Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Cảnh báo vê “lợi ích nhóm” và “chủ nghĩa tư bản thân hữu”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.79 KB, 12 trang )

CẢNH BÁO VÊ “LỢI ÍCH NHĨM” VÀ “CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
THÂN HỮU”

“Lợi ích nhóm” cũng chính là một kiểu tham nhũng nghiêm trọng
nhất, tham nhũng có tổ chức.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI của Đảng “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã xác định một trong những nhiệm vụ quan
trọng phải đấu tranh chống “lợi ích nhóm”.

Bởi vì, “lợi ích nhóm” (theo nghĩa tiêu cực) sẽ làm cho sự phát triển của
đất nước và lợi ích quốc gia, dân tộc suy yếu và tổn thất nghiêm trọng; nhân dân
bị tước đoạt quyền lực và lợi ích; thành quả cách mạng và chế độ chính trị - xã
hội khơng được bảo vệ, dẫn đến đổ vỡ.

Lợi ích nhóm” (theo nghĩa tiêu cực) sẽ làm cho sự phát triển của đất nước
và lợi ích quốc gia, dân tộc suy yếu và tổn thất nghiêm trọng (Ảnh minh họa:

Internet)

Lợi ích chính đáng (của một người, một nhóm) là lợi ích phù hợp với lợi
ích chung của quốc gia, dân tộc, góp phần và bổ trự cho lợi ích chung; không
mâu thuẫn, không gây thiệt hại cho lợi ích chung. Lợi ích chính đáng luôn là
mục tiêu và động lực đối với hoạt động của con người, cần được tơn trọng, bảo
vệ và khuyến khích. Qn điều này, khơng quan tâm đến lợi ích chính đáng của
con người, ngăn cản các lợi ích chính đáng ấy, thì sự lãnh đạo và quản lý xã hội
không thể thành công, mà trước sau gì nhất định cũng sẽ thất bại.

Ngược lại, “lợi ích nhóm” (theo nghĩa tiêu cực) thì mâu thuẫn với lợi ích
chung của quốc gia, dân tộc; gây hại cho lợi ích chung, cho cộng đồng, làm suy


yếu và gây tổn thất nghiêm trọng đối với lợi ích chung. “Lợi ích nhóm” là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc hình thành các “nhóm lợi ích”.

Đặc điểm của các “nhóm lợi ích” là có sự kết hợp cùng mục tiêu lợi ích,
cùng hành động, cùng phân chia lợi ích, giữa những người có nhiều tiền với
những người có quyền lực trong nhà nước ị đảng cầm quyền. Có tiền chuyển hóa
thành có quyền lực. Có quyền lực chuyển hóa thành

Người có tiền sẽ có quyền lực và người có quyền lực sẽ có tiền. Họ cùng
nhau hành động để có quyền lực và có tiền ngày càng nhiều hơn.

Đồng tiền cộng với quyền lực tạo thành sức mạnh khống chế, lũng đoạn tổ
chức và xã hội. Nhận thức sự quan trọng của thơng tin, “nhóm lợi ích” cịn móc
nối, “kết nạp”, kết hợp với một số nhóm truyền thơng khơng lành mạnh để tác
động chi phối dư luận theo hướng có lợi cho “nhóm lợi ích” và xuyên tạc vu cáo
những người, những doanh nghiệp khơng cùng nhóm để tranh quyền lực và lợi
ích. “Lợi ích nhóm” sẽ kéo theo và song hành với tham vọng quyền lực và tham
vọng tiền bạc.

ở nước ta, trong lãnh đạo, người đầu tiên cơng khai hóa và nêu lên sự cần
thiết phải đấu tranh với “lợi ích nhóm” là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (phát
biểu tại Hội nghị Trung ương 3 khóa XI). Sau Tổng Bí thư, một vài đồng chí
lãnh đạo khác của Đảng và Nhà nước cũng có nói đến, mặc dù chỉ mới thống
qua và nói chung, chưa có chỉ đạo gì quyết liệt trong việc ngăn ngừa, phịng
chống “lợi ích nhóm”.

Trong giới khoa học của Việt Nam đã có một số nghiên cứu, chưa nhiều
và mới ở dạng lý thuyết chung, chưa gắn với thực tế tình hình nước ta. Các nhà
nghiên cứu trên thế giới đã có nhiều tài liệu nghiên cứu vấn đề này, gắn với quá
trình phát triền của một số quốc gia. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI

của Đảng Cộng sản Việt Nam “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay” đã xác định nhiệm vụ quan trọng phải đấu tranh chống “lợi ích nhóm”.

Hiện nay, “lợi ích nhóm” và hoạt động của “nhóm lợi ích” ở nước ta đã và
đang diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực quan trọng. Đó là trong quản lý doanh nghiệp
nhà nước, quản lý dự án đầu tư, nhất là đầu tư công; trong quản lý ngân sách,

thuế, quản lý ngân hàng - tín dụng; trong quản lý các nguồn vốn và chương trình
đầu tư về xã hội, trong quản lý tài sản, đất đai, bất động sản, tài ngun khống
sản, xuất nhập khẩu; trong cơng tác cán bộ, quản lý biên chế; trong quản lý việc
cấp các loại giấy phép; kể cả trong các vụ án, trong tham mưu về chủ trương,
chính sách và trong điều hành. Đi sâu vào nghiên cứu các vụ tiêu cực, tham
nhũng có tổ chức, các vụ, việc mà dư luận có nhiều ý kiến thì sẽ có nhiều thơng
tin cụ thể về tình hình “lợi ích nhóm” ở Việt Nam. Tức là tình hình xấu đã lan
rộng, khá phổ biến và khá ngang nhiên, nghiêm trọng đến mức báo động.

“Lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” có tác hại gì? Trước nhất, nó làm cho
đất nước bị tổn thất các nguồn lực và giảm hiệu quả đầu tư, bị kìm hãm khơng
thể phát triển nhanh, thậm chí khơng thể phát triển bình thường, mất sức sống,
nền kinh tế sẽ bị khiếm khuyết, dị tật, kinh tế “ngầm”, thị trường “ảo”, chụp giật,
hoang dã, khống chế và “thanh toán” lẫn nhau để giành độc quyền, làm hỏng
mơi trường phát triển lành mạnh và bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp.

Hầu hết các nước bị “bẫy thu nhập trung bình” kéo dài nhiều thập niên,
thậm chí kéo dài hàng thế kỷ, loay hoay mãi, lùng bùng mãi, khơng làm sao
thốt ra được để trở thành một quốc gia phát triển là do “lợi ích nhóm” - ngun
nhân trực tiếp và hàng đầu. Với sự chi phối của các “nhóm lợi ích”, nguồn lực
quốc gia bị phân bổ và sử dụng khơng vì lợi ích chung của quốc gia, mà nhằm
hướng phục vụ cho “lợi ích nhóm”; việc bố trí đầu tư, sắp xếp dự án và kể cả ban
hành chính sách, điều hành xử lý cơng việc cũng vậy.


Nước ta sau mấy chục năm cơng nghiệp hóa, đến nay năng suất lao động
xã hội vẫn thấp (vào loại thấp nhất khu vực Đông Á), hiệu quả đầu tư kém, nợ
nần nhiều mà chưa rõ trả bằng cách nào, khi mà hiệu quả đầu tư (sử dụng nguồn
vay ấy) còn kém; thu nhập thấp, sản phẩm công nghiệp xuất khẩu hầu như không

có, các chương trình nội địa hóa khơng thành cơng, chủ yếu là làm thuê và cho
thuê mặt bằng, nền kinh tế Việt Nam đang rơi vào “bẫy thu nhập trung bình
thấp”. Nhìn lại nguyên nhân các nước bị “bẫy thu nhập trung bình” và nhìn lại
tình hình nền kinh tế của ta thì thật đáng lo ngại.

Hậu quả thứ hai do “nhóm lợi ích” gây ra là nhất định sẽ chệch hướng
khỏi mục tiêu xã hội chủ nghĩa chân chính (và cũng xa lạ với chủ nghĩa tư bản
hiện đại), đất nước đi theo một con đường khác, sang “chủ nghĩa tư bản thân
hữu”, đó là con đường khơng có tiền đồ và rất nguy hiểm, khơng có tự do và dân
chủ (vì bị “nhóm lợi ích” độc quyền về kinh tế và chính trị thâu tóm, lũng đoạn),
để lại hậu quả lâu dài mà dân tộc phải gánh chịu.

Chúng ta mong muốn xây dựng một xã hội trên nền tảng của các giá trị
nhân cách thì “nhóm lợi ích” lại thúc đẩy đồng tiền cộng với quyền lực chiếm
địa vị thống trị. Thực chất “nhóm lợi ích” là đồng tiền (tư bản) chi phối quyền
lực, trực tiếp tham gia giành và chiếm giữ quyền lực, làm cho quyền lực khơng
cịn là của nhân dân, cũng có nghĩa là chệch khỏi mục tiêu xã hội chủ nghĩa
(chân chính).

“Lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” có từ rất sớm, ít nhất là từ buổi đầu của
thời kỳ phong kiến; nhưng sang thời kỳ tư bản chủ nghĩa thì nó phát triển và diễn
biến phức tạp hơn, kể cả trình độ, quy mơ và tính chất. Trong Chủ nghĩa tư bản
“hoang dã”, “mơng muội”, các “nhóm lợi ích" hoạt động phổ biến, cơng khai,
tích lũy và tập trung tư bản bằng mọi thủ đoạn, kể cả bạo lực, giết người.


Nhân đây, trước khi nói đến hậu quả thứ ba do “nhóm lợi ích” gây ra, xin
nói rõ hơn về “chủ nghĩa tư bản thân hữu”. Suốt mấy trăm năm nay, qua quá
trình cạnh tranh, qua đấu tranh xã hội, chịu sự tác động của các quy luật khách
quan về kinh tế và xã hội, chủ nghĩa tư bản buộc phải liên tục điều chỉnh.

Ngày nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã có những điều chỉnh rất đáng ghi
nhận; tạo ra nhiều thành tựu và một số nước đạt trình độ phát triển cao, tính chất
xã hội hóa sản xuất cao hơn, đang dần dần từng bước tạo ra các nhân tố mới của
xã hội tương lai (xã hội xã hội chủ nghĩa). Đồng thời với q trình tiến hóa tự
nhiên ấy, trong thực tiễn thế giới tư bản còn xuất hiện một khuynh hướng khác,
một khuynh hướng khơng lành mạnh, khơng bình thường, một khuynh hướng tha
hóa, đó là “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, một loại hình nguy hại cho sự phát triển
của các quốc gia. Nước nào rơi vào “chủ nghĩa tư bản thân hữu” thì khơng ngóc
đầu lên được.

“Chủ nghĩa tư bản thân hữu” thực chất là sự bành trướng, biến dạng, biến
tướng, sự thoái hóa cao độ của “nhóm lợi ích” gây ra. Đây là một loại hình rất
lạc hậu, khác xa so với chủ nghĩa tư bản hiện đại (chủ nghĩa tư bản hiện đại có
nhiều mặt tiến bộ, mà chúng ta cần nghiên cứu để học tập kinh nghiệm) và tất
nhiên là càng xa lạ với chủ nghĩa xã hội văn minh.

“Chủ nghĩa tư bản thân hữu” cịn có các cách gọi khác nhau, là “chủ nghĩa
tư bản lợi ích”, “chủ nghĩa tư bản bè phái”, “chủ nghĩa tư bản bè cánh”, “chủ
nghĩa tư bản lũng đoạn”,... “Chủ nghĩa tư bản thân hữu” không phải là một giai
đoạn của chủ nghĩa tư bản, mà là một hiện tượng, một khuyết tật, một sự tha hóa
của chủ nghĩa tư bản.

Đây là loại hình “phát triển” mà trong đó các doanh nghiệp dựa vào ưu thế
về mối quan hệ với những người có quyền lực để tạo ra nguồn thu tài chính cho

cá nhân và đơn vị mình. Các doanh nghiệp này tập trung đầu tư vào “quan hệ”,
vào “quan chức” để từ đó mà dùng quyền lực tạo ra lợi nhuận siêu ngạch.

Đặc trưng của “chủ nghĩa tư bản thân hữu” là có sự cấu kết, xâm nhập lẫn
nhau giữa nhóm đặc quyền kinh tế và nhóm đặc quyền chính trị, người kinh

doanh cũng đầu tư vào quyền lực và người có quyền lực cũng tham gia kinh
doanh, làm quan chức để làm giàu, họ cùng nhau bóc lột “mềm” tồn xã hội, bóc
lột cả dân tộc, họ thâu tóm các nguồn tài chính, của cải và thâu tóm quyền lực
chính trị, biến bộ máy nhà nước thành công cụ của một nhóm người (nhân danh
nhà nước và đảng cầm quyền) thực hiện độc quyền kinh tế kết hợp với độc
quyền chính trị.

Nói họ thực hiện bóc lột “mềm” là vì khơng có hình thức tổ chức sản xuất
- kinh doanh cụ thể để trực tiếp bóc lột giá trị thặng dư của lao động, sự bóc lột
của họ tinh vi hơn, nhưng tai hại hơn, gây hậu quả rất nghiêm trọng. Sự bóc lột
ấy thực hiện thơng qua các dự án, các chương trình đầu tư; thơng qua các cơ chế,
chính sách (khơng phục vụ cho toàn xã hội mà phục vụ cho một nhóm người) và
thơng qua cách điều hành, cách quản lý mập mờ, không minh bạch, gây tiêu cực,
tham nhũng...

Họ thu lợi thông qua các công ty “sân sau”, công ty con, công ty cháu,
cơng ty nhánh của gia đình, của “cánh hữu”. Nó ra đời trong (và gắn với) chủ
nghĩa tư bản “man rợ”, chủ nghĩa tư bản “dã man”, chứ không phải chủ nghĩa tư
bản văn minh.

Rất đáng lưu ý là, “chủ nghĩa tư bản thân hữu” khơng chỉ có trong xã hội
tư bản (yếu kém và tha hóa) mà cịn có trong các xã hội khác, ở các nước mới bắt
đầu vận hành nền kinh tế theo mơ hình kinh tế thị trường, khi mà ở đó “lợi ích
nhóm”, “nhóm lợi ích”, “lợi ích bè phái”, “tính thân hữu vì lợi ích” đang nổi lên

và hoành hành; khi mà đảng cầm quyền cùng nhà nước do nó lãnh đạo bị suy
thối về đạo đức, tham nhũng trở nên phổ biến và pháp luật không được tuân thủ
trong sự quản lý đất nước, quản lý xã hội (tức là trình độ quản trị quốc gia yếu
kém).

Thực tiễn thế giới cho thấy, “chủ nghĩa tư bản thân hữu” kìm hãm sự phát
triển của quốc gia, làm cho đất nước rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” hàng thế
kỷ khơng ra được, làm băng hoại đạo đức xã hội (do lệch chuẩn giá trị); làm méo
mó, biến dạng các chủ trương, đường lối; gây nên các khuyết tật của nền kinh tế
và của xã hội, để hậu quả lâu dài. “Chủ nghĩa tư bản thân hữu” xuất phát từ các
nguyên nhân, nguồn gốc: “Lợi ích nhóm” tiêu cực, các dạng ma-phi-a, tham
nhũng có tổ chức, sự suy thối đạo đức của cán bộ có chức quyền, khơng có cơ
chế kiểm sốt quyền lực, để quyền lực tha hóa và khơng có cơ chế tốt để nhân
dân làm chủ và có quyền lực thật sự, trình độ và năng lực quản trị quốc gia yếu
kém, luật pháp còn nhiều kẽ hở và việc chấp hành pháp luật không nghiêm, bảo
kê, bao che và dung túng cho các sai phạm.

ở đâu và khi nào mà “nhóm lợi ích” khơng bị ngăn chặn có hiệu lực, hiệu
quả, mà để nó phát triển mạnh, lan tràn, hồnh hành, vai trị của Nhà nước lành
mạnh bị vơ hiệu hóa, thì ở đó, tất yếu sẽ kéo theo “chủ nghĩa tư bản thân hữu”
xuất hiện và tồn tại, không thể tránh được, khơng thề khác được, dù có muốn hay
không.

Lâu nay Đảng ta đã nhiều lần lưu ý nguy cơ chệch hướng. Nếu chệch
hướng thì sẽ chệch đi đâu? Chắc khơng thể trở lại chế độ phong kiến, vì trình độ
phát triển đã vượt qua. Cũng không thể chệch sang chủ nghĩa tư bản phát triển
văn minh, vì trình độ phát triển của nước ta chưa đạt đến, và nếu vậy thì có ý
kiến cho rằng cũng khơng đáng sợ, bởi chúng ta sẽ gần hơn với chủ nghĩa xã hội.
Khả năng lớn nhất, hiện hữu và cũng đáng sự nhất, nguy hiểm nhất là chệch
hướng sang “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, con đường nguy hại cho sự phát triển

của quốc gia, dân tộc, đồng thời cũng nguy hại cho chế độ chính trị - xã hội.

Trở lại hậu quả của “nhóm lợi ích”. Hậu quả thứ ba do “nhóm lợi ích” gây
ra là sự suy đồi về văn hóa, đạo đức xã hội do hệ giá trị bị đảo lộn (đồng tiền và
quyền lực chiếm vị trí trung tâm và cao nhất, trong khi nhân cách bị đẩy sang
bên cạnh và xuống hàng thứ yếu) và do tha hóa quyền lực (tác nhân mạnh nhất).
Việc phân hóa giàu - nghèo sẽ ngày càng lớn, tạo ra bất bình đẳng và mâu thuẫn
xã hội. Hỏng văn hóa và gây ra mâu thuẫn xã hội thì hậu quả khơn lường, thâm
sâu và lan tỏa rộng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, ảnh hưởng đến
nền tảng xã hội và sức mạnh nội sinh của dân tộc.

Hậu quả thứ tư do “nhóm lợi ích” gây ra là làm lẫn lộn thật - giả, đúng -
sai, khác nhau giữa lời nói và việc làm, đường lối đúng không vào được cuộc
sống...; làm mất lòng tin của nhân dân đối với đảng cầm quyền và đối với nhà
nước, tức là làm hỏng nền tảng chính trị, dẫn đến mất ổn định chính trị, mất sức
mạnh của một quốc gia, và từ đó các thế lực xâm lăng từ bên ngồi có thể lợi
dụng thời cơ để xâm lấn, chèn ép, dẫn đến nguy cơ mất độc lập, thậm chí là mất
nước.

Hậu quả thứ năm do “nhóm lợi ích” gây ra là chính sách sử dụng cán bộ
méo mó, phát triển nạn “chạy chức”, “chạy quyền”, sắp xếp cán bộ trên cơ sở
“quan hệ, tiền tệ, hậu duệ”, chứ khơng phải sử dụng người có tài đức, làm hư
hỏng đội ngũ cán bộ; là sự phát triển, sự gia tăng các hoạt động bè phái, mất
đoàn kết nội bộ, phá vỡ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của đảng cầm
quyền, từ đó dẫn đến đảng cầm quyền mất vai trò lãnh đạo, tan rã hoặc bị “nhóm
lợi ích” thâu tóm làm thay đổi hồn tồn bản chất, khơng cịn là đảng phục vụ
nhân dân, và nhà nước cũng hư hỏng, biến chất, khơng cịn là nhà nước của nhân
dân, mà thành bộ máy cai trị, tham nhũng và bóc lột nhân dân, từ đó, nịng cốt
chính trị đổ vỡ, bất ổn định chính trị từ bên trong.


Tình hình “nhóm lợi ích” ở Việt Nam đã đến mức độ nào? đang và sẽ đi
về đâu? Như chúng ta đã biết, trước đây trong lịch sử nhiều lần các triều đại
phong kiến Việt Nam bị sụp đổ, kể cả có lúc đất nước bị chia cắt là do “nhóm lợi
ích” gây nên. Ngày nay, tuy chưa có các cơng trình nghiên cứu cấp quốc gia một
cách thật đầy đủ và khoa học về “lợi ích nhóm ở Việt Nam”, nhưng qua thông
tin, qua dư luận xã hội, qua nghiên cứu của một số chuyên gia và cảm nhận của
nhiều người, thì tình hình “lợi ích nhóm” đã khá nghiêm trọng, tương đối phổ
biến, ở cấp nào cũng có, cấp cao hơn thì mức độ càng nặng hơn, ở lĩnh vực nào
cũng có, kề cả ở những nơi mà xưa nay trong tiềm thức xã hội thường cho rằng
đó là nơi ln trang nghiêm, trong sạch.

“Lợi ích nhóm” cũng chính là một kiểu tham nhũng nghiêm trọng nhất,
tham nhũng có tổ chức. Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, nhưng thực tế xã hội vẫn diễn ra
một tình hình rất đáng lo ngại là ở nước ta đang có nguy cơ chuyển biến dần dần
sang “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, do hoạt động của “nhóm lợi ích” gây nên.

Cũng có ý kiến cho rằng nước ta đã rơi vào “chủ nghĩa tư bản thân hữu”
rồi, đã vào sâu lắm rồi (?). ở các nước, việc quản lý nhà nước và việc điều hành
kinh tế tách biệt rành mạch, và ở họ doanh nghiệp nhà nước cũng ít hơn ta. Cịn
ở ta, với đặc điểm cơ quan nhà nước vừa quản lý về mặt nhà nước, vừa trực tiếp
điều hành kinh tế, doanh nghiệp nhà nước nhiều, lại yếu kém trong quản lý,
khơng ít trường hợp đằng sau cái vỏ doanh nghiệp nhà nước là tư nhân núp bóng,
vì vậy, đề phịng “lợi ích nhóm” ở Việt Nam còn phức tạp hơn các nước khác,
nếu khơng đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả.

Đây là nguy cơ lớn nhất đang hiện hữu dần, đe dọa sự phát triển lành
mạnh của đất nước và sự tồn vong của chế độ theo định hướng xã hội chủ nghĩa

(lành mạnh). Nguy cơ này bao trùm, đáng lo hơn bất kỳ sự đe dọa nào, tác động

chi phối chính, làm trầm trọng các nguy cơ khác, tạo điều kiện cho các nguy cơ
khác phát triển và gây tác hại. Đây là điểm lớn nhất, cốt lõi nhất của cuộc đấu
tranh về quan điểm lập trường; là trọng tâm trong chống “tự diễn biến”.

Nếu Đảng và Nhà nước ta không ngăn chặn được hoạt động của “nhóm lợi
ích”, để nó tiếp tục phát triển, dẫn đến lũng đoạn ngày càng lớn hơn thì sự phát
triển của đất nước bị nguy khốn và chế độ chính trị cũng biến chất, cũng thay đổi
theo hướng xấu, chắc chắn khơng cịn là con đường xã hội chủ nghĩa chân chính
nữa, mà sẽ là nơi phát triển “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, mong muốn của hàng
triệu đảng viên cộng sản và nhân dân đã chiến đấu, hy sinh xương máu sẽ trở nên
xa vời và vô vọng, mong muốn thiết tha của Bác Hồ cũng không thực hiện được,
Đảng chân chính sẽ khơng cịn và Nhà nước sẽ biến chất, dân tộc sẽ bị bóc lột, bị
tước đoạt quyền lực và tài sản của cải, chế độ xã hội sẽ là một chế độ khơng có
dân chủ và tự do, khơng có bình đẳng.

Lúc này, hơn lúc nào hết, các cấp ủy và toàn Đảng phải nhận thức rõ nguy
cơ và quyết tâm bảo vệ quyền lợi dân tộc, thành quả cách mạng và bảo vệ chính
Đảng ta, khơng để Đảng bị “nhóm lợi ích” và “chủ nghĩa tư bản thân hữu” thao
túng, làm hư hỏng, biến chất, dẫn đến đổ vỡ.

Chống “lợi ích nhóm” là cơng việc hết sức khó khăn, phức tạp, vì khơng
rõ “chiến tuyến”, thường ở trong trạng thái lẫn lộn trắng đen, trong nó có ta và
trong ta có nó, vừa là ta lại vừa là nó.

Ngoài việc cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc tình hình và nguy cơ, cần thảo
luận rộng rãi trong Đảng và trên công luận. Đảng và cả hệ thống chính trị phải
kiên quyết đấu tranh chống “lợi ích nhóm”, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, hết
sức hệ trọng và cấp bách; tập thể lãnh đạo từ cấp cao nhất cần có quyết tâm

chính trị và thật sự gương mẫu trong việc đấu tranh chống “lợi ích nhóm”, sử

dụng tất cả các biện pháp có thể; khẩn trương nghiên cứu ban hành bổ sung, điều
chỉnh các cơ chế kiềm soát quyền lực (bằng quyền lực nhà nước, quyền lực của
nhân dân và công luận); cơ chế thực thi dân chủ rộng rãi, minh bạch thơng tin và
quy định rõ trách nhiệm giải trình, điều trần; tạo hành lang pháp lý chặt chẽ cho
báo chí vào cuộc, cho nhân dân thực hiện quyền tham chính; đổi mới căn bản
cơng tác cán bộ, thực hiện tranh cử trước nhân dân đối với các chức danh bầu cử
và thi tuyển công khai đối với các chức vụ quản lý, đồng thời thực hiện cơ chế
giám sát hoạt động, kết quả công việc, thi hành việc bãi miễn và thay đổi vị trí
cơng tác của cán bộ khi xét thấy khơng có lợi cho cuộc đấu tranh chống “lợi ích
nhóm”./.


×