TIỂU LUẬN
MƠN CHÍNH TRỊ HỌC
Đề tài:
CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
(VAI TRỊ CỦA LIÊN HỢP QUỐC TRONG NỀN CHÍNH TRỊ
QUỐC TẾ HIỆN NAY)
MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................................................................2
PHẦN I – MỞ ĐẦU.........................................................................................1
PHẦN II – NỘI DUNG...................................................................................5
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỔ CHỨC QUỐC TẾ LIÊN
HỢP QUỐC.....................................................................................................5
1.1 .Lịch sử thành lập của tổ chức quốc tế Liên hợp Quốc...................5
1.2.Mục đích và nguyên tắc hoạt động..........................................................6
1.3.Cơ cấu tổ chức của Liên Hợp Quốc.........................................................9
1.3.1.Đại hội đồng.............................................................................................9
1.3.2. Hội đồng Bảo an......................................................................................9
1.3.3. Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên Hợp Quốc............................................10
1.3.4. Hội đồng Quản thác..............................................................................10
1.3.5. Tòa án Quốc tế......................................................................................10
1.3.6. Ban Thư ký Liên Hợp quốc....................................................................11
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA LIÊN HỢP QUỐC TRONG NỀN CHÍNH
TRỊ QUỐC TẾ HIỆN NAY..........................................................................12
2.1.Vai trò của Liên Hợp Quốc trong việc xây dựng khung pháp lý nhằm
duy trì hịa bình và an ninh quốc tế.............................................................12
2.2. Vai trò của Liên Hợp Quốc trong việc triển khai các hoạt động nhằm
đảm bảo tính ổn định của nền chính trị quốc tế.........................................13
2.2.1. Hoạt động giải quyết các tranh chấp quốc tế........................................13
2.2.2. Hoạt động của Liên Hợp Quốc trong trường hợp có sự đe dọa hịa
bình, phá hoại hịa bình hoặc có hành vi xâm lược........................................15
2.2.3. Hoạt động gìn giữ hịa bình và an ninh quốc tế....................................16
2.2.4. Hoạt động xét xử tội phạm chiến tranh.................................................19
2.2.5. Liên hệ thực tế vai trò của Liên Hợp quốc trong việc gìn giữ nền chính
trị quốc tế.........................................................................................................20
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA LIÊN HỢP
QUỐC TRONG NỀN CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ HIỆN NAY.....................22
3.1. Những chính sách chống khủng bố tồn cầu mới................................22
3.2 Cơ cấu mới của Hội đồng Bảo an...........................................................23
3.3. Cải cách tổ chức và phương thức hoạt động........................................25
PHẦN I – MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Cách đây 70 năm, đông đảo đại diện đến từ 50 quốc gia đã họp tại San
Francisco để đề xuất thành lập một tổ chức quốc tế thay thế cho Hội quốc liên
trước đó hoạt động khơng hiệu quả nhằm dự phịng các cuộc xung đột vũ
trang cũng như nhằm ngăn chặn các cuộc như Chiến tranh thế giới thứ nhất và
thứ hai khơng bao giờ xảy ra nữa. Vài tháng sau đó, Hiến chương của Liên
Hợp Quốc đã được ký, ra đời Tổ chức đa phương này, “một tổ chức được
hình thành với hy vọng chám dứt tai họa chiến tranh cho nhân loại’’. So với
Hội quốc liên, Liên Hợp Quốc chứng tỏ đầy đủ hơn tính chất tồn cầu (thành
phần gồm hầu hết các quốc gia độc lập trên mọi châu lục) và đặc biệt là tính
tồn diện của nó: chuwong trình nghị sự khơng bó hẹp vào vấn đề duy trì hịa
bình, an ninh, mà bao gồm cả việc thúc đẩy hợp tác vì phát triển kinh tế - xã
hội của cộng đồng các dân tộc; bản thân hệ thống Liên Hợp Quốc bao gồm
hàng loạt cơ quan, chương trình, quỹ, tổ chức chuyên môn tập trung vào mọi
lĩnh vực của đời sống các quốc gia và quan hệ quốc tế ngồi lĩnh vực chính trị
- quốc phịng, từ tiền tệ đến nơng nghiệp, văn hóa, khoa học – kỹ thuật. Liên
Hợp Quốc đã đề xuất và tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu truyền thống
như cấm thử vũ khí hạt nhân tồn diện, giải trừ vũ khí hạt nhân và và vũ khí
thơng thường, gìn giữ hịa bình và giải quyết xung đột, hịa bình Trung Đơng,
thương mại quốc tế, chống đói nghèo, và phi truyền thống như khủng bố, biến
đổi khí hậu, khủng hoảng kinh tế - tài chính tồn cầu và dịch bệnh HIV/AIDS
và nhiều loại bệnh lây nhiễm khác.
Tổ chức Liên Hợp Quốc ra đời thực sự có ý nghĩa to lớn trong nền chính
trị quốc tế trong hơn 70 năm qua. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu sự xuất
hiện của các hoạt động ngoại giao đa phương hiện đại, một bước ngoặt quyết
định trong lịch sử phát triển của nền ngoại giao đa phương nói chung. Sự
đóng góp của Liên Hợp Quốc đối với hịa bình an ninh quốc tế, sự phát triển
1
kinh tế - xã hội của cộng đồng các dân tộc trong hơn 70 năm qua là rất đáng
kể. Hiện nay, thế giới đã bước sang kỷ nguyên văn minh, mọi quan hệ quốc tế
đều được thiết lập, giải quyết theo cách thức hịa bình, hữu nghị, hợp tác, và
cùng phát triển. Do đó, vai trị ngơi nhà chung của gần 200 quốc gia và vùng
lãnh thổ, Liên Hợp Quốc đang có một vai trị to lớn, được đánh giá là có khả
năng tiến tới một siêu quyền lực.
2. Những cơng trình nghiên cứu có liên quan
Luận văn vai trò trong quan hệ quốc tế của Liên Hợp Quốc.
Tiểu luận những hiểu biết về Liên Hợp Quốc và vai trò của Liên Hợp Quốc
trong Quan hệ quốc tế ngày nay.
Bản tài liệu: Tra cứu cơ cấu tổ chức của Liên Hợp Quốc
Chi tiết về tổ chức quốc tế tại trang thông tin chinhphu.vn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đi sâu, nghiên cứu làm rõ về tầm quan trọng trong vai trò trung
gian của các tổ chức quốc tế đối với nền chính trị quốc tế hiện nay (ví dụ cụ
thể ở đây là tổ chức quốc tế Liên Hợp Quốc). Trên cơ sở đỏ tìm ra giải pháp
duy trì và phát huy tính tích cực của tổ chức quốc tế trong việc duy trì nền ổn
định của chính trị quốc tế. Để làm rõ mục đích này, tiểu luận cần làm rõ các
nhiệm vụ nghiên cứu sau:
1) Phân tích các vấn để tổng quan về lịch sử hình thành, tơn chỉ, mục đích và
nguyên tắc hoạt độngvà cơ cấu tổ chức của LHQ
2) Tìm hiểu, phân tích và đánh giá vai trị chính của LHQ: Duy trì hịa bình và
an ninh quốc tế.
3) Giải pháp phát huy vai trị của Liên Hợp Quốc trong nền chính trị quốc tế
hiện nay
2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với phạm vi để tải là “Chính trị quốc tế trong giai đoạn hiện nay ( Vai trò
của Liên hợp quốc trong nền chính trị quốc tế hiện nay)”, bài luận văn đi vào
nghiên cứu, phân tích, đánh giá tơn chỉ, mục đích, ngun tắc hoạt động cũng
như cơ cấu tổ chức của Liên Hợp Quốc nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thực
thi các vai trị duy trì hịa bình và an ninh quốc tế, và cuối cũng là đưa ra một
số giải pháp nhằn tận dụng vai trị của LHQ vào việc bảo vệ và duy trì nền
chính trị quốc tế.Trên cơ sở mục tiêu tổng quát trên, đề tài đi vào giải quyết
các vấn đề cụ thể về:
3) Phân tích các vấn để tổng quan về lịch sử hình thành, tơn chỉ, mục đích và
ngun tắc hoạt độngvà cơ cấu tổ chức của LHQ
4) Tìm hiểu, phân tích và đánh giá vai trị chính của LHQ: Duy trì hịa bình và
an ninh quốc tế.
3) Giải pháp phát huy vai trò của Liên Hợp Quốc trong nền chính trị quốc tế
hiện nay
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng rất nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học như: dựa
trên phương pháp luận của triết học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Luận văn sử dụng phương pháp so
sánh luật học, tiếp cận dưới góc độ luật so sánh để làm sáng tỏ vấn đề. Ngồi
ra, cịn dựa trên sự kết hợp giữa phương pháp nghiên cứu từ cái chung đến cái
riêng, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp logic và lịch sử, phân
tích, đánh giá, diễn giải, dự báo,... Bên cạnh đó, Luận văn cũng kết hợp chặt
chẽ giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình nghiên cứu và giải quyết những
vấn đề mà để tài đặt ra.
3
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, bài luận văn
được bố trí kết cấu thành ba phần như sau:
Chương 1: : Khái quát chung về tổ chức quốc tế Liên hợp Quốc
Chương 2: Vai trị của Liên Hợp Quốc trong nền chính trị quốc tế hiện
nay
Chương 3: Giải pháp phát huy vai trò của Liên Hợp Quốc trong nền
chính trị quốc tế hiện nay
4
PHẦN II – NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỔ CHỨC QUỐC TẾ LIÊN
HỢP QUỐC
1.1.Lịch sử thành lập của tổ chức quốc tế Liên hợp Quốc
Liên Hợp Quốc chính thức ra đời vào ngày 24 – 10- 1945 khi Hiến chương
Liên hợp quốc được Trung Quốc, Pháp, Liên Xô, Vương quốc Anh, Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ và đa số các quốc gia ký trước đó phê chuẩn. Việc Liên
Hợp Quốc ra đời là một sự kiện quan trọng và là sự kết hợp của nhiều yếu tố
khác nhau, như vai trò kém hiệu quả của Hội Quốc Liên trong việc gìn giữ
hịa bình, an ninh quốc tế, sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ hai cùng
những hậu quả thảm khốc đối với loài người.
Sự thất bại của Hội Quốc Liên ( tiền thân của Liên Hợp Quốc) đã đặt ra yêu
cầu phải thiết lập một thể chế đa phương hữu hiệu có tính tồn cầu, nhằm duy
trì hịa bình và an ninh quốc tế. trong một thời gian dài, hệ thống an ninh tập
thể của Hội Quốc Liên tỏ ra khơng hiệu quả vì khơng được sự quan tâm ủng
hộ của các cường quốc. Những nỗi kinh hoàng của Chiến tranh thứ giới thứ
nhất chưa đủ sức thuyết phục các quốc gia hiểu rằng quyền lợi hịa bình của
họ địi hỏi cần có một trật tự quốc tế với các quyền lợi quốc gia truyền thống
làm ưu tiên hàng đầu. Hội Quốc Liên trở thành một thể chế cứng nhắc, không
thể hiện được chức năng dàn xếp hoặc thiết lập các liên minh năng động,
nhằm ngăn chặn các hoạt động bành trướng quyền lực của một số cường
quốc.
Với ý định chuẩn bị cho thời kỳ hậu chiến, nhằm loại trừ khả năng xảy ra một
cuộc chiến tranh thế giới thứ ba và bảo đảm một thế cân bằng mới trong quan
hệ quốc tế sau chiến tranh, ba cường quốc chính của phe Đồng minh – Anh,
Mỹ và Liên Xô đã tiến hành hội nghị thượng đỉnh quan trọng tại Teheran
(tháng 11/1943) và Yalta (tháng 2/1945). Nội dung trao đổi chính giữa
Churchiu, Stalin và Rudven bao gồm số phận Châu Âu và tương lai của Liên
5
Hợp Quốc. Việc Liên Xô tán thành thiết lập Tổ chức Liên Hợp Quốc tại Hội
nghị Yalta mở ra khả năng hợp tác giữa các nước đồng minh trong việc xây
dựng một trật tự thế giới mới sau chiến tranh. Tại Yalta, ba cường quốc trên
đã thống nhất với nhau về một số quan điểm then chốt trong việc thiết lập tổ
chức Liên Hợp Quốc: chấp nhận ghế thành viên riêng rẽ của Ucraina và Bạch
Nga (nay là Bê – la – rút), dành quyền phủ quyết cho các thành viên thường
trực của Hội đồng Bảo An, Liên Hợp Quốc có quyền giám sát việc tạo dựng
trật tự châu Âu. Đến Hội nghị Postdam từ 17/7 đến 2/8/1945, ba cường
quốc( Anh, Mỹ, Liên Xô) thảo thuận thành lập cơ chế giải quyết các vấn đề
sau chiến tranh, như vấn đề bồi thường chiến tranh của Đức và xác định lại
biên giới các quốc gia. Hội đồng Ngoại trưởng 5 nước gồm Nga, Mỹ, Anh,
Pháp và Trung Quốc được thành lập. Trên cơ sở thỏa thuận tại Hội nghị
Yalta, đại biểu của 50 quốc gia đã tham dự Hội nghị San Fransisco tháng
4/1945 và dự thảo Hiến chương Liên Hợp Quốc. Trên cơ sở Hiến chương, Tổ
chức Liên Hợp Quốc đã chính thức được thành lập với sự tham gia của 51
quốc gia sáng lập. Sự ra đời của Liên Hợp Quốc đã chấm dứt hoàn toàn cơ
chế cân bằng quyền lực giữa các cường quốc Châu Âu dựa trên cơ sở của Hội
nghị Viên năm 1815. Cân bằng quyền lực trên cơ sở Liên Hợp Quốc là thế
cân bằng linh hoạt dựa trên tương tác trong từng vấn đề giữa ba cạnh: hòa hợp
quyền lực giữa 5 thành viên thường trực Hội Đồng Bảo An ( còn gọi là P5),
tập hợp các nước phương Tây phát triển, tập hợp các nước Á – Phi – Mỹ-la-
tinh đang phát triển, trong đó tiếng nói của các nước P5 có trọng lượng đặc
biệt.
1.2.Mục đích và nguyên tắc hoạt động
Năm 1945, những người sáng lập Liên Hợp Quốc đã soạn thảo một
chương trình nghị sự to lớn và đầy tham vọng cho tổ chức mới này của thế
giới. Theo hiến chương Liên hợp Quốc, các quốc gia sáng lập đã quyết tâm
thiết lập LHQ thành một tổ chức quốc tế toàn cầu với mục tiêu hàng đầu là
6
bảo đảm một nền hồ bình và trật tự thế giới bền vững. Theo Điều 1 của Hiến
chương LHQ được thành lập nhằm 4 mục tiêu: (1) Duy trì hồ bình và an
ninh quốc tế; (2) Thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia trên cơ sở tân
trọng nguyên tắc bình đẳng về quyền lợi giữa các dân tộc và nguyên tắc dân
tộc tự quyết; (3) Thực hiện hợp tác quốc tế thông qua giải quyết các vấn đề
quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hố và nhân đạo trên cơ sở tơn
trọng các quyền con người và quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không
phân biệt chủng tộc, màu da, ngôn ngữ và tôn giáo; (4) Xây dựng LHQ làm
trung tâm điều hồ các nỗ lực quốc tế vì các mục tiêu chung. Cả bốn nhiệm
vụ trên đều khơng có giới hạn. Mỗi nhiệm vụ đều đòi hỏi chúng ta phải liên
tục kiên trì theo đuổi và nỗ lực chừng nào LHQ còn tồn tại.
Những mục đích được nêu ra của Liên Hiệp Quốc là ngăn chặn chiến
tranh, bảo vệ nhân quyền, cung cấp một cơ cấu cho luật pháp quốc tế, và để
tăng cường tiến bộ kinh tế, xã hội, cải thiện các điều kiện sống và chống lại
bệnh tật, đói nghèo. Liên Hiệp Quốc tạo cơ hội cho các quốc gia nhằm đạt tới
sự cân bằng trong sự phụ thuộc lẫn nhau trên bình diện thế giới và giải quyết
các vấn đề quốc tế. Nhằm mục đích đó, Liên Hiệp Quốc đã phê chuẩn một
Tuyên ngôn Chung về Nhân Quyền năm 1948. Sứ mệnh cao cả của Liên Hiệp
Quốc được ghi rõ trong những dòng đầu tiên của Hiến chương Liên Hiệp
Quốc là sự phản ánh nguyện vọng cháy bỏng của các dân tộc mới trải qua
những mất mát chưa từng có trong chiến tranh thế giới thứ hai - đó là “ngăn
ngừa một cuộc chiến tranh thế giới mới”. Nhận thức sâu sắc về sự cần thiết
của một cơ sở toàn diện cho hịa bình, các quốc gia thành viên đề ra mục đích
hàng đầu của Liên Hiệp Quốc là duy trì hịa bình và an ninh quốc tế, đồng
thời xác định những mục đích quan trọng khác cho các hoạt động của Liên
Hiệp Quốc là tăng cường quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc, thúc đẩy hợp tác
để giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hóa, nhân đạo và bảo
đảm quyền con người. Các quốc gia cũng trao cho Liên Hiệp Quốc vai trò là
7
trung tâm điều hòa các hành động của các dân tộc hướng theo những mục
đích đó.
Để tạo điều kiện về tổ chức, thể chế cho Liên Hiệp Quốc đảm nhiệm
được vai trị của mình, Hiến chương đã quy định những nguyên tắc cho quan
hệ giữa các quốc gia và hoạt động của Liên Hiệp Quốc mà sau này trở thành
những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Cùng với đó là bộ máy gồm
sáu cơ quan chính chịu trách nhiệm về các lĩnh vực hoạt động khác nhau là
Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an, Hội đồng Kinh tế và Xã hội (ECOSOC), Hội
đồng Quản thác, Tòa án quốc tế và Ban Thư ký được thành lập. Trong số đó,
Hội đồng Bảo an được trao trách nhiệm hàng đầu trong việc duy trì hịa bình,
an ninh quốc tế và được các quốc gia ủy quyền đưa ra các biện pháp, kể cả
các biện pháp cưỡng chế nhằm giải quyết hịa bình các tranh chấp, chống lại
các đe dọa xâm lược, phá hoại hịa bình. Hội đồng Quản thác (chính thức
chấm dứt hoạt động theo quyết định của Hội nghị thượng đỉnh năm 2005).
Vai trò quan trọng của Liên Hiệp Quốc cũng thể hiện qua thực tiễn hoạt động
trong hơn 60 năm qua, tác động tích cực, to lớn đến mọi mặt của đời sống
quốc tế và từng dân tộc, tuy rằng tổ chức này đã phải trải qua nhiều khó khăn.
Từ con số 51 quốc gia thành viên vào năm 1951, Liên Hiệp Quốc hiện có tới
192 quốc gia thành viên và trở thành một hệ thống toàn diện gồm các cơ quan
chính nêu trên, nhiều cơ quan phụ trợ, 20 tổ chức chuyên môn và 5 Ủy ban
kinh tế - xã hội đặt ở các khu vực. Nói đến số lượng thành viên đông đảo như
hiện nay của Liên Hiệp Quốc, chúng ta có thể kể đến thành cơng của Liên
Hiệp Quốc trong việc thúc đẩy quá trình phi thực dân hóa, góp phần đưa các
vùng lãnh thổ khơng tự quản gồm tới 750 triệu người trở thành 80 quốc gia
độc lập. Đóng góp lớn nhất của Liên Hiệp Quốc là đã góp phần ngăn ngừa
khơng để xảy ra một cuộc chiến tranh thế giới mới trong 64 năm qua. Một số
cuộc khủng hoảng quốc tế đã được giải quyết với sự trung gian hòa giải của
Liên Hiệp Quốc. Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, tổ chức này đã hỗ trợ
8
các cuộc thương lượng đưa đến giải pháp hịa bình cho hơn 170 cuộc xung
đột ở các khu vực trên thế giới.
1.3.Cơ cấu tổ chức của Liên Hợp Quốc
Liên Hợp Quốc gồm 6 cơ quan chính là: Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an,
Hội đồng Kinh tế–Xã hội, Hội đồng Quản thác, Toà án Quốc tế và Ban Thư
ký.
1.3.1.Đại hội đồng
Đại hội đồng là cơ quan đại diện rộng rãi nhất của Liên Hợp Quốc. Từ
51 thành viên ban đầu (những nước có đại diện dự Hội nghị tại Xan
Phranxixcô hoặc đã ký Tuyên ngôn của Liên Hợp Quốc ngày 1/1/1942, và
những nước đã ký và phê chuẩn Hiến chương Liên Hợp Quốc), số thành viên
LHQ cho đến giữa 2004 là 191. Khác với Hội đồng Bảo an, các thành viên
Đại hội đồng đều là các thành viên bình đẳng, khơng phân biệt quốc gia lớn
hay nhỏ, mỗi quốc gia thành viên đều được 1 phiếu bầu.
Các nước thành viên được chia theo nhóm khu vực để phân bổ vị trí khi
bầu vào các cơ quan cơ chế Liên Hợp Quốc. Hiện nay có 5 nhóm khu vực:
châu Á, châu Phi, Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê, Đông Âu, phương Tây và các nước
khác. Cho đến ngày 31/5/2003, E-xtô-ni-a, Ki-ri-ba-ti, Đông Ti-mo và Pa-lau
không thuộc nhóm khu vực nào.
1.3.2. Hội đồng Bảo an
Theo Điều 24 của Hiến chương Liên Hợp Quốc, các nước thành viên
Liên Hợp Quốc trao cho Hội đồng Bảo an trách nhiệm chính trong việc giữ
gìn hồ bình và an ninh quốc tế. Theo đó, Hội đồng Bảo an có thể áp dụng
các biện pháp nhằm giải quyết hồ bình các tranh chấp, xung đột và khi cần
thiết, có thể sử dụng các biện pháp, kể cả cưỡng chế và vũ lực, nhằm loại trừ
các mối đe doạ, phá hoại hồ bình.
9
Các quy định của Hiến chương liên quan đến HĐBA nằm trong các chương
V, VI, VII, VIII và XII.
Hội đồng Bảo an gồm 15 nước thành viên, trong đó có 5 nước Ủy viên
thường trực là: Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc và 10 thành viên không
thường trực do ĐHĐ LHQ bầu ra với nhiệm kỳ hai năm trên cơ sở phân chia
công bằng về mặt địa lý và có tính tới sự đóng góp của những nước này cho
tơn chỉ và mục đích của LHQ.
1.3.3. Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên Hợp Quốc
Hội đồng Kinh tế Xã hội Liên Hợp Quốc (Economic and Social Council –
ECOSOC).
Theo Hiến chương Liên Hợp Quốc, một trong những mục tiêu chính của
Tổ chức này là: "Thực hiện hợp tác quốc tế trong việc giải quyết những vấn
đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hóa hoặc nhân đạo, thúc đẩy và khuyến
khích sự tơn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản cho tất cả mọi
người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo" (Chương
I, điều 1, điểm 3).
1.3.4. Hội đồng Quản thác
Theo Chương XII Hiến chương Liên Hợp Quốc, Hệ thống Quản thác với
nhiệm vụ giám sát các vùng Lãnh thổ quản thác được đặt trong Hệ thống theo
các thoả thuận riêng với quốc gia quản lý các vùng lãnh thổ này. Hệ thống
này áp dụng với: (i) các vùng lãnh thổ nằm trong nhiệm vụ quản lý do Hội
quốc liên đưa ra; (ii) các vùng lãnh thổ tách ra từ các quốc gia kẻ thù sau
Chiến tranh thế giới thứ hai; các vùng lãnh thổ do các quốc gia có trách nhiệm
quản lý được tự nguyện đặt trong Hệ thống. Mục tiêu căn bản của Hệ thống là
thúc đẩy tiến bộ chính trị, kinh tế, xã hội tại các vùng lãnh thổ quản thác và sự
phát triển của các vùng này hướng tới chính phủ tự quản và độc lập.
1.3.5. Tịa án Quốc tế
10
Nhiệm vụ trọng tâm của Liên Hợp Quốc là giải quyết các cuộc xung đột
bằng biện pháp hồ bình phù hợp với các ngun tắc của công lý và luật pháp
quốc tế.Theo điều 13 của Hiến chương, một trong những chức năng của Đại
hội đồng là " thúc đẩy việc pháp điển hoá và sự phát triển của luật quốc tế
theo hướng tiến bộ". Chức năng này đã được Đại hội đồng và các cơ quan
khác thực hiện thông qua việc soạn thảo, chuẩn bị rất nhiều cơng ước quốc tế.
Trong vịng năm thập kỷ qua, Liên Hợp Quốc đã bảo trợ cho trên 456 thoả
thuận đa phương bao gồm mọi lĩnh vực hoạt động giữa các nhà nước và nỗ
lực của loài người. Liên Hợp Quốc cũng là người tiên phong quan tâm tới
những vấn đề tồn cầu mới hiện nay như: mơi trường, khoảng không vũ trụ,
lao động di cư, buôn lậu ma tuý và chủ nghĩa khủng bố.
1.3.6. Ban Thư ký Liên Hợp quốc
Ban thư ký Liên Hợp Quốc (gọi tắt là Ban thư ký) là một trong sáu cơ
quan chính của Liên Hợp Quốc. Trụ sở chính của Ban thư ký đặt tại Niu c,
Mỹ. Ngồi ra có hai văn phịng tại Giơ ne vơ và Viên. Tổng thư ký hiện nay
là Ngài Kofi Annan, quốc tịch Gana, nhậm chức từ ngày 1/1/1997.
Theo Chương XV của Hiến chương Liên Hợp Quốc, Ban thư ký gồm có
một Tổng thư ký và một số nhân viên tuỳ theo nhu cầu của tổ chức. Tổng thư
ký do Đại hội đồng bổ nhiệm, theo kiến nghị của Hội đồng Bảo an. Tổng thư
ký là viên chức cao cấp nhất của Tổ chức Liên Hợp Quốc (Điều 97).
11
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA LIÊN HỢP QUỐC TRONG NỀN CHÍNH
TRỊ QUỐC TẾ HIỆN NAY
2.1.Vai trò của Liên Hợp Quốc trong việc xây dựng khung pháp lý nhằm
duy trì hịa bình và an ninh quốc tế
Hịa bình và an ninh quốc tế có thể được đảm bảo bằng nhiều biện pháp
và phương tiện khác nhau nhưng trong đó pháp luật được coi là phương tiện
hiệu quả nhất. Với tư cách là một tổ chức quốc tế trung tâm, Liên Hợp Quốc
có vai trị rất lớn trong việc xây dựng khung pháp lí nhằm duy trì hịa bình và
an ninh quốc tế. Hàng loạt điều ước quốc tế về duy trì hịa bình và an ninh
quốc tế đã được ký kết đều do Liên Hợp Quốc đề xuất, khởi xướng hoặc được
thông qua trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc. Các tuyên bố và nghị quyết của
Đại Hội Đồng; các nghị quyết của Hội Đồng Bảo An cũng đóng góp rất lớn
trong việc duy trì hịa bình và an ninh quốc tế.
Công ước về cấm nghiên cứu, sản xuất, tàng trữ vũ khí vi trùng, vũ khí
độc hại và phá hủy chúng năm 1972
Vũ khí sinh học được coi là nguy hiểm nhất vì khó kiểm sốt, thiếu sự
kiểm tra độc lập đối với các quốc gia, trong khi mỗi cá nhân lại có thể dễ
dàng tự nghiên cứu và phát triển các loại virus hoặc vi khuẩn gây bệnh. Bởi
vậy, các hiệp ước cấm vũ khí sinh học và hóa học, cấm phổ biến vũ khí hạt
nhân là ba trục lớn trong hệ thống bảo vệ toàn cầu chống lại các loại vũ khí
hủy diệt hàng loạt.
Cơng ước về chống bắt cóc con tin năm 1979 cũng khẳng định vai trò
của Liên Hợp Quốc đối với việc bảo vệ quyền con người trong cuộc chiến
chống khủng bố.
Mục tiêu chống khủng bố quốc tế càng được Liên Hợp Quốc nhấn mạnh
và quan tâm nhiều hơn kể từ sau sự kiện ngày 11 – 9 – 2001 với một loạt vụ
tấn cơng khủng bố tại Hoa Kì. Đồng thời với việc thông qua các nghị quyết,
12
tuyên bố kêu gọi các quốc gia tích cực tham gia chống khủng bố, Liên Hợp
Quốc cũng bày tỏ mối quan ngại đối với những tác động tiêu cực do các biện
pháp chống khủng bố gây ra đối với quyền con người.
Bên cạnh đó cịn có nhiều cơng ước cần kể đến như sau:
Công ước về bảo vệ an toàn vật liệu hạt nhân năm 1979
Công ước về đánh dấu vật liệu nổ để nhận biết năm 1991
Công ước về nghiêm cấm nghiên cứu, sản xuất, tàng trữ, sử dụng vũ
khí hóa học và phá hủy chúng năm 1993
Công ước về việc trừng trị khủng bố bằng bom năm 1998
Công ước quốc tế về trừng trị hành vi tài trợ khủng bố năm 1999
Công ước về trừng trị những hành vi khủng bố bằng hạt nhân năm
2005
Hiệp ước về cấm thử vũ khí hạt nhân trong khí quyển, trong vũ trụ và
dưới nước năm 1963
Hiệp ước về không phổ biến vũ khí hạt nhân năm 1968
Hiệp ước về cấm đặt vũ khí hạt nhân và các vũ khí giết người hàng loạt
ở đáy biển, đáy đại dương năm 1971
Hiệp ước về cấm thử hạt nhân tồn diện năm 1996
2.2. Vai trị của Liên Hợp Quốc trong việc triển khai các hoạt động nhằm
đảm bảo tính ổn định của nền chính trị quốc tế.
2.2.1. Hoạt động giải quyết các tranh chấp quốc tế
Vai trò của Liên Hợp Quốc trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế
được quy định tại chương VI của Hiến chương Liên Hợp Quốc. Liên Hợp
Quốc là một tổ chức quốc tế có vai trị rất quan trọng trong quan hệ quốc tế
13
nói chung và trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế nói riêng. Theo quy
định của Hiến chuwong Liên Hợp Quốc, các cơ quan hành chính của Liên
Hợp Quốc ở các mức độ khác nhau đều tham gia vào q trình giải quyết
tranh chấp quốc tế nhưng trong đó vai trị chính thuộc về Hội Đồng Bảo An.
Phương thức giải quyết các tranh chấp quốc tế của Liên Hợp Quốc rất mềm
dẻo, linh hoạt. Trong mỗi vụ tranh chấp, Liên hợp Quốc yêu cầu các đương sự
phải tự tìm giải pháp để giải quyết tranh chấp như bằng con đường đàm phán,
điều tra trung gian, hòa giải trọng tài; bằng con đường tư pháp hoặc bằng các
biện pháp hòa bình khác tự chọn (Điều 33 Hiến chương Liên Hợp Quốc). Khi
xét thấy cần thiết, Hội Đồng Bảo An yêu cầu các đương sự giải quyết tranh
chấp của họ bằng những biện pháp đã nêu trên. Ngoài ra, Hội Đồng Bảo An
(được Liên Hợp Quốc trao thẩm quyền) có thể áp dụng các biện pháp cần
thiết khác để giải quyết tranh chấp như điều tra mọi tranh chấp nếu xét thấy
diễn biến có thể gây ra bất hịa giữa các nước hoặc đe dọa hịa bình an ninh
quốc tế; kiến nghị các bên những thủ tục hoặc phương thức giải quyết thảo
đáng. Nếu Hội Đồng Bảo An xét thấy có sự đe dọa phá hoại hịa bình hoặc có
hành vi xâm lược thì có thể u cầu các bên tn thủ những biện pháp tạm
thời, áp dụng những biện pháp phi quân sự hoặc áp dụng những biện pháp
quân sự. Trên cơ sở chương VI Hiến chương Liên Hợp Quốc, Hội Đồng Bảo
An có tồn quyền thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp thông qua các
biện pháp trung gian ( Điều 36), hòa giải (Điều 37), Ủy ban điều tra (Điều
34), Ủy ban hòa giải (Điều 38).
Ngoài Hội Đồng Bảo An, các cơ quan hành chính khác của Liên Hợp
Quốc (như Đại Hội Đồng) cũng đóng vai trị quan trọng trong việc giải quyết
hịa bình các tranh chấp quốc tế. Đại Hội Đồng có thể áp dụng các biện pháp
hịa bình như hịa giải, điều tra, trung gian,..(nếu tranh chấp không được
chuyển giao cho Hội Đồng Bảo An), nhằm xem xét và giải quyết linh hoạt
mọi vấn đề. Như vậy có thể thấy rằng Hội Đồng Bảo An đã phát huy tối đa
14
vai trị duy trì hịa bình và an ninh quốc tế góp phần củng cố nền chính trị
quốc tế hết sức phức tạp hiện nay.
2.2.2. Hoạt động của Liên Hợp Quốc trong trường hợp có sự đe dọa hịa
bình, phá hoại hịa bình hoặc có hành vi xâm lược
Trong trường hợp có sự đe dọa hịa bình, phá hoại hịa bình hoặc có
hành vi xâm lược thì cơ quan có thẩm quyền (Hội Đồng Bảo An) phải thực
hiện những hành động cần thiết đẻ ngăn ngừa chiến tranh có thể xảy ra hoặc
để bảo vệ an ninh hịa bình quốc tế. Việc này đã được ghi nhận tại chương
VII- Hiến chương Liên Hợp Quốc. Điều 39 – Hiến chương Liên Hợp Quốc đã
ghi nhận trách nhiệm của Hội Đồng Bảo An trong việc “ xác định sự tồn tại
và sự đe dọa hịa bình, phá hoại hịa bình hoặc hành vi xâm lược và đưa ra
những kiến nghị hoặc quyết định các biện pháp để duy trì hoặc khơi phục hịa
bình và an ninh quốc tế”.
Như vậy, Hội Đồng Bảo An có trách nhiệm xác định mọi tình hình, xem
xét tình hình cụ thể nào có thể đe dọa hịa bình, phá hoại hịa bình hay là hành
vi xâm lược. Việc xác định tình hình thực tế của Hội Đồng Bảo An là cơ sở
quan trọng để Liên Hợp Quốc triển khai các hoạt động tiếp theo về gìn giữ
hịa bình và nền chính trị quốc tế. Khi xác định được rằng hành động đó là
hành động đe dọa hịa bình, phá hoại hịa bình hoặc hành vi xâm lược thì Hội
Đồng Bảo An sẽ ra nghị quyết và áp dụng các biện pháp cần thiết để duy trì
hịa bình và an ninh quốc tế. Cụ thể là:
Yêu cầu các bên phải thi hành các biện pháp tạm thời như ngừng bắn, rút
quân về vị trí ban đầu, thiết lập giới tuyến tạm thời,..nhằm ngăn chặn khơng
cho tình hình nghiệm trọng hơn (quy định tại Điều 40 Hiến chương Liên Hợp
Quốc).
Khi xét thấy tình hình xấu đi, Hội Đồng Bảo An có quyền áp dụng những
biện pháp phi vũ trang như “cắt đứt toàn bộ hay từng phần quan hệ kinh tế,
15
đường sắt, đường biển, hàng khơng, bưu chính, điện tín, vô tuyến điện và các
phương tiện liên lạc khác, kể cả việc cắt đứt quan hệ ngoại giao” (được quy
định tại Điều 41 – Hiến chương) nhằm trừng trị và làm cho các quốc gia vi
phạm khơng có điều kiện để thực hiện hành vi vi phạm, đẩy lùi mối đe dọa
hịa bình – an ninh quốc tế.
Áp dụng mọi hoạt động quân sự nếu thấy cần thiết cho việc duy trì hịa
bình và an ninh quốc tế khi xét thấy các biện pháp phi vũ trang là khơng thích
hợp hoặc đã mất hiệu lực.
Các biện pháp trên đều mang tính chất cưỡng chế mà Hội Đồng Bảo An
được phép tiến hành mà không cần đến sự chấp thuận của các bên hữu quan
vì Hội Đồng Bảo An (nhân danh Liên Hợp Quốc) là cơ quan duy nhất có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với các quốc gia thành viên.
Các biện pháp này chủ được thực hiện khi có sự đe dọa phá hoại hịa bình
hoặc có hành vi xâm lược nhằm duy trì hoặc khơi phục hịa bình an ninh quốc
tế. mà cũng vì một mục đích chung là lợi ích của cả cộng đồng.
2.2.3. Hoạt động gìn giữ hịa bình và an ninh quốc tế
Hoạt động gìn giữ hịa bình và an ninh quốc tế là việc triển khai các
hoạt động quân sự và dân sự để thiết lập sự hiện diện Liên Hợp Quốc tại nơi
có xung đột với mục đích ấn định tình hình tại khu vực xung đột và tạo ra
những điều kiện thuận lợi để giải quyết xung đột cũng như khơi phục hịa
bình an ninh quốc tế.
Hoạt động gìn gữ hịa bình là một cơ chế đặc biệt được Liên Hợp Quốc
triển khai bao gồm cả hoạt động quân sự và dân sự để thiết lập sự hiện diện
của Liên Hợp Quốc tại những quốc gia đang bị chia rẽ, xung đột (với sự chấp
thuận của các bên liên quan), nhằm thực hiện các nhiệm vụ đảm bảo an ninh,
hỗ trợ chính trị cần thiết; khơi phục, kiến tạo một nền hịa bình ổn định lâu
dài. Mặc dù hoạt động Gìn giữ hịa bình là một cơ chế của Hội Đồng Bảo An
16
Liên Hợp Quốc, nhưng việc triển khai các lực lượng Gìn giữ hịa bình phải do
Tổng thư kí Liên Hợp Quốc tiến hành đàm phán, ký kết thỏa thuận với nước
chủ nhà và các nước cử lực lượng trên cơ sở hồn thành tự nguyện. Thơng
thường, các lực lượng này được triển khai sau khi lệnh ngừng bắn đã được
thiết lập và các bên tham chiến đã đồng ý cho họ thực hiện sứ mệnh Giữ gìn
hịa bình. Có hai loại hình chủ yếu trong hoạt động Giữ gìn hịa bình của Liên
Hợp Quốc, bao gồm: các phái đồn quan sát không được vũ trang và các đơn
vị bộ binh được trang bị vũ khí. Trong hoạt động Giữ gìn hịa bình của Liên
Hợp Quốc, lực lượng tham gia của nước nào do nước đó trực tiếp chỉ huy,
quản lý, thẩm quyền xét xử các vi phạm kỷ luật đối với các binh sĩ trong mọi
trường hợp thuộc về nước cử lực lượng. Căn cứ vào tình hình cụ thể, nhất là
theo yêu cầu của các nước trực tiếp liên quan, Hội Đồng Bảo An Liên Hợp
Quốc có Nghị quyết kết thúc hoặc gia hạn thêm hoạt động của các lực lượng
Giữ gìn hịa bình; song các nước có quyền cân nhắc việc thực hiện các lệnh
điều động và có thể rút lực lượng thma gia bất cứ lúc nào.
Trong khuôn khổ đó, Liên Hợp Quốc đã thực thi 71 chiến dịch Giữ gìn
hịa bình tại hàng chục địa điểm khác nhau kể từ khi nhiệm vụ đầu tiên được
triển khai tại Trung Đơng ( năm 1948). Với nhiều hình thức, quy mơ khác
nhau, các hoạt động này khơng chỉ duy trì nền hịa bình, an ninh thế giới mà
cịn tạo thuận lợi cho các tiến trình chính trị, bảo vệ dân thường, hỗ trợ giải
giáp vũ khí, giải trừ quân bị và tái hòa nhập cho các cựu binh; đồng thời, tăng
cường hỗ trợ nhân đạo, tổ chức các cuộc bầu cử tự do, bảo vệ, khuyến khích
các quyền con người và thiết lập lại chế độ thượng tôn pháp luật. Sau gần 70
năm tham gia nhiều nhiệm vụ khác nhau trên tồn thế giới, các lực lượng
Giữu gìn hịa bình Liên Hợp Quốc đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp
phần chấm dứt nhiều cuộc xung đột tại hàng chục quốc gia trên thế giới
(Cam-pu-chia, En Xan-va-đo, Goa-tê-ma-la, Mơ-dăm-bích, Na-mi-bi-a,…) và
đóng góp quan trọng vào việc ổn định tình hình chính trị, tạo sự chuyển biến
17