TIỂU LUẬN
MƠN: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ Q TRÌNH CHÍNH SÁCH
Đề tài:
VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH
CHÍNH SÁCH XĨA ĐĨI GIẢM NGHÈO
MỤC LỤC
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI...............................................................................1
II. NỘI DUNG.................................................................................................2
2.1. Những cơ chế chủ yếu để đảng chính trị tham gia vào quy trình
chính sách......................................................................................................2
2.2. Vai trị của đảng trong chính trị trong quy trình chính sách............3
2.3 Vai trị của Đảng cộng sản Việt Nam trong q trình chính sách xóa
đói giảm nghèo..............................................................................................8
III. KẾT LUẬN.............................................................................................20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................21
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thế giới đang đứng trước thời khắc trọng đại của lịch sử là đã tiến vào
thập niên đầu của thế kỷ XXI với một nền văn minh rực rỡ nhưng cũng ngổn
ngang những vấn đề gay gắt mang tính tồn cầu. Nó chứa đựng trong mình cả
niềm vui và sự bất hạnh, cả nụ cười và nước mắt, cả hạnh phúc và lo toan.
Một trong những nỗi lo toàn cầu, nỗi đau nhân loại là sự đói nghèo trầm trọng
trên một phạm vi vô cùng rộng lớn.
Như thế đủ thấy đói nghèo và giải quyết vấn đề nghèo đói mang tính
phổ biến, khơng chỉ là cơng việc của riêng nước ta. Giải phóng con người
khỏi mọi áp bức, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
người dân là mục đích cao cả, nhất quán, xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người chỉ rõ, nhân dân lao động là lực
lượng vĩ đại từng bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, đã bao đời
chịu đựng gian khổ, đã trải qua biết bao hy sinh trong chiến tranh cho nên
mặc dù đã thoát khỏi áp bức của đế quốc nhưng họ đang cịn thiếu thốn và
thường xun bị đói nghèo đe dọa[11], “Chính sách của Đảng và Chính phủ
là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và
Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là
Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”[10]. Do
đó, lãnh đạo tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa nhằm xóa đói giảm
nghèo, không ngừng nâng cao đời sống cho mọi người dân phải là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Vai trị của Đảng cộng sản Việt
Nam trong q trình chính sách xóa đói giảm nghèo” làm tiểu luận hết mơn
của mình để tìm hiểu rõ vấn đề này.
1
II. NỘI DUNG
2.1. Những cơ chế chủ yếu để đảng chính trị tham gia vào quy
trình chính sách
Mỗi mơ hình hệ thống chính trị khác nhau, mơ hình đảng chính trị khác
nhau, sự tham gia của các đảng chính trị vào quy trình chính sách cũng khơng
giống nhau. Tuy nhiên, khi khảo sát các mơ hình thể chế chính trị, vẫn có
những cơ chế hay những cách thức chung để đảng chính trị tham gia vào quy
trình chính sách. Mức độ tham gia đến đâu của các đảng chính trị vào quy
trình chính sách phụ thuộc vào các mơ hình đảng chính trị khác nhau ở các
quốc gia và xét đến cùng phụ thuộc vào vị trí của đảng chính trị đó trong hệ
thống chính trị. Theo đó, vai trị của đảng cầm quyền sẽ khơng giống với vai
trị của các đảng không cầm quyền, và trong số các đảng khơng cầm quyền thì
vai trị của đảng đối lập cũng rõ nét hơn các đảng còn lại. Về cơ bản, có
những cơ chế chủ yếu sau đây để đảng chính trị tham gia vào quy trình chính
sách:
2.1.1. Cơ chế định hướng, lãnh đạo
Về cơ bản, đảng định hướng, lãnh đạo các ưu tiên chính sách thơng qua
các đường lối, quyết sách của đảng. Các chính sách của nhà nước xuất phát từ
cương lĩnh, chủ trương, chiến lược lớn của đảng cầm quyền, tiếp theo, nhà
nước sẽ thể chế hóa các chủ trương, đường lối và quyết sách lớn ấy thành
luật, thành chính sách của nhà nước.
Bên cạnh đó, đảng cũng định hướng các ưu tiên chính sách thơng qua
chính đội ngũ đảng viên chủ chốt trong nhà nước bằng cách đảng đưa các
đảng viên xuất sắc vào các vị trí chủ chốt của nhà nước, đồng thời đảng tác
động tới đảng viên để đưa đường lối của đảng vào nhà nước.
Ngoài ra, thông qua giám sát và kỷ luật đảng, các đảng chính trị cũng
có thể ảnh hưởng đến chính sách và quy trình chính sách. Trước hết, đảng
quan tâm và giám sát việc nhà nước thể chế hóa các chủ trương, đường lối và
2
quyết sách của đảng. Sau đó, đảng giám sát hoạt động của đảng viên và định
hướng việc đảng viên của đảng đồng thời là các nghị sĩ bỏ phiếu cho chính
sách đã được đảng thơng qua từ trước.
2.1.2. Cơ chế giám sát, phản biện
Cơ chế này thường được thực hiện bởi đảng đối lập và các đảng nhỏ.
Họ sẽ tham gia bằng cách tìm kiếm các lập luận, bằng chứng để bác bỏ hoặc
ủng hộ chính sách; cũng có thể là tham gia tranh luận, phản biện chính thức
đối với các vấn đề hoặc phương án chính sách.
Tùy vào vị trí, uy tín của các đảng trong hệ thống chính trị mà cách
thức và hình thức tác động vào quy trình chính sách có thể khác nhau. Các
đảng có thể tham gia một cách trực tiếp như đảng cầm quyền và đảng đối lập;
cũng có thể thơng qua các hình thức gián tiếp để tác động đến chính sách như
phát biểu, tạo dư luận, gây áp lực, tìm kiếm liên minh...
2.1.3. Cơ chế tác động thông qua vận động cử tri
Khi có ý tưởng chính sách, các đảng đều có các dự tính vận động cử tri
tùy theo sự phức tạp của vấn đề để có được sự ủng hộ hay phản đối đề xuất
chính sách. Cử tri là lực lượng chính trị vơ cùng hùng hậu có khả năng tạo ra
sức ép rất lớn đối với các q trình chính trị nói chung và q trình chính sách
cơng nói riêng. Thơng qua hoạt động vận động, thuyết phục, lôi kéo, tập hợp
những người ủng hộ đảng tạo cơ sở xã hội cho sự tồn tại của đảng mình, các
đảng chính trị cũng sẽ gián tiếp tác động đến quy trình chính sách thơng qua
việc tác động đến tâm lý, tình cảm, ý chí và hành vi của các cử tri ủng hộ hay
không ủng hộ đảng mình.
2.2. Vai trị của đảng trong chính trị trong quy trình chính sách
2.2.1. Ở giai đoạn lựa chọn vấn đề chính sách và xác lập chương
trình nghị sự
Đối với đảng cầm quyền, như trên đã phân tích, đường lối, chính sách
của đảng chính là điểm xuất phát của các chính sách của nhà nước. Thậm chí,
3
ở các nước xã hội chủ nghĩa, vì Đảng Cộng sản là lực lượng duy nhất nắm
quyền lãnh đạo nên các chính sách, pháp luật của nhà nước được coi là sự cụ
thể hóa, thể chế hóa về mặt pháp lý các chủ trương, đường lối và chính sách
lớn của Đảng. Cũng có thể nói, đảng đóng vai trị quan trọng trong việc khởi
xướng, đề xuất ý tưởng chính sách. Các đề xuất chính sách của đảng có thể
được thực hiện thơng qua các nghị sỹ, các quan chức chính phủ, nhân sự các
bộ là đảng viên của đảng.
Các tác động đến chính sách đơi khi chỉ là sự thể hiện lợi ích của một
nhóm tầng lớp, giai cấp trong xã hội. Do đó, sự tham gia của đảng chính trị
vào quy trình chính sách chính là sự kết và biểu đạt lợi ích của các nhóm khác
nhau trong xã hội. Cơ cấu xã hội càng đa dạng thì càng có nhiều bằng chứng
sinh động về sự tham gia của các đảng chính trị vào quy trình chính sách.
Đảng chính trị đại diện cho lợi ích của nhóm, lực lượng nào trong xã hội sẽ
ủng hộ và bảo vệ cho những chính sách có lợi cho nhóm ấy. Chẳng hạn, ở
Anh, Cơng đảng trên danh nghĩa bảo vệ quyền lợi cho quần chúng lao động,
đại diện cho giai cấp công nhân, tầng lớp trung lưu dưới nên sẽ ủng hộ các
chính sách nhằm mở rộng chương trình phúc lợi xã hội, quan tâm đến người
nghèo, thu thuế cao đối với người giàu; trong khi đó, Đảng Bảo thủ đại diện
cho quyền lợi của tầng lớp trung lưu và thượng lưu, đại tư bản nên có thiên
hướng ủng hộ “tự do kinh doanh”, xóa bỏ chương trình quốc hữu hóa của
Cơng đảng, tư hữu hóa nền cơng nghiệp, cắt giảm chương trình phúc lợi xã
hội, giảm thuế cho người giàu. Cũng tương tự ở Mỹ, Đảng Dân chủ thường
bảo vệ quyền lợi giới lao động, chủ trương phân phối lại sản phẩm quốc dân
có lợi cho tầng lớp nghèo và trung lưu, mở rộng hệ thống bảo hiểm và phúc
lợi xã hội; còn Đảng Cộng hòa thường gắn với quyền lợi của giới kinh doanh,
tài chính, cơng nghiệp nên chủ trương bảo thủ trong kinh tế, ủng hộ nguyên
tắc điều tiết nhà nước đối với kinh tế thị trường, phản đối vai trò phân phối lại
phúc lợi xã hội.
4
Cách thức phổ biến để đảng chính trị tác động đến chính sách là thông
qua thuyết phục, vận động sự ủng hộ từ các thành viên trong và ngoài đảng
cho những đề xuất hoặc các phương án chính sách.
Các đảng khơng cầm quyền cũng có thể tham gia vào quy trình chính
sách bằng phản biện, tranh luận chính sách. Về cơ bản, sẽ có những quy định
cụ thể cho điều này. Chẳng hạn như ở Anh, sau khi đại diện đảng cầm quyền
trình bày về vấn đề chính sách, đại diện của các đảng khác sẽ phát biểu phản
biện, nhưng thứ tự ưu tiên sẽ là đại diện của chính phủ bóng cho ý kiến trước,
sau đó mới đến các đảng nhỏ. Thơng qua q trình phản biện và tranh luận tại
nghị trường, các ý kiến, quan điểm của đảng sẽ được thể hiện và qua đó có
những tác động nhất định đến lựa chọn vấn đề chính sách.
Sau khi vấn đề chính sách đã được lựa chọn, các đảng viên của đảng
cũng sẽ tham gia vào quá trình bỏ phiếu lựa chọn nghị trình chính sách. Đây
cũng là một biểu hiện rõ nét cho thấy sự tham gia của đảng chính trị vào giai
đoạn xác lập chương trình nghị sự. Kế đó, giám sát việc bỏ phiếu chính sách
cũng được các đảng quan tâm thực hiện. Cũng chính thơng qua hoạt động
này, các đảng chính trị có thêm cơ hội để tác động nhằm thay đổi chính sách
theo hướng có lợi cho đảng mình.
Như vậy, dù mơ hình hệ thống chính trị có khác nhau thì sự tham gia
của đảng chính trị vào giai đoạn lựa chọn vấn đề chính sách và xác lập nghị
trình đều tính phổ biến. Vấn đề là ở chỗ, vai trò hay mức độ tham gia của các
mang đảng như thế nào là tùy thuộc vào tiềm lực của mỗi đảng trong chính
phủ và nghị viện.
2.2.2. Ở giai đoạn thảo luận, xây dựng và ban hành chính sách
Giai đoạn thảo luận, xây dựng chính sách là giai đoạn rất quan trọng
trong quy trình chính sách. Chính ở giai đoạn này, các phương án chính sách
được đưa ra, bàn bạc một cách kĩ lưỡng để đảm bảo các lựa chọn chính sách
đều phù hợp và mang tính thuyết phục cao. Các nhiệm vụ trong giai đoạn này
đều được thực hiện mang tính chuyên mơn, kỹ thuật cao. Đây cũng chính là
5
đòi hỏi đối với sự tham gia của các đảng chính trị (nếu có) vào quy trình
chính sách. Vì là hoạt động mang tính kỹ thuật, chun mơn nên đảng thường
tác động vào giai đoạn này thông qua sự tham gia của các nhà tư vấn, chuyên
môn của đảng. Tiếng nói, ý kiến của họ sẽ chính là sự biểu đạt quan điểm của
đảng chính trị mà họ đại diện nhưng dưới cách khách quan, khoa học và đáng
tin cậy hơn. Bên cạnh đó, đảng cũng tham gia vào việc giám sát để đảm bảo
tính mục tiêu, tính khả thi trong xây dựng chính sách. Đây là cách thức giúp
đảng chính gián tiếp tác động đến chính sách.
Để hiện thực hóa quan điểm và lợi ích của đảng một cách thiết thực và
mạnh mẽ, đảng chính trị tiến hành nhiều hoạt động mang tính chính trị để gây
ảnh hưởng đến quy trình chính sách. Trước tiên, đảng dự tính khả năng thơng
qua chính sách để có những phản ứng chính sách hợp lý. Để tác động cụ thể
và mạnh mẽ hơn, đảng sẽ chú trọng đến việc thuyết phục, động viên những
thành viên trong đảng bỏ phiếu hoặc không bỏ phiếu cho một quyết định
chính sách nào đó có lợi hoặc bất lợi cho đảng. Để điều này được thực hiện
một cách nghiêm túc và có khả năng kiểm sốt được, các đảng chính trị
thường duy trì một kỷ luật đảng thực sự chặt chẽ. Điều này sẽ đảm bảo rằng
việc bỏ phiếu của các nghị sĩ là đảng viên luôn phù hợp với quan điểm và lợi
ích của đảng. Trong trường hợp cần thiết, đảng cũng có thể thực hiện các biện
pháp thương lượng, thỏa hiệp hay bàn bạc, thảo luận trong nhóm đảng viên
của đảng ở bộ, chính phủ hay nghị viện. Thơng qua đó giúp đảng nắm bắt tốt
hơn các thơng tin và kịch bản chính sách, đồng đảm bảo chắc chắn hơn về sự
kiểm soát tốt của đảng đối với các đảng viên của mình.
2.2.3. Ở giai đoạn thực hiện chính sách
Về hình thức, quá trình thực hiện chính sách cơng chủ yếu do các cơ
quan, tổ chức được nhà nước lựa chọn thực hiện dựa trên khả năng đáp ứng
yêu cầu của các tổ chức này. Tuy nhiên,trong thực tế, các đảng chính trị cũng
có những tác động rất rõ nét nhằm gây ảnh hưởng ở giai đoạn này.
6
Trước hết, đảng chính trị tham gia thực hiện chính sách bằng cơ chế
giám sát của các đảng. Các đảng chính trị tuy khơng trực tiếp thực hiện chính
sách nhưng họ sẽ tiến hành giám sát đối với các chủ thể thực thi chính sách.
Mục đích của hoạt động này là nhằm đảm bảo q trình thực thi chính sách
đúng mục tiêu, đúng quy trình, và tuân thủ pháp luật. Sau nữa, hoạt động
giám sát của các đảng, cụ thể là đảng nhỏ và các đảng đối lập để ngăn chặn
tình trạng độc quyền và những tiêu cực khác của đảng cầm quyền, đảm bảo
các lợi ích nếu có của các đảng nhỏ sẽ được thực hiện hoặc không bị xâm hại,
đảm bảo các nguồn lực nhà nước và xã hội được sử dụng minh bạch, đúng
mục đích và hiệu quả.
Các đảng chính trị cũng gây ảnh hưởng đến q trình thực hiện chính
sách bằng cách huy động sự ủng hộ chính trị và các nguồn lực xã hội cho
chính sách. Cụ thể, để có được những ủng hộ về chính trị cho chính sách,
đảng sẽ tiến hành truyện truyền, vận động, giải thích chính sách,tạo dư luận
tích cực về chính sách để thúc đẩy việc thực hiện chính sách. Cơng tác tun
truyền, giải thích và phổ biến chính sách được thực hiện tốt sẽ tạo môi trường
tâm lý – xã hội thuận lợi cho việc thực hiện chính sách đạt hiệu quả cao. Hoặc
cũng có thể là ngược lại, đảng chính trị tìm cách tun truyền, vận động, tìm
kiếm sự ủng hộ để chống lại theo hướng cản trở hay trì hỗn việc thực hiện
một chính sách bất lợi cho đảng. Về nguồn lực thực hiện chính sách, đảng
chính trị sẽ tham gia huy động và phân bổ các nguồn lực cho việc thực hiện
các chính sách theo hướng có lợi cho mình. Khi cần thiết, các đảng cũng có
thể đưa ra những phản hồi, phê phán, chỉ trích đối với q trình thực hiện
nhằm thay đổi nội dung nào đó trong q trình này. Đơi khi những phê phán,
chỉ trích có thể dẫn đến việc chấm dứt sớm một chính sách trong thất bại.
2.2.4. Ở giai đoạn đánh giá chính sách
Việc đánh giá chính sách có thể được tiến hành trong nội bộ đảng hoặc
do các đảng đối lập thực hiện. Các kết quả của đánh giá chính sách có thể
được công bố nếu cần thiết, phục vụ cho mục đích chính trị của đảng. Đảng
7
chính trị cũng có thể thơng qua đánh giá của các cơ quan có uy tín để tạo dư
luận nhằm củng cố hay làm mất uy tín của đối phương.
Cụ thể hơn, ở giai đoạn này, các đảng cầm quyền sẽ giám sát q trình
tổ chức thực hiện chính sách để đảm bảo các chính sách được thực hiện đúng
mục đích và chủ trương của đảng, huy động và tranh thủ sự đồng thuận xã hội
đối với các chính sách này, qua đó góp phần định lượng uy tín của đảng để có
những điều chỉnh hợp lý. Các đảng không cầm quyền cũng giám sát q trình
thực hiện chính sách cơng nhưng mục đích để đảm bảo cho việc thực hiện
chính sách ấy không đi chệch những mục tiêu đã được “thỏa thuận” tại quốc
hội/nghị viện, bảo vệ lợi ích của các giai tầng mà mình đại diện; hoặc là sử
dụng những kết quả đánh giá hòng gây áp lực đối với nhà nước, làm mất uy
tín của đảng cầm quyền hay bất kỳ một đảng hay liên minh đảng nào khác.
2.3 Vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong q trình chính sách
xóa đói giảm nghèo
2.3.1 Đảng cộng sản Việt Nam tác động đến chính sách xóa đói
giảm nghèo
Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ vào ngày 3/9/1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nêu 6 vấn đề cấp bách, trong đó cứu đói là một trong sáu
nhiệm vụ hàng đầu. Người đã nhiều lần nhấn mạnh nhiệm vụ của Nhà nước là
phải chăm lo cho dân có cơm ăn, áo mặc, chỗ ở và được học hành.
Người nói: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói,
chết rét, thì tự do, độc lập cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do,
độc lập khi mà dân được ăn no, măc đủ.”
Thực hiện lời căn dặn của Người, giảm nghèo luôn được Đảng cộng
sản Việt Nam và Nhà nước xác định vừa là mục tiêu, vừa là yêu cầu để phát
triển bền vững. Giảm nghèo vì thế đã trở thành một chủ trương lớn, một
chương trình của quốc gia, giàu tính nhân văn, thể hiện truyền thống tốt đẹp
của dân tộc trong suốt 74 năm qua.
8
2.3.2 Nội dung và mục đích của chính sách
Đẩy mạnh xố đói, giảm nghèo, hạn chế phân hoá giàu nghèo được
Đảng ta xác định là nhiệm vụ trọng điểm trong quá trình phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước.
Nhiệm vụ đó địi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý và
điều hành của Nhà nước, sự vào cuộc của các đồn thể chính trị, xã hội, sự nỗ
lực của toàn dân, nhằm tăng giàu, bớt nghèo, hạn chế phân hố giàu nghèo,
góp phần thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Xố đói, giảm nghèo, hạn chế phân hoá giàu nghèo là nội dung được đề
cập nhiều trong các văn kiện của Đảng. Chủ trương “khuyến khích làm giàu
hợp pháp đi đơi với xố đói, giảm nghèo, khơng để diễn ra chênh lệch quá
đáng về mức sống và trình độ phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân
cư”[1] được cụ thể hoá thành các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, thực
hiện cơng bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội. Thành công của Việt Nam sau hơn
20 năm tấn công vào đói nghèo là đã đưa nước ta từ một nước nghèo trở
thành quốc gia có thu nhập trung bình.
Ở nước ta hiện nay, việc xố đói, giảm nghèo đang hướng mạnh tới thu
hẹp khoảng cách giàu nghèo. Đây là vấn đề có liên quan tới cơng bằng, bình
đẳng xã hội, ảnh hưởng tới sự ổn định chính trị. Vấn đề này được nhấn mạnh
trong nhiều văn kiện của Đảng, trở thành hệ thống quan điểm lãnh đạo, chỉ
đạo trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Đại hội lần thứ VIII, Đảng ta đã xác định, thực hiện kinh tế thị trường
phải “thừa nhận trên thực tế... sự phân hoá giàu nghèo nhất định trong xã
hội”[2], coi đó là một hiện tượng xã hội đang hiện hữu, chi phối đời sống xã
hội. Đại hội chỉ rõ, khuyến khích các tầng lớp nhân dân vươn lên làm giàu,
đẩy mạnh xố đói, giảm nghèo, hạn chế phân hố giàu nghèo gắn với mục
tiêu “phải ln ln quan tâm bảo vệ lợi ích người lao động, vừa khuyến
khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, coi trọng xố đói giảm
9
nghèo, từng bước thực hiện công bằng xã hội, tiến tới làm cho mọi người, mọi
nhà đều khá giả”[3].
Đại hội lần thứ IX, đã có bước phát triển mới: “Khuyến khích làm giàu
hợp pháp, đồng thời ra sức xố đói giảm nghèo, tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng
và năng lực sản xuất để các vùng, các cộng đồng đều có thể tự phát triển, tiến
tới thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội”[4].
Đại hội lần thứ X của Đảng tiếp tục chỉ rõ và đề ra mục tiêu cụ thể:
“Khuyến khích mọi người làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả các
chính sách xố đói, giảm nghèo”, “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục
tiêu xã hội trong phạm vi cả nước ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”[5]; phấn đấu đến
năm 2010, tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới còn 10 - 11% (năm 2005, tỉ lệ hộ
nghèo cả nước còn khoảng 22%).
Đặc biệt, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Đại
hội lần thứ XI của Đảng đã đề ra định hướng cơ bản: “Nâng cao thu nhập và
chất lượng cuộc sống của nhân dân. Tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn
lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội. Thực hiện
có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng
hoá các nguồn lực và phương thức để bảo đảm giảm nghèo bền vững, nhất là
tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn. Khuyến khích làm
giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu nhập trung bình khá trở lên. Có
chính sách và các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hoá giàu nghèo, giảm
chênh lệch về mức sống giữa nông thôn với đô thị”[6]. Chỉ tiêu phấn đấu cụ
thể: “Tỉ lệ hộ nghèo giảm 2%/năm”[7]; dựa trên cơ sở sự định hướng chiến
lược “Tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu
nhập tốt hơn. Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát
triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội. Khuyến khích làm giàu hợp pháp
đi đơi với xố nghèo bền vững; giảm dần tình trạng chênh lệch giàu nghèo
giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư”[8].
10
Như vậy, Đảng ta đã có cách nhìn ngày càng tồn diện và đưa ra những
chủ trương, biện pháp thiết thực để xoá đói, giảm nghèo, hạn chế phân hố
giàu nghèo trên cơ sở tiến hành đồng bộ các giải pháp phát triển cơ sở hạ tầng
gắn liền với phát triển văn hoá - xã hội; chú trọng đẩy mạnh việc thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường trợ giúp với đối
tượng yếu thế; tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình kinh tế - xã
hội, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Thực tiễn những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đã có
những chính sách, giải pháp tương đối đồng bộ, hiệu quả tập trung giải quyết
vấn đề xố đói, giảm nghèo và hạn chế phân hố giàu nghèo mang tầm quốc
gia được quốc tế ủng hộ và đánh giá cao. Thơng qua các chương trình xố đói
giảm nghèo, hàng triệu hộ gia đình, hàng chục triệu người thốt khỏi đói
nghèo, vươn lên làm giàu; góp phần hạn chế phân hố giàu nghèo, thực hiện
cơng bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội.
2.3.3 Mục đích của Đảng cộng sản Việt Nam tác động đến chính
sách xóa đói giảm nghèo
Ngay từ khi mới thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một
trong 6 nhiệm vụ đầu tiên của Chính phủ mới là “Diệt giặc đói”. Từ đó đến
nay, cơng tác xóa đói giảm nghèo luôn là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, Nhà
nước ta. Khái niệm “nghèo đa chiều” xác định rõ “nghèo đói” khơng chỉ là
tình trạng “đói ăn, thiếu uống”, hoặc thiếu các điều kiện sống, điều kiện sinh
hoạt cơ bản mà cịn bao gồm các yếu tố kìm hãm cá thể đó khơng tiếp cận
được đến các nguồn lực, thơng tin và dịch vụ; hoặc khơng biết và khơng thể
tìm ra các giải pháp cho bản thân để thoát ra khỏi tình trạng hiện có.
Do đó, để giải quyết vấn đề giảm nghèo, không chỉ dừng lại ở việc
cung cấp lương thực, thực phẩm, tạo việc làm cho người lao động mà còn
phải tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ cơ bản như giáo dục, y
tế, các nguồn vốn để phát triển sản xuất và đặc biệt là tạo cho họ các cơ hội để
có thể tự vươn lên thoát nghèo một cách bền vững.
11
2.3.4 Cơ chế tham gia của Đảng cộng sản Việt Nam vào quá trình
chính sách
Ngày 19/11/2015, một thay đổi có tính đột phá là Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Quyết định 59/2015/QĐ-TTg, về chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều
áp dụng cho giai đoạn 2016 – 2020. Theo đó xác định chuẩn nghèo mới thay
thế cho chuẩn nghèo cũ: quy định chuẩn nghèo mới ở khu vực nông thôn là
700.000 đồng/người/tháng (chuẩn cũ là 400.000 đồng/người/tháng); ở khu
vực thành thị 900.000 đồng/người/tháng (chuẩn cũ là 500.000
đồng/người/tháng); đồng thời quy định thêm chuẩn cận nghèo ở khu vực nông
thôn là 1.000.000 đồng/người/tháng; ở khu vực thành thị 1.300.000
đồng/người/tháng.
Điều quan trọng không kém là đã xác định rõ 10 chỉ số đo lường mức
độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản gồm: tiếp cận các dịch vụ y tế; bảo
hiểm y tế; trình độ giáo dục của người lớn; tình trạng đi học của trẻ em; chất
lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình qn đầu người; nguồn nước sinh hoạt; hố
xí/nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; tài sản phục vụ tiếp cận
thông tin. Từ 10 chỉ số này để xác định mức độ thiếu hụt tiếp cập đối với 5
dịch vụ xã hội cơ bản bao gồm: y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh,
thông tin.
Việc ban hành mức chuẩn nghèo mới và xác định những căn cứ để đo
lường; giám sát mức độ thiếu hụt về thu nhập và tiếp cận các dịch vụ xã hội
cơ bản của người dân chính là cơ sở để thực hiện các chính sách giảm nghèo
và an sinh xã hội bền vững, cũng như hoạch định các chính sách kinh tế - xã
hội khác trong giai đoạn 2016 – 2020.
Trong việc hoạch định các chính sách về xóa đói giảm nghèo chúng ta
cũng đã có những thay đổi rất căn bản. Trước đây có nhiều chương trình, dự
án về xóa đói giảm nghèo cùng song song tồn tại; hoặc có nhiều chương trình,
dự án ở những lĩnh vực khác nhau, nhưng có sự chồng chéo trên cùng một địa
bàn, cùng một đối tượng. Điều này dẫn đến tình trạng khó kiểm tra, kiểm sốt,
12
dàn trải, lãng phí nguồn lực, chạy theo phong trào, thành tích… Nhưng nay,
Chính phủ đã gộp tất cả lại trong một chương trình là “Chương trình mục tiêu
quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020” (Theo Quyết định
1722-QĐ/TTg, ngày 02/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ), với một đầu mối
quản lý chung nhất là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Trong đó bao
gồm 5 dự án thành phần:
Dự án 1: Chương trình 30a (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ
trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan chỉ đạo tổ chức thực hiện);
Dự án 2: Chương trình 135 (do Ủy ban Dân tộc chủ trì, phối hợp với
các bộ, ngành liên quan hướng dẫn, chỉ đạo tổ chức thực hiện);
Dự án 3: Hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng
mơ hình giảm nghèo trên địa bàn các xã ngồi Chương trình 30a và Chương
trình 135 (do Bộ Nơng nghiệp và Phát triển nơng thơn chủ trì, phối hợp với
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, các bộ, ngành liên quan chỉ đạo tổ
chức thực hiện);
Dự án 4: Truyền thông và giảm nghèo về thông tin (do Bộ Thơng tin và
Truyền thơng chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, các
bộ, ngành liên quan chỉ đạo tổ chức thực hiện);
Dự án 5: Nâng cao năng lực và giám sát, đánh giá thực hiện Chương
trình (do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các bộ,
ngành liên quan hướng dẫn tổ chức thực hiện).
Từ tài liệu “Điều tra tiêu chuẩn mức sống của các hộ gia đình Việt
Nam” cùng một số các tài liệu liên quan có thể thấy, những năm gần đây
Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước đầu tư rất lớn cả về vật lực lẫn tài lực
để tiến hành hàng loạt các chính sách giảm nghèo. Các hạng mục có thể xếp
thành 5 loại:
Một là, các chính sách liên quan y tế bảo hiểm, dưỡng lão như miễn
bảo hiểm y tế với người nghèo, chính sách giúp người già, neo đơn.
13
Hai là, chính sách liên quan giáo dục cho người nghèo: miễn giảm học
phí, học bổng, cho học sinh, sinh viên vay vốn.
Ba là, giải quyết các vấn đề cơ bản thiết yếu như cấp đất sản xuất, cấp
nhà ở, nước sinh hoạt.
Bốn là, các vấn đề liên quan trực tiếp tới nơng nghiệp như cấp giống,
phân bón thuốc trừ sâu…
Năm là, các hạng mục khác như ưu đãi vay vốn, hỗ trợ đóng tàu cá,
ni trồng thủy sản…
Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước luôn nhất quán quan điểm phát
triển kinh tế gắn với xã hội, mơi trường, trong đó ln chú trọng giảm nghèo
và bảo đảm an sinh xã hội. Mặc dù còn nhiều khó khăn, Quốc hội, Chính phủ
dành nguồn lực đầu tư cho giảm nghèo gấp 2 lần so với giai đoạn trước với
21% ngân sách nhà nước dành cho phúc lợi xã hội. Đây là mức cao nhất của
các nước trong khối ASEAN. Việt Nam đã hỗ trợ trực tiếp cho 13 triệu người
từ sách Nhà nước chịu tác động bởi COVID-19.
2.3.5 Sử dụng các phương tiện, phương thức nào để tác động đến
chính sách.
2.3.5.1 Phương tiện truyền thơng tác động đến chính sách
Để thực hiện có hiệu quả công tác giảm nghèo, bên cạnh việc triển khai
nhiều chương trình, chính sách hỗ trợ người dân, Đảng cộng sản Việt Nam đã
chỉ đạo các cấp ban ngành đã tích cực tuyên truyền, nâng cao nhận thức để
người dân phát huy tinh thần tự lực vươn lên. Các cơ quan báo chí tích cực
hoạt động tun truyền về xóa đói giảm nghèo. Cần nhân rộng hơn nữa các
mơ hình, điển hình tiên tiến trong xóa đói giảm nghèo trên các phương tiện
thông tin đại chúng.
Để đạt được những kết quả xóa đói giảm nghèo, các cấp ủy đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc và đồn thể đã quan tâm, đưa cơng tác giảm nghèo
bền vững trở thành nhiệm vụ, mục tiêu ưu tiên các tỉnh thành trên cả nước đã
cụ thể hóa thành Nghị quyết của HĐND, kế hoạch của UBND các cấp và từng
14
đơn vị; tích cực tuyên truyền để khơi dậy tính tự lực của người nghèo; triển
khai kịp thời, có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Trung ương và của
các tỉnh, địa phương…
Xác định rõ một trong những điều quan trọng nhất trong cơng tác giảm
nghèo chính là phải thay đổi tư duy, xóa nghèo từ tư tưởng, để người dân tự
lực vươn lên thốt nghèo. Chính vì vậy, cơng tác nâng cao năng lực, tuyên
truyền, phổ biến chính sách pháp luật về giảm nghèo ln được các cấp ủy
Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các hội đoàn thể quan tâm chỉ đạo tổ
chức thực hiện.
Đảng cộng sản Việt Nam chỉ đạo, các cấp ban ngành phối hợp với Đài
Phát thanh và Truyền hình tỉnh xây dựng kế hoạch, kịch bản, chun mục
phóng sự tuyên truyền chùm Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh
(khóa XI) phát sóng trên kênh truyền hình địa phương; in sổ tay các Nghị
quyết cấp cho Bí thư chi bộ thôn, tổ phố để thông tin đến người dân, trong đó
có Nghị quyết số 05-NQ/TU. Các cơ quan truyền thông của tỉnh thường
xuyên dành thời lượng phù hợp để tuyên truyền Nghị quyết và các hoạt động
về giảm nghèo, các chế độ chính sách; giới thiệu kinh nghiệm, cách làm hay,
kiến thức khoa học kỹ thuật, mô hình giảm nghèo hiệu quả để nhân rộng.
Ví dụ: Riêng Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Bắc Kạn đã xây dựng
5 chương trình phát thanh, 22 phóng sự tun truyền, hỗ trợ phát sóng cho 70
Đài Truyền thanh cơ sở và 08 Đài Truyền thanh - Truyền hình các huyện,
thành phố với tổng số trên 1.000 lượt phát sóng; Cổng Thơng tin điện tử tỉnh
Bắc Kạn có “Chuyên trang giảm nghèo bền vững tỉnh Bắc Kạn” đăng tải các
văn bản liên quan đến công tác giảm nghèo của Trung ương, của tỉnh và gần
100 tin, bài tuyên truyền về thực hiện công tác giảm nghèo tại các địa
phương… Các cơ quan, đơn vị đã tổ chức được 38 buổi nói chuyện chuyên đề
về công tác giảm nghèo, thu hút trên 2.400 lượt người tham gia.
Đồng hành cùng Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững,
từ năm 2017 đến nay, sở Thông tin và Truyền thông Bắc Giang đã thống nhất
15
với các cơ quan báo chí tỉnh mồ chuyên mục, tăng thời lượng tuyên truyền,
đồng thời phối hợp với Đài PT&TH tỉnh sản xuất mới và phát sổng hàng trăm
phóng sự chính luận, nội dung bám sát vào tình hình thực tế ở cơ sở, địa
phương hướng dẫn, hỗ trợ phổ biến khoa học kỹ thuật, thông tin tác động đến
người dân, trong đố tác động trực tiếp đến đối tượng hộ nghèo, cận nghèo,
đồng thời động viên khích lệ người nghèo tự vươn lên. Nhiều phóng sự tiêu
biểu đã được phát sóng như: “Sản xuất vải thiều theo tiêu chuẩn xuất khẩu";
“Chương trình 134,135- Cú hích giảm nghèo bền vững”; ‘Giải pháp tăng nãng
suất và giá trị quả vải thiều"; "Trồng rừng gỗ lớn, hướng đi mới trong phất
triển kinh tế nông nghiệp"; "Trồng nấm Linh Chi - Mô hình mới xóa đói giẳm
nghèo”; ‘Mơ hình liên kết và tiêu thụ gà đồi ồ Yên Thể'; "Đào tạo nghề cho
lao động nông thôn"; "Phát triển chỉ dẫn địa lý cho vải thiều Lục Ngạn"; “Xóa
đổi giẳm nghèo từ chương trình hỗ trợ xuất khẩu lao động”; "Hiệu quả từ nuôi
dê thương phẩm ở Yên Thể’; "Hiệu quẳ từ trồng rừng kỉnh tế ở Sơn Động”;
"Xóa đói giảm nghèo từ sản xuất mỳ Chữ”.
Báo Bắc Giang, trong ba năm 2017- đã xây dựng chuyên mục "Chung
tay thực hiện Chương trình giảm nghèo bền vững* trên các số báo hằng này,
báo cuối tháng, trong đó đãng tải trên 300 tin, bài, ảnh về lĩnh vực này. Cổ thể
kể đến những bài phản ánh như: "Hỗ trợ ngườỉ nghèo ve y tế • giữ vững trụ
cột an sinh xã hội”; "Khơi dậy nội lực, hướng tới giảm nghèo bền vững”;
"Trao cần câu giúp hộ nghèo vươn lên"; "Xuân Lương, xanh những nương
chè”; “Xã Tân Liễu, đột phá giảm nghèo'; "Giúp hộ nghèo tiếp cận vốn ưu đãi
thuận lợi*; ‘Trao hy vọng cho những người nghèo nhất”; "Chính sách hỗ trợ
phương tiện nghe, xem cho hộ nghèo”; "Chung tay xây nhà cho người
nghèo”; "Cịn sức, tơi còn giúp đỡ mọi người”; ‘Giúp hộ nghèo tiếp cận vốn
ưu đãi thuận lợi'; "Xóa nghèo bền vững ở Hiệp Hòa: Nhiều cách làm mới,
sáng ỉạo”; 'Mỗi phường, xã một nhà mớỉ cho hộ khó khăn”; "Chiến thắng bản
thân, khơng cam chịu đói nghèo*; "Đổi mới cơ chế hơ trợ, giúp hộ nghèo
vươn lên'; "Lan tỏa ý chí thốt nghèo”..
16
Như vậy có thể thấy dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
chính sách xóa đói giảm nghèo được truyền thơng đại chúng trên các phương
tiện báo đài, truyền hình để nâng cao nhận thức cho người dân nghèo.
2.3.5. Phương thức nào để tác động đến chính sách xóa đói giảm
nghèo
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các
cấp, sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong thực hiện công
tác giảm nghèo bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới, xác định đây là
nhiệm vụ chính trị trọng tâm, là việc làm thường xuyên của cả hệ thống chính
trị và chính bản thân người nghèo. Tăng cường công tác đối thoại giảm
nghèo, chủ động nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận của người dân, tiếp nhận
thơng tin phản ánh của báo chí về những khó khăn, vướng mắc và những bất
cập, hạn chế trong quá trình triển khai thực hiện chương trình giảm nghèo
nhanh và bền vững ở các địa phương trong tỉnh.
Đảng cộng sản Việt Nam đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, để nâng
cao nhận thức của người dân về việc thực hiện chủ trương giảm nghèo nhanh
và bền vững. Công tác tuyên truyền cần tạo điều kiện để chính người nghèo
được tham gia vào q trình truyền thơng, nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ
trong nhận thức của các cấp, các ngành và mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là
người nghèo hiểu rõ hơn về các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước hỗ trợ cho công tác giảm nghèo bền vững; nghĩa vụ, quyền lợi
và trách nhiệm đối với công tác giảm nghèo; đồng thời, bổ sung kiến thức, kỹ
năng sản xuất cho người nghèo, tạo sự đồng thuận trong quá trình triển khai
thực hiện. Tuyên truyền những tấm gương điển hình tiên tiến của cá nhân, tập
thể trong thực hiện xóa đói, giảm nghèo để khơi dậy tính tự lực, ý chí thốt
nghèo...
Đảng cộng sản Việt Nam thực hiện đa dạng hóa nguồn vốn huy động
để phát triển hạ tầng các vùng khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao. Việc tích cực xã
hội hóa trong cơng tác giảm nghèo, tạo thành phong trào sâu rộng, thu hút và
17
động viên sự tham gia của các tầng lớp dân cư trong việc thực hiện các
chương trình giảm nghèo, việc hỗ trợ, giúp đỡ người nghèo, bảo đảm cho
người nghèo được thụ hưởng đúng, đủ, kịp thời các chính sách.
2.3.6 Kết quả tác động
Giảm nghèo là nhiệm vụ khó khăn, lâu dài của tồn Đảng và toàn dân,
để bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Trong 10 năm tới, giảm nghèo bền vững là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
đất nước, cũng như trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện của Chính phủ, chính
quyền các cấp nhằm phát huy nội lực của toàn xã hội cũng như sự nỗ lực,
vươn lên của người nghèo.
Xóa đói, giảm nghèo là chủ trương lớn, quan trọng được Đảng, Nhà
nước quán triệt và kiên trì thực hiện trong suốt nhiều năm qua. Thực hiện
quan điểm nhất quán của Đảng về xóa đói, giảm nghèo, Nhà nước đã ban
hành nhiều chính sách quan trọng như: Chiến lược tồn diện về tăng trưởng
và xóa đói giảm nghèo (2002), Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền
vững đối với 61 huyện nghèo (Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP), Quyết định
số 1971/QĐ-TTg về việc cho 30 huyện khác nằm ngồi chương trình thực
hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP, Nghị quyết số 76/2014/QH13 về đẩy
mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020, Quyết định số
2324/QĐ-TTg, ngày 19-12-2014 về kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết
số 76/2014/QH13 về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến
năm 2020. Ngân sách nhà nước đã ưu tiên tập trung nguồn lực cao nhất cho
các huyện nghèo, xã nghèo và người nghèo nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Ngoài ra, Nhà nước tiếp tục thực hiện các chính sách đặc thù trên địa bàn các
huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ, như chính
sách chăm sóc, giao khốn và bảo vệ rừng; chính sách khai hoang, phục hóa,
tạo ruộng bậc thang; chính sách tăng cường hỗ trợ cán bộ khuyến nông,
18