Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Các Tư Tưởng Tâm Lý Học Trong Triết Học Trunghoa Và Hy Lạp Cổ Đại.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.67 KB, 58 trang )

lOMoARcPSD|38146348

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - TÀI CHÍNH

BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Đề tài:

CÁC TƯ TƯỞNG TÂM LÝ HỌC TRONG TRIẾT HỌC TRUNG
HOA VÀ HY LẠP CỔ ĐẠI

Khoa: Quan hệ công chúng và Truyền thông
Ngành: Tâm lý học
Môn: Lịch sử tâm lý học
Người hướng dẫn: Th.S. Nguyễn Anh Khoa
Người thực hiện: Phan Thị Hồng Nhung
MSSV: 200250017

Tp. Hồ Chí Minh, 2022

Downloaded by van Nguyen ()

lOMoARcPSD|38146348

2

Downloaded by van Nguyen ()

lOMoARcPSD|38146348


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...............................................................................................................5
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.....................................................................................5
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU..............................................................................6
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU...........................................................................6
4. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU..........................................................................6
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU..............................................................................6
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC................................................6
7. PHẠM VI NGHIÊN CỨU.................................................................................7

7.1. PHẠM VI THỜI GIAN....................................................................................7
7.2. PHẠM VI KHÔNG GIAN...............................................................................7
8. CẤU TRÚC.......................................................................................................7
NỘI DUNG............................................................................................................8
PHẦN 1: TƯ TƯỞNG TÂM LÝ HỌC TRONG TRIẾT HỌC THỜI CỔ ĐẠI....8
1. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG CỔ ĐẠI....................................8
1.1. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ ĐẠI.......................................8
1.1.1. Nho giáo..........................................................................................................8
1.1.2. Mặc gia..........................................................................................................15
1.1.3. Danh gia........................................................................................................18
1.1.4. Đạo gia..........................................................................................................21
1.1.5. Pháp gia.........................................................................................................26
2. TƯ TƯỞNG TÂM LÝ HỌC TRONG TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI..........28

3

Downloaded by van Nguyen ()

lOMoARcPSD|38146348


2.1. TRIẾT HỌC TRƯỚC SOCRATES..............................................................28
2.1.1. Trường phái Milet..........................................................................................28
2.1.2. Heraclitus.......................................................................................................30
2.1.3. Pythagoras.....................................................................................................32
2.1.4. Trường phái Élée...........................................................................................33
2.1.5. Empedocles...................................................................................................37
2.1.6. Học thuyết nguyên tử - Democritus...............................................................39
2.1.7. Phái nguỵ biện...............................................................................................41
2.2. TRIẾT HỌC TỪ SOCRATES TRỞ ĐI........................................................43
2.2.1. Socrates.........................................................................................................43
2.2.2. Plato............................................................................................................... 44
2.2.3. Aristoteles......................................................................................................46
2.2.4. Phái khoái lạc – Epicurus..............................................................................51
2.3. Y HỌC HY LẠP THỜI KỲ ĐẦU..................................................................51
2.3.1. Alcmaeon.......................................................................................................51
2.3.2. Hippocrates....................................................................................................52
PHẦN 2: ĐÁNH GIÁ CHUNG SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC TƯ TƯỞNG
TRIẾT HỌC THỜI TRUNG HOA VÀ HY LẠP CỔ ĐẠI ĐẾN TÂM LÝ HỌC
HIỆN ĐẠI............................................................................................................54
1. VỀ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ ĐẠI...................................54
2. VỀ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI............................................55
3. VÀI NÉT SO SÁNH.........................................................................................56
KẾT LUẬN.........................................................................................................57
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................58

4

Downloaded by van Nguyen ()


lOMoARcPSD|38146348

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong thời buổi ngày nay, tâm lý học đã trở thành một trong những ngành khoa học
quan trọng hay có thể nói là “khơng thể thiếu” đối với đời sống của con người chúng
ta. Để lĩnh hội được kiến thức về tâm lý học, người học khơng chỉ tinh thơng những
kiến thức chun ngành mà cịn phải hiểu về lịch sử phát triển của ngành khoa học
mới mẻ này. Vì là ngành khoa học chuyên nghiên cứu về con người, mà xã hội, văn
hoá, văn minh lại là sản phẩm do con người tạo ra nên lẽ dĩ nhiên tâm lý học có mối
liên hệ mật thiết với văn hố và xã hội, thậm chí là không thể tách rời.

Tâm lý học thực ra không chỉ xuất hiện trong thế giới hiện đại, mà nó đã xuất hiện
từ thời cổ đại thơng qua các tư tưởng triết học, chỉ là tâm lý học có những tên gọi khác
như là “thế giới trừu tượng” theo quan điểm của Pythagoras hay “linh hồn” theo cách
nói của Platon. Để xây được một ngôi nhà đầy đủ tiện nghi, tất yếu phải có một nền
móng vững chắc. Ngôi nhà ở đây là các trường phái tâm lý học đã nảy sinh trong thế
giới hiện đại, và nền móng là những tư tưởng cốt lõi mà các bậc thánh hiền khi xưa đã
sớm chiêm nghiệm và truyền lại cho con cháu đời sau tiếp tục phát triển trong một
hình thái khác. Có được một nền móng vững chắc, ta mới có đủ tự tin để tiếp tục tiếp
cận những cái đã phát sinh ở đời sau – đó là điều mà tôi tin tưởng.

Khám phá các tư tưởng triết học thời cổ đại, ta sẽ được gợi nhắc lại những tư tưởng
đi trước thời đại cũng như những ý tưởng đã từng được khai phá nhưng vì một lý do
nào đó lại bị lãng qn. Thậm chí ý tưởng đó khơng biến mất vì nó sai, mà là vì nó
khơng hợp với thời đại hoặc là khơng được người ta ưa chuộng. Ngồi ra, việc hiểu
biết các tư tưởng triết học thời cổ đại không chỉ giúp ta bổ sung kiến thức, mà còn rút
kinh nghiệm từ các sai lầm đã từng có trong tư tưởng thời đó và tránh lặp lại sai lầm.


Còn đối với lý do cá nhân, việc nghiên cứu các tư tưởng triết học thời cổ đại giúp
cho tơi mở rộng vốn kiến thức của mình, từ đó tăng thêm nềm yêu thích đối với ngành
học tâm lý học nói riêng và văn hố xã hội nói chung. Thêm vào đó nâng cao kỹ năng
nghiên cứu, phục vụ cho các công việc học tập sau này.

5

Downloaded by van Nguyen ()

lOMoARcPSD|38146348

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Tơi mong muốn các kết quả nghiên cứu có thể cung cấp thơng tin đến cho người
cần biết. Từ đó, người đọc có thể nâng cao vốn hiểu biết của mình về nguồn gốc
của ngành tâm lý học và tránh hiểu sai về ngành. Ngồi ra tơi cũng muốn nhấn
mạnh rằng tâm lý học không phải là một điều xa lạ, mà nó đã tồn tại trong một
thời gian rất lâu trước đây và rất đỗi quen thuộc với chúng ta.
- Qua kết quả nghiên cứu, đưa ra đánh giá chung về các tư tưởng triết học thời cổ
đại và ảnh hưởng của nó đến ngành tâm lý học hiện đại. Qua đó đưa ra những
giải pháp nghiên cứu và áp dụng các tư tưởng đó hiệu quả trong đời sống.

3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Các tư tưởng tâm lý học trong triết học Trung Hoa và Hy Lạp cổ đại.

4. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
- Các tư tưởng tâm lý học trong triết học Trung Hoa Cổ đại: Nho gia, Đạo gia,
Danh gia, Mặc gia, Pháp gia
- Các tư tưởng tâm lý học trong triết học Hy Lạp Cổ đại: Triết học trước Socrates,
Triết học từ Socrates trở đi, Y học Hy Lạp cổ đại

- Ảnh hưởng của các tư tưởng triết học trên đến tâm lý học hiện đại.

5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu và đưa ra thơng tin chính xác về các tư tưởng triết học thời Trung
Hoa và Hy Lạp cổ đại.
- Nêu ra ảnh hưởng của các tư tưởng triết học cổ đại đến tâm lý học hiện đại.

6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Phương pháp nghiên cứu: tham khảo tổng kết tài liệu.

7. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

6

Downloaded by van Nguyen ()

lOMoARcPSD|38146348

7.1. Phạm vi thời gian
- Các tư tưởng triết học Trung Hoa cổ đại: 500 tr.CN – 200 tr.CN
- Các tư tưởng triết học Hy Lạp cổ đại: 600 tr.CN – 200 tr.CN

7.2. Phạm vi không gian
Trung Hoa Cổ đại và Hy Lạp cổ đại.

8. CẤU TRÚC
- Phần 1: Phân tích các tư tưởng tâm lý học trong triết học Trung Hoa và Hy Lạp
cổ đại.
- Phần 2: Đánh giá chung ảnh hưởng của các tư tưởng triết học Trung Hoa và Hy
Lạp cổ đại đến tâm lý học hiện đại


7

Downloaded by van Nguyen ()

lOMoARcPSD|38146348

NỘI DUNG
PHẦN 1: TƯ TƯỞNG TÂM LÝ HỌC TRONG TRIẾT HỌC THỜI

CỔ ĐẠI

1. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG CỔ ĐẠI

1.1. Tư tưởng triết học Trung Hoa cổ đại
1.1.1. Nho giáo
1.1.1.1. Khổng Tử
a. Sơ lược

Khổng Tử tên là Khâu, tự là Trọng Ni, sinh năm 551 tr. CN tại nước Lỗ (vùng phía
nam của tỉnh Đông Sơn nay thuộc miền đông Trung Quốc). Tổ tiên ông là quý tộc
nước Tống, cũng là hậu duệ của vương thất nhà Thương.

Khổng Tử tham chính ở nước Lỗ và đến năm 50 tuổi thì đạt chức quan cao. Mặc dù
thế, vì âm mưu chính trị mà ông phải từ chức và chu du thiên hạ nhằm thực hiện lý
tưởng cao cả là cải cách chính trị, tiếc là không thành công. Năm 479 tr.CN, ông mất
tại chính q hương của mình – nước Lỗ.
b. Sáng lập Nho gia

Khổng Tử là một nhà Nho và là người sáng lập học phái Nho gia, nên Nho gia cịn

có cái tên khác là Khổng giáo.

Khổng Tử nổi tiếng với bộ lục kinh, tuy nhiên trên thực tế ông không hề sáng tác,
chú giải hay biên tập quyển kinh nào cả. Thời của Khổng Tử, sách vở chỉ được viết bởi
quan lại nên Khổng Tử không được phép xuất bản bất cứ quyển sách tư nhân nào. Vì
vậy, Khổng Tử chỉ tính là người thầy đầu tiên chứ không phải là người viết sách đầu
tiên của đất nước Trung Hoa thời đó.

Khi chế độ phong kiến bắt đầu tan rã từ thế kỷ 7 tr.CN, những thầy giáo bị mất thân
phận quý tộc vẫn tiếp tục truyền giảng lục kinh và hành nghề “phụ tá” thuộc làu các
nghi lễ trong các dịp tang ma, cưới hỏi và nhiều lễ khác nữa. Những người này được
gọi là “nho” hay có nghĩa là văn nhân.

8

Downloaded by van Nguyen ()

lOMoARcPSD|38146348

c. Chính danh
Đối với Khổng Tử, muốn xây dựng nên một xã hội tốt đẹp thì mỗi một người phải

thực hiện tốt cái gọi là “chính danh”. Tức là “thực” (sự vật trên thực tế) phải thực hiện
đúng chức năng của cái tên – tức là “danh” mà nó mang trên mình. Khi Tử Lộ hỏi nếu
ơng cai trị một nước thì việc đầu tiên ơng phải làm là gì, Khổng Tử đáp: “Phải chính
danh!”

Bản chất của một nhà vua thì gọi là “quân đạo” (đạo làm vua), chỉ khi một ông vua
hành động theo qn đạo thì ơng ta mới chân chính là một vị vua. Nếu khơng hành
động theo qn đạo, thì đó khơng phải là một ơng vua đích thực nữa.

d. Nhân và nghĩa

Ai ai trong xã hội cũng đều có việc phải làm, việc phải làm này là “nghĩa”. Chúng
phải được làm vì chúng là những việc phù hợp với quy chuẩn đạo đức mà ta cần phải
làm. Nhưng nếu như những việc làm ấy vi phạm quy chuẩn đạo đức, thì đó khơng cịn
nghĩa nữa, mà là “lợi”. Nghĩa và lợi là hai mặt hoàn toàn đối lập nhau. Khổng Tử nói:
“Quân tử hiểu rõ nghĩa, tiểu nhân hiểu rõ lợi.” ý chỉ phân biệt giữa nghĩa và lợi.

Vậy vì sao lại phải thực hiện “nghĩa”, Khơng Tử đáp: “Ái nhân.” Chữ “nhân” chính
là bản chất cụ thể của nghĩa vụ này. Người yêu người khác chính là người có thể làm
trịn nghĩa vụ xã hội, như cha mẹ yêu con thì thực hành nghĩa vụ làm cha mẹ; con yêu
cha mẹ thì thực hiện nghĩa vụ làm tròn chữ hiếu.
e. Đạo trung thứ

Theo Khổng Tử, thực hành nhân là “suy ta ra người”. Về mặt tích cực có nghĩa là
“điều gì mình muốn người ta làm cho mình thì mình cũng làm cho họ”, Khổng Tử gọi
là trung. Trái lại, “điều gì mình khơng muốn thì chớ làm nó cho người khác”, Khổng
Tử gọi là thứ. Toàn bộ việc thực hành nhân gọi là đạo trung thứ.

Việc thực hành nhân tức là làm tròn nghĩa vụ trong xã hội, bao gồm cả nghĩa. Vì
vậy, đạo trung thứ trở thành cái mở đầu cũng như là kết thúc của đời sống đạo đức của
mỗi con người.
f. Tri mệnh

9

Downloaded by van Nguyen ()

lOMoARcPSD|38146348


Từ nghĩa, Khổng Tử suy ra “làm mà chẳng toan tính vì cái gì” (vơ sở vi nhi vi). Ta
làm là vì nó thuận theo đạo đức, vì đó là việc ta phải làm chứ khơng vì một lợi ích nào
cả.

Theo Nho gia, cá nhân khơng thể “vơ vi” vì mỗi người đều có việc phải làm, tuy
nhiên “làm chẳng vì cái gì”, kết quả khơng quan trọng mà quan trọng là q trình mà
một người hành động. Cũng như chính Khổng Tử dành suốt 13 năm cuộc đời để chu
du vì lý tưởng cải cách thế giới. Tuy hồi cơng nhưng ơng vẫn làm.

Khổng Tử cho rằng, khi làm thì cố gắng hết sức nhưng kết quả ra sao thì là do
“mệnh trời”. Ta chỉ cần thực hiện cái mà ta cần thực hiện, cịn có thành hay khơng thì
do ý trời. Hành động như vậy được gọi là tri mệnh.
g. Phương pháp giáo dục

Theo Khổng Tử, điều quan trọng nhất trong giáo dục là cải tạo nhân tính. Khổng Tử
cho rằng bản tính con người bao gồm cả thiện và ác, và chỉ có sự giáo dục mới hướng
con người ta đến cái thiện, cho nên việc giáo dục cịn được gọi là giáo hố vì giáo dục
có thể chuyển hố ác thành thiện.

Đối với Khổng Tử, có ba mục đích chính trong giáo dục:
- Học là để ứng dụng vào cuộc sống, học là để giúp đời.
- Học là để hồn thiện nhân tính.
- Học là để mưu cầu chân lý.
Học nhất thiết phải đi đôi với hành, và việc học địi hỏi sự tư duy chứ khơng được
học thuộc lịng, học vẹt, do vậy Khổng Tử nhấn mạnh rằng: “Học mà khơng tư duy thì
mờ ám khơng hiểu, tư duy mà thiếu sự học thì chỉ là suy nghĩ viễn vơng.” (Luận ngữ).
Ngồi ra, Khổng Tử cịn đề cao vào sự ơn tập những gì mình đã học: “Ôn cố nhi tri
tân” (Học lại cái cũ để biết những điều mới) – Luận Ngữ. Tức là không những phải có
một trí nhớ tốt, mà cịn là học một biết mười, từ cái cũ suy ra cái mới.
1.1.1.2. Mạnh Tử

a. Sơ lược

10

Downloaded by van Nguyen ()

lOMoARcPSD|38146348

Mạnh Tử (371?-289? Tr.CN) là người nước Trâu. Ông theo học một đệ tử của Tử
Tư, mà Tử Tư là cháu nội Khổng Tử. Giống với Khổng Tử, Mạnh Tử cũng chu du
khắp nước, và khó lắm mới tìm được một vị vua biết lắng nghe lý luận của ơng. Cuối
cùng, ơng thối ẩn và viết sách Mạnh Tử, sau này được tôn vinh thành một trong Tứ
Thư nổi tiếng, làm nền tảng cho đạo Nho suốt một nghìn năm.

Mạnh Tử đại biểu cho phái lý tưởng của Nho gia; người sau ông là Tuân Tử thì đại
biểu cho phái hiện thực.
b. Tính thiện

Trước hết xin nhắc tới “đạo thực hành nhân” của Khổng Tử, tức là “suy ta ra người”
– làm những điều mà mình cần phải làm vì mục đích u người. Tuy nhiên, Khổng Tử
khơng giải thích vì sao con người ta lại cần phải “thực hành nhân”. Và Mạnh Tử đã
đưa ra một câu trả lời cho vấn đề này.

Thời của Mạnh Tử ngoài thuyết của ơng thì cịn ba thuyết khác. Thuyết đầu tiên cho
rằng “nhân tính khơng thiện khơng ác”. Thuyết thứ hai cho rằng “nhân tính hoặc thiện
hoặc ác”. Thuyết thứ ba cho rằng “nhân tính của một số người thì thiện, của một số
người thì ác”.

Thuyết của Mạnh tử tương tự với một khía cạnh của thuyết thứ hai, tức là trong
nhân tính có thiện, tuy nhiên trong con người cũng có yếu tố khơng thiện khơng ác mà

nếu như không được giáo dục sẽ hướng đến ác. Mạnh Tử cho rằng cái “không thiện
không ác” ấy là nhân tố chung của cả người lẫn động vật và khơng được xem là một
phần của “nhân” tính.

“…hễ khơng có lịng trắc ẩn thì chẳng là người; khơng có lịng hổ thẹn thì chẳng là
người; khơng có lịng từ nhượng thì chẳng là người; khơng có lịng phân biệt đúng sai
thì chẳng là người. Lịng trắc ẩn là đầu mối của nhân; lòng hổ thẹn là đầu mối của
nghĩa; lòng từ nhượng là đầu mối của lễ; lịng biết đúng sai là đầu mối của trí. Người
ta có bốn đầu mối ấy, cũng như có tứ chi. Đã có bốn đầu mối ấy mà vẫn khơng thể làm
được [nhân, nghĩa, lễ, trí], tức là tự hại mình vậy.” – Mạnh Tử (Công Tôn Sửu,
thượng), Lê Anh Minh dịch.

11

Downloaded by van Nguyen ()

lOMoARcPSD|38146348

“Tứ đoan” (bốn đầu mối) là điều tất yếu phải có trong nhân tính mà nếu phát triển
đầy đủ sẽ trở thành đức thường hằng (nhân, nghĩa, lễ, trí) mà Nho gia rất chú trọng.
Nếu ở trong một mơi trường thuận lợi, thì bốn đức này sẽ phát triển vẹn tồn từ bên
trong.

Cịn có câu hỏi: Tại sao phải để cho tứ đoan phát triển mà không phải là để cho bản
năng thấp hèn kia phát triển? Mạnh Tử đáp: chính tứ đoan phân biệt người với cầm
thú. Phải có tứ đoan thì con người mới trở thành “người”. Có thể thấy được, Mạnh Tử
đã sớm có một quan điểm rất rõ ràng về cấu trúc nhân cách của con người.
c. Tư tưởng chính trị

Mạnh Tử cho rằng “con người là động vật chính trị” và chỉ có trong một xã hội

được tổ chức hồn chỉnh thì con người mới có thể phát triển. Quốc gia là một cơ cấu
đạo đức vì vậy người cai trị phải là một thánh nhân. Nếu người cai trị thiếu phẩm chất
đạo đức thì nhân dân có quyền lật đổ, thậm chí có thể giết vua.
d. Lý luận về siêu hình

Theo Mạnh Tử, vũ trụ thực chất là một vũ trụ đạo đức, tức là các nguyên lý đạo đức
của con người cũng là nguyên lý hình thành vũ trụ, và gọi sự hiểu biết cõi vũ trụ đạo
đức này là “tri thiên” (biết trời).

Mạnh tử cũng cho rằng, nếu phát triển tồn vẹn nhân tính của mình, thì một con
người khơng chỉ “tri thiên” mà cịn “đồng thiên” (đồng nhất với Trời). Qua việc thực
hành đạo trung thứ, thói ích kỷ và vị ngã của con người sẽ giảm đi, và để lại sự đồng
nhất trong tâm hồn giữa người với người, từ đó sự phân biệt giữa cá nhân với vũ trụ
cũng đứt tuyệt, tức là cá nhân đồng nhất với vũ trụ. Điều đó dẫn tới câu nói của Mạnh
Tử: “Vạn vật đều có đủ trong ta.” (“Vạn vật giai bị ư ngã hỉ” – Mạnh Tử (Tận Tâm),
thượng).
1.1.1.3. Tuân Tử
a. Sơ lược

Tuân Tử tên thật là Huống, cũng có tên Tuân Khanh, là người nước Triệu. Niên đại
của Tuân Tử không được biết rõ, có lẽ vào khoảng 298-238 tr.CN.

12

Downloaded by van Nguyen ()

lOMoARcPSD|38146348

Đối lập với tư tưởng lý tưởng của Mạnh Tử, Tuân Tử theo phái hiện thực. Mạnh Tử
chú trọng vào tự do cá nhân, và cũng đề cao giá trị siêu đạo đức nên ông gần với tôn

giáo hơn. Tuân Tử chú trọng sự kiểm soát xã hội, và đề cao chủ nghĩa tự nhiên nên ông
đối lập với mọi tư tưởng tơn giáo.
b. Nhân tính

Trái ngược với thuyết tính thiện của Mạnh Tử, Tuân Tử đưa ra thuyết tính ác. Theo
Tn Tử, cái gì thiện đều là thành quả qua nỗ lực giáo hoá của con người. Cũng vì thế,
con người mới có tầm quan trọng ngang hàng với trời và đất.

“Trời có bốn mùa, đất có tài nguyên, người có sự cai trị. Như vậy, người với trời
đất tạo thành bộ tam (tam tài).” – Tuân Tử (Thiên Luận), Lê Anh Minh dịch.

Tuân Tử cho rằng thiên, địa, nhân (tam tài) mỗi thế lực đều có đặc thù riêng, và
nhiệm vụ của con người là sử dụng những tài nguyên mà trời và đất cung cấp để tự
giáo hố chính mình. Nhân tính cũng phải được giáo hố, nếu khơng giáo hố thì ác
chẳng thể chuyển hố thành thiện.

Theo Mạnh Tử, con người được sinh ra với tứ đoan của bốn đức thường thằng nhân,
nghĩa, lễ, trí. Nhưng theo Tuân Tử, con người sinh ra khơng có thiện đoan mà ngược
lại là có ác đoan. Tuân Tử nói rằng con người bẩm sinh có ham muốn khối lạc và vị
kỷ. Tuy nhiên vì con người có trí thơng minh nên các ác đoan này có thể bị kiềm lại
thơng qua giáo hố, từ đó hướng thiện. Vì vậy, khi Mạnh Tử nói ai cũng có thể thành
vua vì họ vốn thiện, thì Tn Tử lại cho rằng bất cứ ai cũng có thể thành vua vì họ vốn
thơng minh.
c. Đạo đức

Nếu con người là ác bẩm sinh, vậy đâu là nguồn gốc của thiện (đạo đức)? Để trả lời
cho câu hỏi này, Tuân Tử đưa ra hai luận chứng.

Luận chứng đầu tiên, con người không thể sống thiếu xã hội vì con người cần hợp
tác và tương trợ để có một cuộc sống tốt đẹp hơn.


“Sức khơng khoẻ bằng trâu bị, chạy khơng nhanh bằng ngựa, thế mà con người sử
dụng được trâu bò ngựa, tại sao thế? Đáp: vì con người có thể hợp quần, cịn lồi vật
kia thì khơng biết hợp quần.” – Tuân Tử (Vương Chế), Lê Anh Minh dịch.

13

Downloaded by van Nguyen ()

lOMoARcPSD|38146348

Mà để có một tổ chức xã hội có nề nếp, thì buộc con người phải định ra phép tắc xã
hội, phép tắc ấy gọi là lễ.

“Lễ bắt đầu từ đâu? Đáp: Người ta có lịng dục. Ham muốn mà chẳng được thì
khơng thể khơng mong cầu. Mong cầu mà khơng có chừng mực thì khơng thể khơng
tranh giành; tranh giành thì loạn, loạn thì khốn cùng. Các vua ngày xưa ghét loạn nê
chế ra lễ và nghĩa để phân định giới hạn.” – Tuân Tử (Lễ Luận), Lê Anh Minh dịch.

Vì vậy để có thể chung sống hồ bình với nhau, con người phải đề ra các giới hạn
mà mỗi người đều phải tuân theo nhằm hạn chế thoả mãn ham muốn cá nhân. Ai tuân
theo lễ thì hợp đạo đức. Ai trái lễ thì vơ đạo đức.

Quan điểm này của Tuân Tử giống một phần nào đó quan điểm của Sigmund Freud
– cha đẻ của ngành phân tâm học - về cấu trúc nhân cách bao gồm phần vơ thức, ý
thức và siêu tơi. Ở đó có những quy chuẩn xã hội như đạo đức, pháp luật kiềm hãm cái
vô thức và chỉ để lộ ý thức trên bề mặt. Tuy khác nhau rất lớn về cả khơng gian lẫn
thời đại, các tư tưởng vẫn vơ hình chung tương tự nhau. Và điều này càng nhấn mạnh
sự mẫn tuệ của Tuân Tử phải khiến người ta nể phục.


Tiếp tục với luận chứng thứ hai mà Tuân Tử đưa ra. Tuân tử chỉ ra sự khác biệt giữa
cái thuộc bản tính và cái thuộc giáo hố. Ví dụ như, động vật cũng có cha con, cũng
phân đực cái nhưng chúng lại khơng có mối quan hệ vợ chồng cha con như con người
chúng ta, đó là vì chúng chỉ sống theo bản năng. Cịn con người thì khác, vì có trí
thơng minh và giáo hố nên con người sáng tạo ra văn hoá và văn minh. Con người
phải có nhân luận và lễ vì chính những điều ấy giúp phân biệt con người với cầm thú.
Khơng phải vì con người khơng thể tránh nó, mà là vì cần có nó.
d. Các lý thuyết logic

Khổng Tử từng nói: “Vua ra vua, bầy tơi ra bầy tôi, cha ra cha, con ra con.” –
Luận Ngữ, Lê Anh Minh dịch. Tuy nhiên, Tuân Tử sống vào thời hưng thịnh của Danh
gia nên thuyết chính danh của ông không chỉ là nghĩa trên mặt chữ mà là còn phải
đúng với logic và đạo đức.

14

Downloaded by van Nguyen ()

lOMoARcPSD|38146348

Khả năng nhận biết gồm hai phần. Phần đầu tiên Tuân Tử gọi là thiên quan (các
giác quan), phần còn lại là tâm. Thiên quan tiếp nhận các ấn tượng, cịn tâm thì gán ý
nghĩa và định danh cho chúng.

“Khi ngũ quan nhận biết một thứ gì nhưng khơng phân loại nó được, thì tâm cố
nhận dạng nó nhưng khơng thể gán cho nó ý nghĩa, như thế người ta đành phải nói
khơng biết.” – Tuân Tử (Chính Danh, Lê Anh Minh dịch.).

Về cơng dụng logic của danh, Tn Tử nói: “Sau đó gán tên cho chúng. Cùng loại
thì cùng danh, khác loại thì khác danh. […] Ta biết thực (sự vật) khác nhau thì danh

(tên) phải khác nhau, do đó hễ thực mà khác nhau thì khơng thể khơng gán cho chúng
cái danh khác nhau. Tương tự, hễ thực mà giống nhau thì khơng thể khơng gán cho
chúng cái danh giống nhau.” (Chính Danh, Lê Anh Minh dịch.)

Về sự phân loại logic của danh, Tuân Tử phân biệt hai loại danh: cộng danh và biệt
danh. Cộng danh là kết quả từ q trình tổng hợp, cịn biệt danh là kết quả của q
trình phân tích.

Tất cả danh đều do con người mà thành, và chẳng có lý do tại sao một “thực” (sự
vật thực tế) này lại có cái danh này mà là khơng phải cái danh khác. Ví dụ, đồ vật đầu
tiên gọi là “cái bàn”, nhưng nếu ban đầu thì ta gọi là “cái ghế” cũng được. Nhưng hễ
danh đã được đặt cho thực rồi, thì nó phải gắn liền với thực đó chứ không phải là thực
khác. Dần dần, qua thời gian thì cái danh mà con người đặt cho thực nó trở thành một
quy ước.
1.1.2. Mặc gia
1.1.2.1. Mặc Tử
a. Sơ lược

Mặc Tử họ Mặc, tên là Địch, ông có lẽ sinh và mất năm 473-381 tr.CN. Mặc Tử
sáng lập học phái mang tên ông – Mặc gia. Nếu Khổng Tử là người cố hợp lý hoá
những quan niệm từ thời cổ, thì Mặc Tử là người phê phán những quan niệm ấy. Học
thuyết của Mặc Tử đa phần là chống lại các tập tục truyền thống, và cũng chống lại
Khổng Tử và các Nho gia.
b. Đạo đức của Mặc gia

15

Downloaded by van Nguyen ()

lOMoARcPSD|38146348


Trong thời Chu thì các quý tộc đều có võ sĩ của riêng mình. Tuy nhiên khi chế độ
phong kiến tan rã thì các võ sĩ này lưu lạc khắp nước và trở thành “du hiệp”. Họ không
tiếc mạng sống mà lăn xả vào hiểm nguy để cứu giúp kẻ yếu. Đa phần học thuyết của
Mặc gia xuất phát từ tinh thần trượng nghĩa ấy.

Mặc Tử cũng có xuất thân từ du hiệp. Thời ấy Mặc gia cịn thành lập một đồn thể
hoạt động kỷ luật như quân sự, mà Mặc Tử là thủ lĩnh của một trong các nhóm đồn
thể thời ấy.
c. Kiêm ái

Đối với Mặc Tử, nhân và nghĩa tức là kiêm ái (yêu khắp mọi người). Người có nhân
nghĩa là người có thể kiêm ái. Điều này cũng xuất phát từ đạo đức nghề nghiệp của
hạng người du hiệp thời đó.

Trong sách Mặc Tử, đầu tiên ông phân biệt giữa hai nguyên lý biệt và kiêm. Người
theo biệt nói: “Tơi làm sao lại cọi thân bạn như thân ta, coi cha mẹ bạn như cha mẹ ta
được.” Người theo kiêm nói: “Ta coi thân bạn như thân mình, coi cha mẹ bạn như cha
mẹ mình.” Vì vậy kẻ theo biệt sống lạnh lùng dửng dưng, người theo kiêm sống chan
hồ tình thương với tất cả mọi người.

Vậy những kẻ ác thì thuộc về phái kiêm hay biệt? Mặc Tử đáp: “Tất nhiên là phái
biệt. Người ta vì biệt mà gây ra các mối hại lớn cho thiên hạ, cho nên biệt là sái
quẩy.” (Kiêm Ái, hạ, Lê Anh Minh dịch.). Vậy lấy gì thay thế cho biệt? Mặc Tử lại
đáp: “Lấy kiêm mà thay cho biệt.” (Kiêm Ái, hạ, Lê Anh Minh dịch).

“Nước này không làm loạn nước khác, nhà này khơng làm loạn nhà kia, vậy thì có
lợi hay có hại cho thiên hạ? Tất nhiên là lợi cho thiên hạ. Nguyên nhân của cái lợi đó
từ đâu? Có phải phát sinh từ lòng ghét người và làm hại người? Tất nhiên là khơng.
Vậy thì do lịng thương người và làm lợi cho người mà sinh ra. Như vậy những kẻ

thương người và làm lợi cho người thuộc về phái kiêm hay phái biệt? Tất nhiên là
phái kiêm. Người ta vì kiêm mà làm lợi cho thiên hạ, cho nên kiêm là đúng.” – Mặc
Tử (Kiêm Ái, hạ), Lê Anh Minh dịch.
d. Tư tưởng chính trị

16

Downloaded by van Nguyen ()

lOMoARcPSD|38146348

Theo Mặc Tử, nhiệm vụ của người cai trị là giám sát hành động của dân chúng,
khen thưởng những người thực hành kiêm ái và trừng phạt những người theo biệt.
Nhưng để làm được điều này thì quyền uy của vua phải tuyệt đối. Và theo ông, dân
chúng khơng cịn cách nào khác ngồi việc chấp nhận thứ quyền uy như vậy.

“Ngày xưa lúc dân mới sinh ra, pháp luật và chính phủ chưa có. Cho nên mỗi
người mỗi ý, trăm người tăm ý, người càng đơng thì ý càng nhiều. Ai cũng cho ý mình
đúng, ý người khác sai, nên chê bai nhau. Vì thế, trong nhà thì cha con anh em ốn
ghét nhau, ly tán nhau, khơng hồ hợp nhau. Trăm họ trong thiên hạ đều lấy nước,
lửa, thuốc độc mà hại nhau. Kẻ mạnh không giúp kẻ yếu. Của cái dư thừa để cho mục
nát chứ không chia sẻ nhau. Những cách thức hay tốt thì giấu diếm chứ khơng dạy
nhau. Thiên hạ loạn không khác chi cầm thú. Thiên hạ loạn vì khơng có người trên
nắm giữ chính trị. Vì thế, thiên hạ chọn người hiền và giỏi giang để làm thiên tử.” –
Mặc Tử (Thượng Đồng, thượng), Lê Anh Minh dịch.

Qua chế tài chính trị này, Mặc Tử hy vọng ai ai cũng có thể thực hành kiêm ái.
1.1.2.2. Mặc gia giai đoạn cuối

Thuyết kiêm ái

Các Mặc gia giai đoạn cuối đều cho rằng hành vi của con người đều nhằm vì lợi mà
tránh hại. Cả họ lẫn Mặc Tử đều đồng nhất lợi với nghĩa, đối lập với Nho gia. Nhưng
cái lợi của Mặc gia mang một ý nghĩa khác với cái lợi toan tính của Nho gia, đó là:
“Lợi là cái ta có được mà ta vui. Hại là cái ta có được mà ta ghét.” Tương tự với
Jeremy Bentham, một nhà chính trị gia, triết gia người Anh theo chủ nghĩa vị lợi,
Bentham đã viết rằng: “Thiên nhiên đã đặt con người dưới quyền cai trị của hai ông
chủ tối cao, “đau khổ” và “khoái lạc”. […] Chúng cai trị chúng ta trong mọi việc
chúng ta làm, mọi lời chúng ta nói, mọi điều chúng ta suy nghĩ.” – Lưu Văn Hy dịch.
Như vậy, Bentham đã đưa thiện và ác xuống vấn đề khoái lạc và đau khổ.
Ở đây ta thấy có một sự tương đồng giữa các Mặc gia và các triết gia theo chủ nghĩa
khoái lạc, dù khác nhau ở cách biểu đạt nhưng về bản chất thì đều là một.
Vậy, người trong thiên hạ thì vơ cùng, làm sao có thể yêu hết họ được? Kinh Thuyết
Hạ đáp: “Nếu người ta khơng làm đầy cái vơ cùng, thì họ có một giới hạn. Bao gồm

17

Downloaded by van Nguyen ()

lOMoARcPSD|38146348

hết cái có giới hạn thì khơng khó gì. Nếu họ làm đầy cái có giới hạn, thì cái vơ cùng sẽ
cùng tận. Bao gồm hết cái có giới hạn thì khơng khó gì.”

Có một phản bác nữa cho rằng: nếu khơng u một người có nghĩa là khơng u
mọi người thì đừng “sát đạo” (giết kẻ trộm). Kinh Thuyết Thượng nói: “Tuy kẻ trộm là
người, nhưng yêu kẻ trộm đâu phải yêu người; không yêu kẻ trộm đâu phải là không
yêu người; giết kẻ trộm đâu phải là giết người. Điều ấy có gì là khó hiểu?”

Với biện luận trên, các Mặc gia giai đoạn cuối đã bác bỏ ý kiến cho rằng giết kẻ
trộm trái với kiêm ái.

1.1.3. Danh gia
1.1.3.1. Huệ Thi
a. Sơ lược

Huệ Thi (350-260 tr.CN) là người nước Tống. Ông từng làm tướng cho Nguỵ Huệ
Vương. Huệ Thi nổi tiếng hiểu sâu biết rộng về tất cả mọi mặt và đặc biệt là rất giỏi
biện luận, theo như thuật ngữ ngày nay có thể gọi ơng là một nhà nguỵ biện.
b. Thuyết tương đối

Trong sách của Trang Tử có chép “mười điều” của Huệ Thi.
Điều thứ nhất trong thuyết tương đối của Huệ Thi: “Cái cực lớn và khơng có gì ở
ngồi nó thì gọi là Đại Nhất. Cái cực nhỏ và khơng có gì ở trong nó thì gọi là Tiểu
Nhất.” Ở đây có thể thấy Huệ Thi đã đề cập đến hai khái niệm chỉ có trong trừu tượng:
“cực lớn” và “cực nhỏ”. Trong thế giới của chúng ta, không có vật gì lớn nhất cũng
như nhỏ nhất, mà chỉ có những vật lớn tương đối và nhỏ tương đối. Tuy trong thực tại
không hề tồn tại vật nào phù hợp với hai khái niệm trừu tượng này, chúng ta vẫn có thể
hình dung được cái cực lớn là khơng có gì ngồi nó, và cái cực nhỏ là khơng có gì
trong nó.
Hai khái niệm này mang tính chất tuyệt đối và bất biến, và cái gì khơng phải thuộc
hai khái niệm này thì đều có tính tương đối và có thể biến đổi. Tức là mọi sự vật trong
thế giới mà ta kinh nghiệm được không hề thường hằng mà ln biến đổi.
Chín điều cịn lại của Huệ Thi đều dựa trên tính chất tương đối này.

18

Downloaded by van Nguyen ()

lOMoARcPSD|38146348

Điều thứ hai của Huệ Thi: “Cái không dày thì khơng thể tích chứa, nhưng độ lớn

của nó đến ngàn dặm.”

Điều thứ ba: “Trời và đất thấp như nhau; núi và ao đầm ngang bằng nhau.”
Điều thứ tư: “Mặt trời vừa chính ngọ vừa xế; vật vừa sinh ra vừa chết đi.”
Điều thứ năm: “Giống nhau lớn khác với giống nhau nhỏ, đó gọi là sự giống và
khác nhỏ. Vạn vật đều có chỗ giống nhau và đều có chỗ khác nhau, đó gọi là sự giống
và khác lớn.” Mọi vật đều giống nhau nhưng cũng có thể khác nhau. Sự giống nhau và
khác nhau chỉ mang tính chất tương đối.
Điều thứ sáu: “Phương Nam có giới hạn mà cũng khơng có giới hạn.” Ở đây muốn
nói điều có giới hạn và điều khơng có giới hạn cũng chỉ là tương đối.
Điều thứ bảy: “Hôm nay tôi đến nước Việt và đã tới đó ngày hơm qua.” Hiện tại và
q khứ cũng mang tính tương đối.
Điều thứ tám: “Những vịng liên kết có thể tách rời.” Ví dụ để làm ra giấy thì ta cần
phải chặt cây lấy gỗ. Đối với gỗ đó là phá huỷ nhưng đối với giấy thì đó là sự sáng tạo.
Vì vậy phá huỷ và sáng tạo chỉ mang tính tương đối.
Điều thứ chín: “Tơi biết trung tâm của thiên hạ; nó nằm ở phía Bắc của nước Yên
và phía Nam của nước Việt.” Ngày ấy người Trung Hoa xem nước mình là cả thiên hạ,
nước Yên ở phía Bắc và nước Việt ở phía Nam, vì vậy trung tâm của thiên hạ dĩ nhiên
là nằm phía Bắc nước Yên và phía Nam nước Việt.
Điều thứ mười của Huệ Thi: “Yêu khắp vạn vật, xem trời đất là một thể.” Giữa vạn
vật khơng có sự giống nhau và sự khác nhau một cách tuyệt đối. Vạn vật đều là một vì
vậy ta nên yêu vạn vật một cách bình đẳng.
1.1.3.2. Công Tôn Long
a. Sơ lược
Công Tôn Long (325-250 trc.CN) là một triết gia nổi tiếng thuộc phái Danh gia. Có
rất ít tài liệu nhắc đến ơng, và nhiều tác phẩm của ông đã bị mất. Tương truyền rằng
khi Công Tôn Long cưỡi ngựa qua ải quan, lính gác đã nói: “Ngựa khơng được phép

19


Downloaded by van Nguyen ()

lOMoARcPSD|38146348

qua ải quan.” Công Tôn Long đáp rằng: “Ngựa ta cưỡi là ngựa trắng. Ngựa trắng
khơng phải là ngựa.” Nói xong ông cưỡi ngựa đi qua.
b. Thuyết cộng tướng

Công Tôn Long đã đưa ra một khái niệm rất tương tự với Plato về “thế giới của
hình mẫu”. Trong trứ tác của Cơng Tơn Long có thiên gọi là Bạch Mã Luận. Thiên này
tập trung phân tích một mệnh đề “Ngựa trắng không phải là ngựa”.

“Ngựa là để gọi hình; trắng là để gọi màu sắc. Gọi màu sắc tức là khơng gọi hình.
Cho nên nói: Ngựa trắng khơng phải ngựa.” Nói một cách dễ hiểu, “ngựa” ám chỉ một
loài động vật, “trắng” ám chỉ một màu sắc, cịn “ngựa trắng” ám chỉ một lồi động vật
cộng với một màu và chúng luôn đi chung với nhau tạo ra một ý nghĩa khác. Vì vậy
“ngựa trắng” không phải “ngựa”, và “ngựa trắng” cũng không phải “trắng”.

Thêm một luận điểm thứ hai: “Khi ta cần ngựa, thì ngựa vàng và ngựa ơ đều có thể
mang đến. Khi ta cần ngựa trắng thì ngựa vàng và ngựa ô đều không thể mang đến.
[…] Cho nên ngựa vàng và ngựa ơ cùng là một lồi động vật, nên có thể đáp ứng nhu
cầu cần ngựa, nhưng không thể đáp ứng nhu cầu cần ngựa trắng. Vậy rõ ràng ngựa
trắng không phải ngựa.” “Ngựa” ám chỉ tất cả các con ngựa, bất kể là màu gì thì cũng
có thể là “ngựa”. Nhưng “ngựa trắng” thì chỉ là một mà thơi. Vì vậy “ngựa” khơng
phải là “ngựa trắng”.

Luận điểm thứ ba của Công Tôn Long: “Ngựa tất phải có màu sắc, nên có màu
trắng. Nếu khiến cho ngựa khơng có màu sắc, tức chỉ là có ngựa thơi. Vậy làm sao có
được ngựa trắng? Cho nên màu trắng không phải là ngựa. Ngựa trắng nghĩa là ngựa
với trắng; ngựa với trắng không phải là ngựa. Cho nên nói ngựa trắng khong phải là

ngựa.” Cộng tướng hay hình mẫu “ngựa” là ý chỉ một ý tưởng về ngựa, một con ngựa
mà ai cũng có thể hình dung trong tâm trí chứ khơng phải là một con ngựa cụ thể trong
thế giới hiện tượng. Nó khơng hề ám chỉ màu sắc. Vì vậy nói con ngựa khơng có nghĩa
là con ngựa trắng. Do đó, ngựa trắng khơng phải là ngựa. Tương tự, “trắng” không ám
chỉ bất cứ vật gì có màu trắng trong thực tại, nó chỉ là một ý tưởng về một màu gọi là
“trắng” mà thôi. Nếu trong cõi thực tại không tồn tại một vật thể màu trắng nào, thì
cộng tướng “trắng” vẫn cứ là trắng. Nó khơng hề phụ thuộc vào bất cứ con ngựa nào
hay vật thể màu trắng nào. Tương tự, nếu ngay từ đầu ta không gọi ngựa là ngựa gọi

20

Downloaded by van Nguyen ()


×