Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tiểu luận hệ thống chính trị và quy trình chính sách 2 phân tích vai trò của truyền hình trong quá trình chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.11 KB, 24 trang )

TIỂU LUẬN

MƠN: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ QUY TRÌNH CHÍNH SÁCH

Đề tài:
PHÂN TÍCH VAI TRỊ CỦA TRUYỀN HÌNH TRONG QUÁ TRÌNH

CHÍNH SÁCH DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HĨA GIA ĐÌNH

MỤC LỤC

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.......................................................................................1
II. NỘI DUNG..........................................................................................................2
2.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn.................................................................................2
2.2. Mục đích tác động............................................................................................6
2.3 Cơ chế tác động..................................................................................................8
2.4 Kết quả tác động của truyền thông................................................................15
2.5 Nhiệm vụ và giải pháp.....................................................................................17
III. KẾT LUẬN......................................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................20

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

SKSS Sức khỏe sinh sản
KHHGĐ Kế hoạch hóa gia đình

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Sinh thời Chủ Tịch Hồ Chí Minh nói: “Thơng tin, tun truyền là đem
một việc gì đó nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu khơng đạt
mục đích đó, là thơng tin, tun truyền thất bại”.



Thông tin, tuyên truyền là một trong những bộ phận quan trọng của
công tác tư tưởng, có nhiệm vụ phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng, chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến quần chúng
nhân dân. Thông tin, tuyên truyền gắn liền với cổ động, nên thơng tin, tun
truyền cịn là sự cổ vũ, động viên, thúc đẩy quần chúng hăng hái tham gia các
phong trào, biến nhận thức, niềm tin thành nhiệt huyết của quảng đại quần
chúng, thành hành động cách mạng.

Một trong những mục tiêu của cuộc vận động kế hoạch hóa gia đình là
khuyến khích các cặp vợ chồng chấp nhận mơ hình gia đình ít con. Những
nghiên cứu gần đây về kiến thức, tâm thế và thực hành kế hoạch hóa gia đình
ở nước ta cho thấy rằng mặc dù tâm thế chúng hướng đến gia đình hai con,
cịn một bộ phận không nhỏ các cặp vợ chồng (27%) muốn có 3 con trở lên.
Ngồi ý muốn về số con, nhưng ý muốn về giới tính của con cái, đặc biệt là
thích con trai, những động cơ sinh con dù biểu hiện dưới hình thức nào cũng
chứng tỏ sự hoạt động của chuẩn mực đơng con vẫn cịn khả dai dẳng. Tâm
thế hướng đến gia đình đơng con trong một bộ phận nào đó của cư dân nói
chung vẫn là một trở ngại chính để đạt được mục tiêu cuộc vận động kế hoạch
hóa gia đình.

Sự phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm q trình độ hóa và hiện đại hóa
sẽ là sự đảm bảo vững chắc nhất cho việc duy trì hợp lý tỷ lệ tăng trưởng dân
số như kinh nghiệm của các nước đã phát triển. Ở nước ta, mức độ đơ thị hóa
ở các tỉnh phía Nam tương đối cao hơn các tỉnh phía Bắc, nhưng tỷ lệ phát
triển dân số ở một số tỉnh phía Bắc lại thấp hơn các tỉnh phía Nam. Nguyên
nhân chính về sự tăng trưởng dân số khác nhau ở hai miền nước ta chính là

1


mức độ hoạt động của các chương trình kế hoạch hóa gia đình đã tác động
đến định hướng số con của các cặp vợ chồng qua công tác thông tin, giáo dục
và truyển thông. Ở miền Bắc, tầm thế hướng đến chấp nhận gia đình ít con là
phổ biến và khá mạnh. Trong những hoạt động liên quan đến sự thành cơng
của chương trình kế hoạch hóa gia đình, hệ thống truyền thơng đại chúng
(truyền hình, phát thanh, báo chí) đã đóng một vai trị quan trọng. Nó khơng
chỉ cung cấp những thông tin, kiến thức mà điều quan trọng hơn trong chức
năng hoạt động của hệ thống truyền thông ở mọi cấp trong lĩnh vực kế hoạch
hóa gia đình là chuyển đổi và củng cố tâm thế của các cặp vợ chồng hướng
đến chấp nhận mơ hình gia đình 1 hoặc 2 con.

Trong thời gian qua, công tác tuyên truyền của truyền thông đại chúng,
vận động về dân số của các cấp, các ngành và tồn dân có bước đột phá, là
giải pháp cơ bản để đạt được các mục tiêu của cơng tác dân số, góp phần to
lớn vào phát triển kinh tế – xã hội đất nước. Trong thời gian tới, công tác
truyền thông, vận động về dân số cần đổi mới nội dung theo định hướng
“Tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang
dân số và kế hoạch hóa gia đình” nhằm góp phần đạt được các mục tiêu của
cơng tác dân số trong thời gian tới.

Chính vì lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Phân tích vai trị của
truyền hình trong q trình chính sách dân số- kế hoạch hóa gia đình” để
phân tích cụ thể truyền thơng đại chúng đã tác động như thế nào vào q trình
chính sách, từ đó đề ra nhiệm vụ và giải pháp sau này để nâng cao hiệu quả
truyền thông.

II. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn
2.1.1 Khái niệm truyền thông đại chúng


2

Truyền thông đại chúng được hiểu là q trình trao đổi thơng tin đến
một lượng lớn dân số thông qua một loạt các công nghệ truyền thông. Ngành
Truyền thông đại chúng (trong tiếng Anh là Mass Communication) là ngành
học định hướng cho sinh viên các phương pháp truyền đạt thông tin đại chúng
như: phim, báo, ảnh, mạng… đến nhiều đối tượng khác nhau thông qua các
phương tiện thông tin nhằm thực hiện tốt nhất các mục tiêu đã được đề ra.

Ngành Truyền thông đại chúng gồm 8 lĩnh vực bao gồm: sách, báo in,
tạp chí, ghi dữ liệu, phát thanh, điện ảnh, truyền hình và Internet. Có thể thấy,
hiện nay những lĩnh vực phổ biến và phát triển nhất là: Truyền hình và
Internet, Báo chí, Phát thanh

2.1.2 Báo truyền hình
Báo truyền hình: Với đặc tính ưu việt bởi sự kết hợp sống động giữa
hình ảnh và âm thanh, truyền hình là một loại hình báo chí đặc biệt có sức
mạnh và lợi thế trong việc chuyển tài thông tin tới công chúng. Trong cơng
tác tun truyển vận động dân số truyền hình có những hình thức thể hiện dạt
hiệu quả cao.
Cũng như ở phát thanh, trong truyền hình có nhiều thể loại tác phẩm có
thể chuyển tải thơng tin như, bản tin, phóng sự, phỏng vấn, toạ đàm, các
chương trình văn nghệ, trị chơi truyền hình... tất cả đều phù hợp với hoạt
động tuyên truyền vận động dân số và phát triển.
Ưu thế của truyền hình trong việc tuyên truyền vận động dân số là:
- Có giá trị thời sự, thơng tin đến với nhiều người một cách nhanh
chóng.
- Dễ hiểu với tất cả mọi người, kể cả với những người có trình độ học
vấn thấp.


3

- Có tính thuyết phục cao (bằng cả lời nói và hình ảnh minh hoạ trực
quan), chỉ dẫn cho mọi người một cách rõ rằng nhất về các kỹ năng thực hiện
hành vi.

- Tăng hiệu quả trong việc nêu gương điển hình và khuyến khích hành
động.

- Thông tin được chuẩn bị và truyền đạt theo bài bản, hấp dẫn, chi tiết.

Hạn chế:

- Diện phủ sóng hẹp.

- Không phải tất cả mọi người đều có điều kiện kinh tế để mua ti vi và
xem truyền hình (đặc biệt là đồng bào nghèo vùng dân tộc, miền núi).

- Chi phí để sản xuất các chương trình truyền hình đất đỏ, tốn kém, địi
hỏi phương tiên hiện đại.

2.1.3 Đổi mới truyền thơng đại chúng trong q trình chính sách dân
số trong tình hình mới

Đầu năm 2020 Tổng cục Dân số - KHHGĐ đã định hướng triển khai
công tác truyền thông, giáo dục về dân số tập trung vào tuyên truyền về quy
mô, cơ cấu, phân bố và chất lượng dân số trong mối quan hệ hữu cơ với phát
triển kinh tế - xã hội; duy trì mức sinh thay thế, giảm thiểu mất cân bằng giới
tính khi sinh, tận dụng cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số, phân
bố dân số hợp lý và nâng cao chất lượng dân số.


Truyền thông cần tuyên truyền và cung cấp thông tin, số liệu, nội dung,
phương pháp, quy trình lồng ghép các biến số về dân số trong phát triển tới
các cấp ủy Đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội để nâng cao nhận
thức, hiểu biết về lợi ích của lồng ghép dân số trong phát triển, về ý nghĩa quan
trọng của các yếu tố dân số đối với phát triển, về hiệu quả của các chính sách,
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nếu được lồng ghép các yếu tố
dân số.

4

Nhằm định hướng nội dung cũng như đạt mục tiêu nâng cao chất lượng
dân số, Nghị quyết số 21-NQ/TW đã đề ra giải pháp đổi mới nội dung tuyên
truyền, một trong những giải pháp quan trọng, then chốt cho công tác dân số
trong tình hình mới.

Đổi mới công tác truyền thông, vận động về dân số là yêu cầu cần thiết
đối với công tác dân số trong tình hình mới. Đó là đổi mới nội dung, phương
thức truyền thông, vận động về dân số và kế hoạch hóa gia đình. Duy trì và
nhân rộng các mơ hình truyền thơng có hiệu quả và xây dựng các mơ hình
truyền thơng về dân số và kế hoạch hóa gia đình phù hợp với tình hình mới.
Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động truyền thông cho vị thành niên, thanh niên,
người chưa kết hôn, các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, các nhóm dân số
đặc thù.

Tuyên truyền về sự cần thiết cung ứng đầy đủ các phương tiện tránh
thai. Tiếp tục tuyên truyền về sự thuận tiện của việc mua và sử dụng các
phương tiện tránh thai thông qua tiếp thị xã hội, xã hội hóa cung cấp phương
tiện tránh thai, hàng hóa và dịch vụ KHHGĐ – SKSS…


Trong công tác tuyên truyền, vẫn tiếp tục thực hiện cuộc vận động
“Mỗi cặp vợ chồng nên có 2 con”, nhưng tuỳ theo địa bàn, đối tượng mà có
sự thay đổi trong vận động: vận động sinh ít con ở vùng, đối tượng có mức
sinh cao; vận động sinh đủ 2 con ở những nơi mức sinh thấp; duy trì kết quả ở
những nơi đã đạt mức sinh. Nội dung tuyên truyền cần góp phần nâng cao
nhận thức, thực hành về bình đẳng giới, giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi
sinh. Đổi mới tồn diện nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục dân
số, sức khoẻ sinh sản. Hình thành kiến thức và kỹ năng về dân số, sức khoẻ
sinh sản đúng đắn, có hệ thống ở thế hệ trẻ. Ông cũng cho biết thêm, về
nhiệm vụ và giải pháp đổi mới nội dung tun truyền, vận động về cơng tác
dân số có điểm mới là: Đổi mới tồn diện nội dung, chương trình, phương
pháp giáo dục dân số, sức khỏe sinh sản trong và ngồi nhà trường. Hình

5

thành kiến thức và kỹ năng về dân số, sức khỏe sinh sản đúng đắn, có hệ
thống ở thế hệ trẻ.

Tuyên truyền về cơng tác dân số trong tình hình mới là nhiệm vụ chính
trị vơ cùng quan trọng. Vì vậy việc tun truyền, vận động về công tác dân số
cần được đổi mới toàn diện về nội dung và phương pháp. Sự thay đổi cần
được thực hiện trước tiên trong đội ngũ cán bộ dân số các cấp, các ngành, đáp
ứng yêu cầu chuyển hướng sang chính sách Dân số và kế hoạch hóa gia đình.

2.2. Mục đích tác động của truyền hình trong q trình chính sách
dân số

Trong những năm qua công tác truyền thông luôn được sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước cùng sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, các
tổ chức xã hội, đã tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành

động của toàn xã hội trong việc triển khai, thực hiện các mục tiêu về Dân số -
KHHGĐ.

Công tác truyền thông được tập trung vào các nội dung cụ thể như:
Tuyên truyền về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng, hiệu quả của việc thực
hiện các dịch vụ nâng cao chất lượng dân số; vận động thanh niên thực hiện
tư vấn và khám sức khoẻ trước hơn nhân; phụ nữ mang thai thực hiện tầm
sốt, chẩn đoán, điều trị một số bệnh, tật trước sinh; trẻ sơ sinh thực hiện tầm
soát, chẩn đoán, điều trị một số bệnh bẩm sinh; nâng cao nhận thức về tác hại,
hệ lụy, thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về cấm tảo hôn, kết hôn
cận huyết thống, đặc biệt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Truyền thông vận động, tạo phong trào mọi người dân thường xuyên
luyện tập thể dục, thể thao, có lối sống lành mạnh, chế độ dinh dưỡng hợp lý.
Tổ chức các cuộc thi thể dục, thể thao quần chúng, lôi cuốn đông đảo các tầng
lớp nhân dân ở mọi lứa tuổi tham gia; chú trọng nêu gương những cá nhân,
gia đình điển hình; vận động và phát huy vai trị của các chức sắc tơn giáo, già
làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng tham gia tuyên truyền; lồng

6

ghép nội dung dân số và kế hoạch hóa gia đình vào các sinh hoạt cộng đồng,
lễ hội văn hóa, hương ước, quy ước của cộng đồng, tiêu chuẩn thôn, bản, tổ
dân phố văn hóa, gia đình văn hóa. Cùng với đó là việc đổi mới các hình thức,
phương pháp truyền thơng phù hợp từng nhóm đối tượng; đẩy mạnh truyền
thông trên các phương tiện thông tin đại chúng ở trung ương, địa phương; tập
trung khai thác, phát triển những lợi thế của cơng nghệ thơng tin và các loại
hình truyền thơng khác.

Có thể khẳng định, truyền thơng, giáo dục dân số đóng một vai trị hết

sức quan trọng, theo đó đã tạo ra sự chuyển đổi hành vi bền vững về dân số,
sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình, trên cơ sở cung cấp đầy đủ, chính
xác thơng tin với nội dung và hình thức phù hợp với từng nhóm đối tượng.
Chú trọng loại hình tư vấn, đối thoại, vận động trực tiếp các cặp vợ chồng
trong độ tuổi sinh đẻ, nam giới, thanh niên và người chưa thành niên.

Việc truyền thông dân số tập trung vào những vùng có điều kiện kinh
tế-xã hội cịn khó khăn và những đối tượng cịn nhiều hạn chế về nhận thức.
Mở rộng các hình thức giáo dục và nâng cao chất lượng dân số trong và ngồi
nhà trường. Chính truyền thơng, giáo dục dân số đã đổi mới được cách tiếp
cận truyền thông, từ thông tin, giáo dục, truyền thông sang truyền thông vận
động chuyển đổi hành vi và áp dụng các phương pháp quản lý truyền thông
dựa trên cơ sở xác định rõ đặc điểm của từng nhóm để có cách tiếp cận phù
hợp với từng nhóm đối tượng.

Chính sách dân số là nội dung quan trọng của Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và tồn xã hội.
Đặc biệt, Nghị quyết số 21-NQ/TW về cơng tác dân số trong tình hình mới
xác định: Dân số là yếu tố quan trọng hàng đầu của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Công tác dân số là nhiệm vụ chiến lược, vừa cấp thiết, vừa

7

lâu dài; là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Vì vậy, mục đích tác động của
truyền thơng đại chúng trong q trình chính sách dân số là:

Truyền thông làm thay đổi nhận thức, tình cảm, niềm tin và hành vi
của người dân về chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình.


Tạo ra sự chuyển đổi hành vi bền vững về dân số, sức khỏe sinh sản,
kế hoạch hóa gia đình, trên cơ sở cung cấp đầy đủ, chính xác thơng tin với nội
dung và hình thức phù hợp với từng nhóm đối tượng.

Truyền thông đại chúng trong chính sách dân số, giúp củng cố niềm
tin vào Đảng, Nhà nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc

Truyền thông đại chúng về dân số - kế hoạch hóa gia đình thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc.

Truyền thông đại chúng về dân số giáo dục chuyển đổi hành vi đóng
một vai trị hết sức quan trọng, theo đó đã tạo ra sự chuyển đổi hành vi bền
vững về dân số, sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình, trên cơ sở cung cấp
đầy đủ, chính xác thơng tin với nội dung và hình thức phù hợp với từng nhóm
đối tượng.

Truyền thông đại chúng giúp cho người dân biết đến thông điệp
truyền thơng về dân số khơng cịn là “sinh từ 1 đến 2 con” mà đối với những
nơi mức sinh đang xuống thấp thì cần vận động người dân “sinh đủ 2 con”.
Đối với những nơi điều kiện kinh tế - xã hội cịn nhiều khó khăn có mức sinh
cao, thậm chí rất cao, vẫn phải tiếp tục vận động giảm sinh để đưa về mức
sinh thay thế.

2.3 Cơ chế tác động

Như chúng ta đã biết dân số và kế hoạch hóa gia đình là một lĩnh
vực hết sức rộng lớn, khơng đơn giản chỉ là vấn đề tăng giảm dân số hay
tuyên truyền vận dộng các biện pháp tránh thai... mà là tất cả những vấn dể có
liên quan trực tiếp tới cuộc sống của mỗi người và của loài người (kinh tế,


8

mơi trường và tài ngun, giáo dục, bình đẳng giới...). Vì vậy các đề tài về
dân số và kế hoạch hóa gia đình cũng có tính chất đa dạng, bao hàm nhiều nội
dung khác nhau. Tuy nhiên căn cứ vào lính chất và mục đích tuyên truyền vận
động dân số từng chương trình thì về cơ bản chúng ta có thể tạm chia thành 4
loại nội dung sau:

- Tuyên truyền, phổ biến đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước
về dân số và kế hoạch hóa gia đình.

- Phổ biến kiến thức, kinh nghiệm, nâng cao trình độ tri thức về dân số
và kế hoạch hóa gia đình.

- Giáo dục và đào tạo các kỹ năng sức khoẻ sinh sản và chăm sác sức
khoẻ sinh sản.

- Củng cố và nâng cao các giá trị về văn hố, xã hội có liên quan tới
lĩnh vực dân số và kế hoạch hóa gia đình.

2.3.1.Tuyên truyền, phổ biến dường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước về dân số và kế hoạch hóa gia đình.

Chính sách dân số là những chủ trương và biện pháp của Đảng và nhà
nước nhằm điều tiết quá trình biến đổi dân số dể phục vụ cho những mục tiêu
nhất định, được đưa ra dưới dạng tuyên bố lập trường, quan diểm, các đạo
luật, sắc lệnh hoặc các chương trình quản lý. Chính sách dân số cũng có thể
được nghiên cứu và đưa ra cho những bộ phận dân cư lớn, nhỏ khác nhau cho
phù hợp với diều kiện cụ thể ở từng thời diểm cụ thể, cho những nhóm người
cụ thể chẳng hạn cho từng nhóm dân tộc hoặc từng cộng đồng tôn giáo.


Có rất nhiều yếu tố liên quan tới chính sách dân số, nhưng quan
trọng nhất là sinh, tử và di cư, bởi vì mọi biến đổi dân số học chủ yếu chịu
ảnh hưởng từ ba yếu tố đó. Tuy nhiên, sinh đẻ được quan tâm nhiều nhất, đặc
biệt là ở các nước đang cố gắng giảm mạnh sự gia tăng dân số như Việt Nam.

- Nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ và tinh thần.

9

Về mặt nghiệp vụ báo chí, có 2 loại chương trình tun truyền đường
lối, chính sách về dân số và kế hoạch hóa gia đình:

Loại thứ nhất gồm những chương trình mà trong đó nội dung chương
trình chỉ đề cập tới đường lối và chính sách về dân số và kế hoạch hóa gia
đình (hình thức thể hiện thường là chương trình phổ biến kiến thức). Loại này
thường dược sử dụng trong trường hợp có những chính sách mới, những nghị
định, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, của Nhà nước mới được ban hành về lĩnh
vực dân số và kế hoạch hóa gia đình hoặc có liên quan đến những vấn để dân
số và kế hoạch hóa gia đình.

Loại thứ hai: Nội dung tuyên truyền phổ biến đường lối chính sách về
dân số của Đảng và nhà nước lồng ghép trong các nội dung khác của chương
trình. Cách thực hiện là trong quá trình để cập tới một nội dung nào đó thì đưa
các chủ trương, đường lối vào đó theo cách chủ trương đường lối đi vào cuộc
sống.

Ngoài ra, hằng năm các báo đài truyền hình cịn đưa thơng tin về ngày
Dân số thế giới là một sự kiện thường niên diễn ra vào ngày 11/7 hàng năm,
nhằm nâng cao nhận thức của toàn thế giới về các vấn đề dân số toàn cầu.


Các sự kiện truyền thông trọng điểm sẽ tập trung vào các vấn đề đang
đặt ra đối với công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình: Chăm sóc sức khỏe
sinh sản vị thành niên, thanh niên; mất cân bằng giới tính khi sinh; duy trì
vững chắc mức sinh thay thế; nâng cao chất lượng dân số; cải thiện sức khỏe
bà mẹ và trẻ em; cơ cấu dân số vàng, già hóa dân số; chăm sóc sức khỏe
người cao tuổi; tư vấn và khám sức khỏe trước hôn nhân.

Bên cạnh đó, ngành dân số tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo, tọa đàm
nhằm thảo luận, chia sẻ về thực trạng, thách thức và giải pháp từng bước giải
quyết vấn đề chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên trong
những năm tới; triển khai các loại hình cung cấp thơng tin, dịch vụ chăm sóc

10

sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình, nâng cao chất lượng dân số cho
nhân dân vùng sâu, vùng cao, vùng biển, đảo và ven biển.

Đặc biệt, các đơn vị chức năng tiến hành kiểm tra, giám sát, sơ kết,
đánh giá việc thực hiện các chủ trương, luật pháp, chính sách, tài liệu hiện
hành của Đảng và Nhà nước về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, nhất
là thực hiện chủ trương, luật pháp, chính sách về chăm sóc sức khỏe sinh sản,
vị thành niên, thanh niên các cấp như: thực trạng, khó khăn, thách thức mà trẻ
em gái vị thành niên đang gặp phải và đưa ra các giải pháp, chính sách nhằm
giải quyết vấn đề.

Tóm lại: Cho dù có những hình thức, cách thức thể hiện khác nhau
nhưng nội dung tuyên truyền, phổ biến đường lối của Đảng và Nhà nước về
dân số luôn được chú trọng trong tất cả các chương trình. Nếu nói một cách
chi tiết thì trong tất cả các nội dung chương trình tuyên truyền vận động dân

số và kế hoạch hóa gia đình đều có sự hiện diện của tất cả những quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về dân số.

2.3.2 Phổ biến kiến thức, kinh nghiệm, nâng cao trình độ
tri thức về dân số

Thực tế cho thấy trong tất cả các chương trình dân số của các đài
truyền hình đều có sự đan xen kết hợp cả phổ biến kiến thức lẫn những kinh
nghiệm, những hiểu biết về vấn để dân số.

a. Phổ biến kiến thức, kinh nghiệm về dân số:

Các kinh nghiệm phổ biến chủ yếu là các mơ hình hoạt động có hiệu
quả trong cơng tác dân số (về một địa phương, một vùng quê nào đó); những
tấm gương về các gia đình ít con, ni con khoẻ, dạy con ngoan; các mơ hình
làm kinh tế giỏi, xây dựng cuộc sống đảm bảo chất lượng..

Thực tế thì nội dung của những phóng sự phổ biến kinh nghiệm này
nhiều khi khơng phải là những kiến thức mới. Tuy nhiên như người ta nói: để

11

cái mới đi vào cuộc sống hoà nhập vào cuộc sống thì phải có thời gian nhất
định. Tun truyền là một cách để nhắc đi nhắc lại các kiến thức đó trong suốt
thời gian đó theo kiểu “mưa dầm, thấm lâu".

Các chương trình có nội dung phổ biến kiến thức, kinh nghiệm, những
hiểu biết về dân số và kế hoạch hóa gia đình cũng thường để cập tới những
vấn đề hết sức cụ thể, các địa danh cụ thể, các giải pháp cụ thể cho vấn để
được ra trong chương trình.


Nội dung phổ biến kiến thức, kinh nghiệm cịn bao gồm những chương
trình có tính chất đánh giá, tổng kết hoạt động dân số ở một số địa phương.
Tính chất tổng kết phong trào ở đây thực chất là một bản báo cáo bằng hình
ảnh (ngồi việc phát sóng trên truyền hình, cịn có thể nhân bản làm tài liệu
truyền thông).

b Loại chương trình nâng cao trình độ tri thức về dân số
Trong các nội dung của chương trình dân số thì loại chương trình này
khó thực hiện nhất, bởi nó địi hỏi các phóng viên phải có một khả năng tư
duy và tổng hợp rất nhiều kiến thức văn hoá - kinh tế - xã hội thì mới có thể
truyền đạt được nội dung cũng như nâng cao hiệu quả tun truyền. Đối
tượng tun truyển của các chương trình có nội dung này cũng khơng phải
dành cho cơng chúng nói chung mà thường dành cho tầng lớp trí thức, các cấp
lãnh đạo chính quyền, bản ngành đồn thể, các nhà hoạch định chính sách.
Những chương trình loại này thường có nội dung tương đối khác so với
những kiến thức dân số thông thường. Ví dụ như nội dung để cập tới việc
nâng cao chất lượng cuộc sống; về nguồn nhân lực... Chất liệu để thực hiện
các chương trình loại này có nhiều điểm tương đồng với chất liệu thực hiện
thể loại phim tài liệu, lời bình thường mang nhiều ý nghĩa sâu sắc, có tính
khái qt vấn đề ở tầng vĩ mơ.

12

Tuy nhiên hiện nay do nhiều yếu tố khách quan (như đã nói ở trên về
những yêu cầu khắt khe với loại chương trình này) cũng như tính chất và thời
điểm thơng tin hiện nay chưa phù hợp với việc tuyên truyền dân số theo kiểu
như thế này (chỉ khi nào người dân đã có những kiến thức đầy đủ và một ý
thức thật sự về trách nhiệm của mình với các vấn để dân số thì việc tun
truyền này mới có hiệu quả thực sự) nên việc thực hiện các chương trình như

thế này vẫn còn hạn chế về số lượng.

2.3.3 Giáo dục và đào tạo các kỹ năng về sức khoẻ sinh sản và chăm
sóc sức khoẻ sinh sản.

Như chúng ta đã biết, sức khoẻ sinh sản và chăm sóc sức khoẻ sinh sản
là những vấn để cực.kỳ quan trọng trong công tác dân số, sự tồn tại và phát
triển của giống nòi. Ở nhiều nước trên thế giới khái niệm sức khoẻ sinh sản và
chăm sóc sức khoẻ sinh sản (SKSS) đã được sử dụng trong các hoạt động
chương trình dân số từ cách đây hàng thập kỷ. Tuy nhiên việc tuyên truyền về
sức khỏe sinh sản ở khu vực Châu Á, trong đó có Việt Nam thì rất mới, một
phần cũng bởi vì những lý do tế nhị khi đụng chạm tới những quan niệm về
tình dục của người Phương Đơng.

Trong thời gian vừa qua, các đài truyền hình cũng đã đưa các đề tài sức
khoẻ sinh sản thành một một nội dung quan trọng trong các chương trình sản
xuất và phát sóng.

Việc sản xuất chương trình chăm sóc sức khoẻ sinh sản được thực hiện
dựa theo các nội dung về chăm sóc sức khoẻ sinh sản đã được ban hành gồm :

- Giáo dục truyền thông về sức khỏe sinh sản cho tất cả mọi người.

- Làm mẹ an toàn.

- Thực hiện KHHGÐ.

- Nạo hút thai an toàn.

- SK vị thành niên.,


13

- Phòng tránh các bệnh lây truyền qua đường tình dục trong đó có cả
HIV/AIDS.

- Vơ sinh.

- Những hiểu biết về các bệnh ung thư đường sinh sản và ung thư vú.

- Giáo dục tình dục.

- Bệnh lý của phụ nữ tuổi mãn kinh hay phụ nữ lớn tuổi.

Phần lớn các chương trình có nội dung sức khỏe sinh sản và chăm sóc
sức khỏe sinh sản đều có sự phối hợp hỗ trợ về chun mơn từ phía ngành y
tế, địa điểm thường ở các bệnh viện, phòng bệnh. Một phần cịn lại của các
chương trình này để cập tới một số hoạt động tuyên truyền vận động sức khỏe
sinh sản.

Mục tiêu của các chương trình này là phổ biến các kiến thức về vấn để
sinh sản (trong đó có các bệnh lý liên quan đến bộ máy sinh sản) nhằm nâng
cao hiểu biết của công chúng về vấn đề SKSS, về giới tính và những vấn để
có liên quan tới SKSS để tự biết cách chăm sóc SKSS cho bản thân, đảm bảo
chất lượng giống nòi cũng như đảm bảo cho mình có một đời sống tình dục
lành mạnh, an toàn.

2.3.4 Củng cố và nâng cao các giá trị về văn hoá - xã hội có liên quan
tới lĩnh vực dân số


Các chương trình thuộc loại cùng cố nâng cao các giá trị văn hố - xã
hội có liên quan tới dân số thường được để cập nhiều dưới khía cạnh đạo đức
và các giá trị tinh thần. Gìn giữ và bảo tồn các giá trị tinh thần, đạo đức truyền
thống. Đây là một trong những hoạt động chính nằm trong chương trình nâng
cao chất lượng cuộc sống của các hoạt động dân số.

Tóm lại: Tuyên truyền vận động dân số là một lĩnh vực rộng lớn, bao
hàm nhiều vấn để kinh tế - văn hoá - xã hội. Mục tiêu chung của tuyên truyền
vận dộng dân số là cung cấp một cách chủ động các kiến thức và kỹ năng cần

14

thiết về dân số nhằm góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Vì
vậy việc chia nội dung các chương trình tun truyền vận động dân số cũng
khơng thể hồn tồn chính xác tuyệt đối. Tuy nhiên việc phân chia như vậy có
thể trở thành những căn cứ để các phóng viên, biên tập viên có thể dựa vào đỏ
để thực hiện tốt hơn các nội dung chương trình, mang lại hiệu quả cao cho
cơng tác tun truyền vận động dân số trên sóng truyền hình.

Hiện nay các nội dung về chính sách dân số thường có hình thức thể
hiện dưới 4 thể loại:

- Phóng sự và phóng sự chính luận.
- Tọa đàm.

- Chương trình phổ biến kiến thức.
2.4 Kết quả tác động của truyền thông
Công tác truyền thông chuyển đổi hành vi về dân số có bước đột phá.
Đây là một giải pháp cơ bản, triển khai sâu rộng, thường xuyên ở tất cả các
cấp, các ngành, cơ quan, đoàn thể, tổ chức, cộng đồng, gia đình và từng cặp

vợ chồng.
Nội dung truyền thông thiết thực, sinh động, dễ hiểu đã được đưa vào
các cuộc thi, sinh hoạt văn hóa cộng đồng, giáo dục trong và ngồi nhà
trường. Hình thức, sản phẩm truyền thơng đa dạng, phong phú, chất lượng
ngày càng cao, phù hợp với từng nhóm đối tượng và lứa tuổi.
Đội ngũ cán bộ chuyên trách, cộng tác viên, tuyên truyền viên với
phương châm “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng” kiên trì, thường
xuyên, liên tục tuyên truyền vận động đến từng cặp vợ chồng, từng gia đình.
Phát huy vai trị người có uy tín trong cộng đồng trong truyền thơng, vận
động thực hiện chính sách dân số. Hàng chục nghìn câu lạc bộ, mơ hình
truyền thơng về dân số hoạt động hiệu quả ở mọi vùng miền.

15

Các phương tiện thông tin đại chúng tăng tần suất, thời lượng, chuyên
trang, chuyên mục, cùng hàng triệu pano, áp phích, tờ rơi, các cuộc mít tinh,
tuần hành… đã đưa thơng điệp “mỗi cặp vợ chồng chỉ có 1-2 con” lan tỏa,
thấm sâu trong toàn xã hội.

Nội dung thực hiện kế hoạch hóa gia đình được lồng ghép trong tất cả
các chương trình phát triển kinh tế-xã hội và được coi là một tiêu chí quan
trọng trong thi đua, khen thưởng.

Chính vì vậy, cơng tác truyền thơng đã góp phần đạt được các kết quả
quan trọng của công tác dân số như: tốc độ gia tăng dân số đã được khống
chế, Việt Nam đã đạt mức sinh thay thế từ năm 2006, sớm hơn 10 năm so với
mục tiêu đề ra và tiếp tục duy trì cho đến nay; cơ cấu dân số chuyển dịch tích
cực, dân số trong độ tuổi lao động tăng mạnh, nước ta bước vào thời kỳ dân
số vàng từ năm 2007; chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt, tuổi thọ
trung bình đạt 73,6 tuổi năm 2019, cao hơn nhiều nước có cùng mức thu nhập

bình quân đầu người.

Hiệu quả công tác truyền thông chuyển đổi hành vi về dân số chưa
đồng đều giữa các khu vực, giữa nhóm đối tượng. Nhận thức về bình đẳng
giới trong một bộ phận nhân dân còn chưa đúng đắn. Tư tưởng trọng nam hơn
nữ ở nhiều vùng còn phổ biến.

Truyền thông, giáo dục về sức khỏe sinh sản vị thành niên, phịng
chống xâm hại tình dục trẻ em hiệu quả chưa cao. Giáo dục giới tính chưa đáp
ứng yêu cầu cung cấp kiến thức, kỹ năng cần thiết cho giới trẻ.

Nội dung truyền thông mới chủ yếu tập trung vào kế hoạch hóa gia
đình, chưa chú ý các yếu tố của dân số và kế hoạch hóa gia đình. Thời gian
gần đây, cơng tác truyền thơng có sự suy giảm cả về cường độ và hiệu quả.

16

Những hạn chế yếu kém trên đây do nhiều nguyên nhân, trong đó
nguyên nhân chủ quan là chủ yếu:

– Một số cấp ủy, chính quyền chưa nhận thức đúng và đầy đủ về tính
chất lâu dài, khó khăn, phức tạp, tầm quan trọng và ý nghĩa của cơng tác dân
số và kế hoạch hóa gia đình; lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác truyền
thông chưa quyết liệt, chưa hiệu quả.

– Trong nhận thức và hành động của đội ngũ cán bộ làm cơng tác dân
số vẫn cịn nặng về kế hoạch hóa gia đình, chưa chú trọng các mặt cơ cấu,
phân bố, chất lượng dân số và tác động qua lại với phát triển.

– Tư tưởng muốn có nhiều con, trọng nam hơn nữ vẫn còn khá phổ

biến trong một bộ phận nhân dân, kể cả cán bộ, đảng viên.

Một số bài học kinh nghiệm
– Quyết tâm và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo
của cấp ủy đảng là yếu tố quyết định thành công của công tác dân số, đặc biệt
là công tác truyền thông.
– Tuyên truyền vận động phải gắn với hoàn thiện pháp luật và kỷ
cương, kỷ luật, đề cao tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên.
Thực hiện quyền phải đi đôi với nghĩa vụ công dân.
– Lực lượng cán bộ làm công tác truyền thông dân số phải thống nhất,
đủ mạnh, vừa phải có chun mơn nghiệp vụ, vừa phải có kỹ năng truyền
thơng và phải được tập huấn, cập nhật kiến thức thường xuyên về công tác
dân số trong tình hình mới.
2.5 Nhiệm vụ và giải pháp

Để nâng cao chất lượng tuyên truyền trên kênh truyền hình, tác giả
đề xuất một số nhiệm vụ và giải pháp như sau:

17


×