ hiểu
không trùng lặp nội dung giữa các tờ báo, tạp chí.
Tại Quyết định số 1212/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
5/9/2012 phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia đưa thơng tin về cơ sở
miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo giai đoạn 2012 - 2015 nêu rõ:
"Tăng cường đưa nội dung thông tin tuyên truyền nhằm phổ biến chủ trương,
chính sách, pháp huật của Nhà mước; cung cấp, giới thiệu các kinh nghiệm,
các gương điển hình tiên tiến trong sản xuất, hoạt động xã hội; phổ biến kiến
thức về các tiến bộ khoa học, kỹ thuật trong các hoạt động sản xuất; giới
13
thiệu, phổ biến các thông tin về bảo tồn văn hóa phục vụ đồng bào các dân tộc
khu vực miền múi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đão."
Hiện nay cơ quan báo in đang sử dụng phương thức chuyển tải thông
tin là các tờ báo in phát hành theo định kỳ (có thể hằng ngày, hằng tuần); các
tờ tạp chí, chuyên san (có thể phát hành hàng tuần, hàng tháng, nửa tháng
(bán nguyệt san). Nội dung thông tin phong phú, đa dạng; hình thức trình bày
đẹp, in trên giấy trắng, 4 mầu, co chữ to, giúp đồng bào tiếp cận dễ nhất,
nhanh nhất chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước và những
thông tin cần thiết khác. Song song với việc tuyên truyền phong phú, đa dạng
về nội dung, các báo đã có nhiều nỗ lực đề đổi mới về hình thức các ấn phẩm,
các tin bài ngắn gọn, nhiều ảnh và rõ nét, trình bày đẹp, dễ đọc, dễ hiểu, dễ
xem phù hợp với trình độ dân trí của đồng bào trong vùng.
Tuy nhiên, đề công tác tuyên truyền CSDT mang lại hiệu quả cao, các
báo cần phát huy sử dụng phong phú các thể loại báo chí như: phóng sự, điều
tra, bài phản ánh, tỉn ngắn, tin sâu... đề có thể chuyển tải thông tin bằng nhiều
phương thức khác nhau tới công chúng, bạn đọc. Đặc biệt, nên phát huy thế
mạnh của tin ảnh, phóng sự ảnh báo chí. Đây là thể loại báo chí trực quan,
phát huy tác dụng hiệu quả tuyên truyền rất cao đối với đồng bào.
2.4 Kết quả tác động của báo chí trong
Giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong mọi hoàn cảnh là nhiệm vụ
quan trọng, là yêu cầu sống còn của mỗi quốc gia. Cùng với các loại hình bảo
chí nói chung và bảo in phục vụ vùng DTTS&MN nói riêng đóng vai trị hết
sức quan trọng trong công tác tuyên truyền về quan điểm, đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát hiện và phản ánh
tâm tư, nguyện vọng của quần chúng; những vấn đề bức xúc trong đời sống
xã hội..., góp phần khơng nhỏ trong sự nghiệp đại đồn kết dân tộc. Đặc biệt
báo in đem đến cái nhìn tồn diện, đầy đủ về chính sách tơn giáo, CSDT của
Đảng và Nhà nước Việt Nam; mọi hoạt động về đời sống, sinh hoạt tôn giáo,
14
dân tộc trong nước một cách sinh động, khách quan...; nhiều cuộc giao lưnı,
trao đổi thông qua các diễn đàn hỏi đáp về chủ trương đường lối, chính sách
pháp luật, CSDT được các báo đã chú trọng phản ánh đăng tải kịp thời.
Hay như tác giả thấy một số tờ báo in: Dân tộc và Phát triển; Nông
thôn Ngày nay và Văn hóa năm 2020 – 2021cho thấy, trên các trang tuyên
truyền về vùng DTTS&MN của các báo có nhiều chuyên mục hấp dẫn, phản
ánh toàn diện đậm nét, chân thực, gần gũi về đời sống, kinh tế, văn hóa, xã
hội đồng bào vùng DTTS&MN như, kết quả triển khai thực hiện CSDT và
xóa đói giảm nghèo, cơng tác cán bộ trong vùng đồng bào DTTS, vấn đề phá
rừng đầu nguồn, vấn đề bảo vệ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc... đề lại ấn
tượng, niềm tin sâu sắc trong lòng bạn đọc, công chúng. Tiêu biểu như báo
Dân tộc và Phát triển có các chun mục: “Chính sách và đời sống": "Gương
sáng cộng đồng": “Cửa sổ văn hóa"...: Báo Văn hóa có các chuyên mục:
“Giới thiệu và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", “ Hỏi và Đáp";
“Giữ gìn bản sắc văn hóa", “Văn hóa giao thơng"..: Báo Nơng thơn Ngày nay
có các chun mục: “Vốn sống dân gian", “Người của bn làng" ,“Tiếng nói
từ bn làng" , “Chính sách và pháp luật"
Các chuyên mục trên phản ánh toàn diện đậm nét, chân thực, gần gũi
về đời sống, kinh tế, văn hóa, xã hội đồng bào vùng DTTS&MN. Nhiều bài
viết chọn đúng vấn đề mà độc giả quan tâm như chính sách dân tộc và xố đói
giảm nghèo, cơng tác cán bộ trong vùng đồng bào DTTS, vấn đề phá rừng
đầu nguồn, vấn đề bào vệ, phát huy bản sắc văn hố dân tộc... để lại ấn tượng
sâu sắc trong lịng bạn đọc.
Đặc biệt, các tin, bài trên báo in đã chuyển tải đầy đủ các chủ trương,
chính sách, văn bản, chỉ đạo, hướng dẫn của Đảng và Nhà nước, Ủy ban Dân
tộc và các Bộ, ngành Trung ương, địa phương về công tác dân tộc, CSDT...
không chi giúp đồng bào mà cả hệ thống cơ quan làm công tác dân tộc ở địa
phương kịp thời nắm bắt cập nhật, hiểu rõ hơn về những thông tin, văn bản,
15
chính sách mới; các báo cịn là người bạn thân thiết, là tài liệu thiết thực của
lực lượng vũ trang nơi biên giới, hải đảo trong công tác vận động đồng bào
biên giới thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước; cũng
như giáo dục tình yêu quê hương đất nước, lòng tự hào dân tộc, bảo vệ giữ
gìn từng tấc đất nơi biên cương của Tổ quốc.
Song song với việc tuyên truyền phong phú, đa dạng về nội dung, các
báo đã có nhiều nỗ lực đề đổi mới về hình thức các ấn phẩm, các tin bài ngắn
gọn, nhiều ảnh và rõ nét, trình bày đẹp, dễ đọc, dễ hiểu, dễ xem phù hợp với
trình độ dân trí của đồng bào trong vùng.
Có thể khẳng định, những kết quả đã đạt được của công tác tuyên
truyền CSDT trên các báo, góp phần quan trọng nâng cao nhận thức của các
cấp ủy Đảng, chính quyền, hệ thống chính trị xã hội và đồng bào DTTS&MN
trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo; nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần, xây dựng đời sống văn hóa mới gắn liền với nhiệm
vụ giữ gin và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống; đảm bảo an ninh trật
tự xã hội; đảm bảo cơ bản quyền binh đẳng giữa các dân tộc trên lãnh thổ...
Trong giai đoạn hiện nay (2015 - 2020) toàn Đảng, toàn dân ta đang
tập trung sức đầy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng những cơ sở
nền tảng để thực hiện thắng lợi mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Việc thực hiện nhiệm vụ
trung tâm đó đặt ra trong điều kiện nền kinh tế nước ta vừa mới hồi phục sau
tinh trạng suy thoái do ảnh hưởng của cuộc khủng hồng tài chính, suy thối
kinh tế tồn cầu. Trong nước, cùng với những thành tựu to lớn của công cuộc
đổi mới, đất nước đã thốt khỏi tình trạng một nước nghèo, đời sống đại đa số
nhân dân được cải thiện, nhiều cơ sở vật chất hạ tầng kỹ thuật được tăng
cường. Trên trường quốc tế, uy tín và vị thế nước ta ngày càng được nâng
cao, nước ta ngày càng giữ vị trí quan trọng trong khu vực và thế giới.
16
Tuy nhiên, nạn tiêu cực, tham nhũng, lãng phí chưa bị đầy lùi một
cách cơ bản, cuộc sống người dân, nhất là đồng bào vùng DTTS&MN cịn
nhiều khó khăn, tư tưởng trong một bộ phận nhân dân cịn có những biểu hiện
phức tạp; trình độ dân trí của đồng bảo ở vùng sâu, vùng xa còn thấp chưa
nhận thức đầy đủ về CSDT, do đó, việc áp dụng triển khai CSDT vào cuộc
sống chưa hiệu quả. Tình trạng bản sắc văn hóa các DTTS bị mai một và biến
dạng, thậm chí có nhiều yếu tố văn hóa của một số dân tộc rất ít người bị mất
hẳn vẫn có nguy cơ cao,... thực trạng này là cơ hội cho các thế lực thù địch,
các phần tử chống phá lại cách mạng Việt Nam lợi dụng hoạt động lơi kéo
kích động đồng bào gây mất an ninh trật tự, chia rẽ khối đại đoàn kết các dân
tộc Việt Nam.
Thực hiện hiệu quả CSDT là một nhiệm vụ quan trọng trong đường
lối cách mạng của Đảng và Nhà nước ta nhằm mục đích ổn định cuộc sống.
tạo sự bình đẳng trong vùng đồng bảo DTTS&MN; góp phần giữ vững an
ninh, trật tự, an tồn xã hội. Vì vậy, báo chí có vai trị rất quan trọng đối với
cơng tác tun truyền CSDT. Những thơng tin có tính chính trị nhưng khơng
có định hướng, không được công chúng, đồng bào nhận thức rõ ràng, sẽ dẫn
đến sự nhiễu loạn, làm mất phương hướng dư luận xã hội; thậm chí dẫn đến
những tác động tư tưởng tiêu cực, bất lợi cho sự ổn định chíinh trị - xã hội,
nên người làm báo phải nhạy bén về chính trị để quyết định việc đưa tin hay
không đưa tin một sự kiện, vấn đề nào, vào thời điểm nào là hợp lý để góp
phần ổn định xã hội, mang lại hiệu quả về chính trị, kinh tế cho đất nước.
Mặc dù, các báo in phục vụ đồng bảo DTTS&MN đã đáp ứng được
phần nào về nhu cầu thông tin đến với đồng bảo, là nơi để đồng bảo có thể
phản ánh các ý kiến, kiến nghị của bà con tới chính quyền... Nhưng nhìn
chung về tiềm năng và hiệu quả thông tin tuyên truyền từ các tác phẩm của
báo in chưa có những tác động tạo sức lan tịa trong công chúng, đồng bảo.
17