Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

BTN tư tưởng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.63 KB, 13 trang )

BỘ

PHÁP

MƠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Trình bày các cơ sở lý luận hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh. Làm rõ vai trò của chủ
nghĩa Mác – Lênin đối với sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh
NHĨM:
LỚP:

Nội,
2023


MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một khoa học, dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác
- Lênin và trở thành ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam. Độc lập
dân tộc thống nhất với chủ nghĩa xã hội là nội dung cốt lõi, xuyên suốt tư
tưởng và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Nội dung đó được thể hiện
không chỉ ở tư tưởng của Người về dân tộc, về quan hệ dân tộc – giai cấp và
cách mạng giải phóng dân tộc; về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội; về đại đoàn kết dân tộc; về sự kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại; về Đảng Cộng sản và xây dựng Nhà nước của dân, do
dân, vì dân mà còn ở tư tưởng đạo đức và văn hố Hồ Chí Minh.
Tại Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ VII (tháng 6 - 1991) Đảng
Cộng sản Việt Nam đã trịnh trọng ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình:
“Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động”.Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX (tháng 4 - 2001), một lần nữa, điều đó lại được Đảng ta khẳng định. Sự


khẳng định này đã thể hiện bước phát triển mới trong nhận thức và tư duy lý
luận, tư duy chính trị của Đảng ta. Chúng ta có thể coi đó là một quyết định
có tầm lịch sử quan trọng, đáp ứng được những nhiệm vụ của thực tiễn đổi
mới đất nước đang đặt ra, cũng như tình cảm, nguyện vọng của tồn Đảng,
toàn dân. Việc học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách một
khoa học, có hệ thống để vận dụng và phát triển sáng tạo vào công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay là rất cần thiết và cấp bách.
Từ những lẽ đó, chúng em xin phân tích đề tài: “Trình bày các cơ sở
lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Làm rõ vai trị của chủ nghĩa
Mác-Lênin đối với sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh”


NỘI DUNG
I. Những giá trị truyền thống dân tộc
Việt Nam là dân tộc có nền văn hố lâu đời, được hình thành và phát triển
qua hàng ngàn năm lịch sử, có bản sắcriêng, trở thành nguồn ni dưỡng tinh
thần, nguồn sống mãnh liệt giúp cho dân tộc ta chiến thắng được âm mưu đồng
hoá của kẻ thù xâm lược
1. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống và ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất
để dựng nước và giữ nước của dân tộc
Dân tộc Việt Nam trong hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước
đã vun bồi tình cảm, tư tưởng yêu nước, ý chí kiên cường, bất khuất trong
đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và cuộc sống của nhân dân. Chủ nghĩa yêu
nước truyền thống Việt Nam mang đậm những nét đặc sắc riêng của mình.
Đó là tình yêu quê hương, yêu đất nước; yêu nước gắn với thương dân, dựa
vào dân, lấy dân làm gốc; yêu nước gắn với khát vọng về tự do, khát vọng
hồ bình. Tất cả những giá trị đó ln thống nhất, khơng tách rời nhau. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng,
thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to

lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và lũ cướp nước”
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thấu hiểu hơn ai hết truyền thống quý báu
này của dân tộc bởi người đã được dạy dỗ về những tư tưởng tiến bộ và lòng yêu
nước từ người cha vĩ đại của mình vì vậy Người đã sớm tiếp thu truyền thống
yêu nước của dân tộc. Nhờ có sức mạnh truyền thống ấy mà Người đã quyết
định ra đi tìm đường cứu nước, cứu cả dân tộc. Đó là động lực chi phối mọi suy
nghĩ, hành động của Người trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng. Người
đã từng viết: “lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phỉa chủ nghĩa
cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.


2. Tinh thần nhân nghĩa, tình thần đồn kết, tương thân, tương ái, giúp đỡ
và tương trợ lẫn nhau của con người Việt Nam
Truyền thống này đã luôn hiện hữu trong con người của nhân dân ta và
được thể hiện sâu sắc khi hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt chống giặc
ngoại xâm của dân tộc. Con người Việt Nam sống gắn bó, yêu thương, sẻ chia
và giúp đỡ lẫn nhau. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Tơi chỉ có một sự
ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành”. Đây là câu nói bất hữu của Bác, đã thắm sâu vào huyết mạch của con
người Việt Nam, dù ở nơi đâu, cương vị nào cũng luôn hướng về cội nguồn của
dân tộc, đoàn kết thành một khối thống nhất. “Tương thân, tương ái” giúp đỡ lẫn
nhau vượt qua mọi khó khăn, thách thức trong bất cứ hồn cảnh nào. Truyền
thống này là cơ sở hình thành ra nhân cách, tư tưởng, đạo đức, đồn kết Hồ Chí
Minh.
Ơng cha ta thời xưa đã đúc kết ra nhiều câu ca dao về tinh thần tương
thân, tương ái, đoàn kết của nhân dân ta, ví dụ như: “Bầu ơi thương lấy bí cùng,
tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”, “Một cây làm chẳng nên non, ba
cây chụm lại nên hòn núi cao”,…

3. Truyền thống lạc quan, yêu đời, có niềm tin vào sức mạnh của bản thân,
của chính nghĩa và sự tất thắng của sức mạnh đó
Lạc quan, yêu đời là truyền thống vốn có từ ngàn xưa cảu dân tộc Việt
Nam và dược phát triển bền vững cho đến ngày hơm nay. Nó được hình thành
do đời hỏi khách quan từ thực tiễn cuộc sống mang lại, cho phép dân tộc Việt
Nam ln có đủ bản lĩnh, niềm tin hướng về tương lai tươi sáng của dân tộc cho
dù phía trước có mn vàn khó khăn, thách thức. Tinh thần lạc quan đó khơng
phải là sự chủ quan mà là dựa trên những cơ sở của niềm tin vững chắc vào sức
mạnh của chính bản thân có thể nắm được vận mệnh của mình chứ khơng phỉa
cúi đầu cam chịu số kiếp bị quy định sẵn từ đầu. Là tin vào sự tất thắng của chân
lý, chính nghĩa, dù có thể phải trải qua những thất bại và cịn nhiều những thách


thức lớn phía trước. Hồ Chí Minh cũng chính là hiện thân của tinh thần lạc quan
này.
4. Truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản xuất và
chiến đấu
Cần cù, siêng năng là một trong những giá trị đạo đức nổi bật, phẩm chất
đáng quý của người Đơng Á, trong đó có Việt Nam. Đối với mỗi người Việt
Nam, cần cù, siêng năng, sáng tạo trong sản xuất là điều phải làm vì có như vậy
mới có của cải vật chất, mới có thể phục vụ chiến đấu. Phẩm chất cần cù, chịu
thương chịu khó trong lao động của người Việt Nam luôn gắn với sự dành dụm,
tiết kiệm và trở thành đức tính cần có như một lẽ tự nhiên. Như vậy, đức tính
cần cù, sáng tạo và tiết kiệm trong lao động chính là yếu tố quan trọng giúp nhân
dân ta có thể đảm bảo được việc duy trì cuộc sống cá nhân. Hơn nữa, để tồn tại
và phát triển, người Việt Nam ta từ thế hệ này đến thế hệ khác đều phải lao động
cần mẫn, phải chiến đấu anh dũng kiên cường và vận dụng phát huy trí thơng
minh sáng tạo. Đó là truyền thống tốt đẹp góp phần tạo nên bản sắc văn hố dân
tộc của Việt Nam chúng ta. Hồ Chí Minh cũng đã kế thừa, cận dụng và phát huy
truyền thống tốt đẹp đó.

II. Tinh hoa văn hố nhân loại
Cùng với tinh hoa văn hố dân tộc, Hồ Chí Minh cịn tiếp thu có chọn lịc,
kế thừa tinh hố văn hố của nhân loại. Đó là văn hố phương Đơng, phương
Tây để làm giàu trí tuệ, hình thành nên nhân cách, tư tưởng của Người.
1. Tinh hoa văn hoá phương Đông
Tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo và chủ nghĩa Tam dân của Tơn
Trung Sơn đã có ảnh hưởng sâu sắc tới việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1.

Về Nho giáo
Hồ Chí Minh sinh ra tỏng một gia đình Nho học, từ nhỏ đã được giáo dục

theo những chuẩn mực đạo đức của Nho gia, cùng các giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc Việt Nam. Người đã chủ động kế thừa các giá trị đạo đức của
Khổng giáo, phát huy và bổ sung những nội dung mới để xây dựng nên các
chuẩn mực đạo đức cán bộ cách mạng Việt Nam, góp phần vào thắng lợi chung


của sự nghiệp cách mạng. Ở Nho giáo, Người cũng thấy được mặt hạn chế của
nó như yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động: tư tưởng đẳng cấp, coi thường nữ
giới,… để loại bỏ và khắc phục
1.2.

Về Phật giáo
Hồ Chí Minh là người con của xứ Nghệ, trưởng thành tại xứ Huế, ở một

đất nước Phật giáo du nhập từ sớm và là thành tố cấu thành nên giá trị văn hóa
Việt Nam. Bởi vậy Phật giáo có những đóng góp quan trọng trong việc hình
thành nhân cách, đạo đức, lối sống của Người. Và chính Hồ Chí Minh nói rằng,
từ trong chiều sâu lịch sử dân tộc, Phật giáo Việt Nam đã góp phần hình thành

nên những giá trị tích cực, nhân bản. Những giá trị và chuẩn mực đạo đức, văn
hóa, lối sống mà Phật giáo đã hội nhập vào cuộc sống và được duy trì cho tới
ngày nay. Mặc dù cịn có những yếu tố duy tâm, huyền bí song Phật giáo có
nhiều mặt tích cực ảnh hưởng sâu sắc tới hình thành nhân cách, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đó là tư tưởng bị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như
thể thương thân, là nếp sống đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm việc
thiện, là tinh thần bình đẳng, dân chủ chất phác, chống phân biệt đẳng cấp, đề
cao lao đọng, chống lười biếng, là chủ trương không xa lánh việc đời mà gắn bó
với nhân dân, với đất nước, tích cực tham gia vào các cuộc đấu tranh của nhân
dân chống kẻ thù. Trong thư gửi Hội Phật tử năm 1947, Người viết: “Đức Phật
đại từ đại bi, cứu khổ cứ nạn, muốn cứu chúng sinh khổ nạn, Người phải hi sinh
đấu tranh, diệt lũ ác ma. Nay đồng bào ta đại đoàn kết hi sinh của cải xương
máu, kháng chiến đến cùng, để đánh tan thực dân phạn động, để cức quốc dân ra
khỏi khổ nạn, để giữ quyền thống nhất và độc lập của tổ quốc. Thế là chúng ta
làm theo lòng đại từ bi của Đức Phật Thích Ca, kháng chiến để đưa giống nịi ra
khổ ải nơ lệ”. Hồ Chí Minh chú trọng kế thừa phát huy những giá trị đạo đức
tích cực trong Phật giáo vào việc xây dựng tư tưởng của Người.
1.3.

Về Đạo giáo
Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng của Lão Tử, khuyên con

người nên sống gắn bó với thiên nhiên, hịa đồng với thiên nhiên, hơn nữa phải
biết bảo vệ mơi trường sống.Hơn nữa, Hồ Chí Minh còn kêu gọi nhân dân ta


trồng cây, tổ chức tổ chức “Tết trồng cây” để bảo vệ mơi trường sinh thái cho
chính cuộc sống của con người. Hồ Chí Minh chú ý kế thừa phát triển tư tưởng
thốt mọi ràng buộc của vịng danh lợi trong Lão giáo. Người khun cán bộ,
đảng viên ít lịng tham muốn về vật chất; thực hiện cần kiệm, liêm chính, chí

cơng vơ tư; hành động theo đạo lý với ý nghĩa là hành động đúng với quy luật tự
nhiên, xã hội.
1.4.

Về chủ nghĩa Tam dân
Trong toàn bộ tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát triển

nhiều nội dung tư tưởng của Tôn Trung Sơn. Người chủ trương xây dựng một
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có độc lập, tự do, hạnh phúc. Mong ước duy
nhất của Người là đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, cũng được học hành, ai
cũng được hạnh phúc. Người mong mỏi độc lập cho nhân dân, tự do cho đồng
bào. Người khẳng định nếu dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu thì quyền lợi của bộ
phận, giai cấp ngàn năm cũng khơng địi lại được. Có tự do cho dân tộc thì mới
có tự do cho mỗi người. Dân tộc độc lập, dân quyền tự do. dân sinh hạnh phúc là
niềm mong mỏi khôn nguôi của Người. Tư tưởng của Tôn Trung Sơn in đậm
dấu ấn trong tư tưởng của Người. Nhưng Người không sao chép, không phỏng
theo Chủ nghĩa Tam dân mà thận trọng lọc ra, bảo tồn và phát triển hạt nhân dân
chủ cách mạng trong cương lĩnh chính trị và ruộng đất của Tơn Trung Sơn nhào
nặn với thực tiễn Việt Nam, dưới ánh sáng tư tưởng Chủ nghĩa Mác- Lênin, hình
thành tư tưởng của Người mang bản chất dân tộc, phản ánh quy luật phát triển
của lịch sử.
2. Những giá trị phương Tây
Trong sướt khoảng thời gian ba mươi lăm năm sống, học
tập và lao đọng ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã chịu ảnh hưởng
rất sâu rộng của nền văn hóa dân chủ và cách mạng của
phương Tây. Ngay từ khi còn nhỏ, học ở trường tiểu học Đông
Ba, rồi vào học trường Quốc Học Huế, Người đã làm quen với
văn hóa Pháp, những tư tưởng tiến bộ của cách mạng pháp về
“tự do, bình đẳng, bác ái” đã ảnh hưởng mạnh tới Hồ Chí Minh



và là một trong những tác động vô cùng lớn tới hướng đi tìm
đường cứu nước của Người.
Những năm tháng sống ở Pháp, Mỹ, Anh, Người đã có điều
kiện để tìm hiểu, nghiên cứ và trực tiếp trải nhiệm qua các hoạt
động chính trị, văn hóa, xã hội ở đấy. Người đẵ tiếp thu các giá
trị về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của
tuyên ngôn độc lập mỹ vào năm 1776, các giá trị của bản tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền của đại cách mạng Pháp. Người
đã trực tiếp tìm hiểu tư tưởng của người dân chủ qua các tác
phẩm của các nhà khai sang như Vônte, Môngtexkiơ, Rútxô, ... .
Cùng với những hoạt động thực tiễn sôi nổi của mình, Hồ Chí
Minh đã hấp thụ được những tư tưởng dân chủ và hình thành
phong cách dân chủ của mình trong cuộc sống.
Tóm lại, trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh
đã tự biết làm giàu trí tuệ của Người bằng vốn trí tuệ của thời
đại, tiếp thu linh hoạt các giá trị văn hóa phương Tây và phương
Đông, từ đó chắt lọc, nâng cao tri thức nhân loại.
III. Chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở lý luận quan trọng nhất
quyết định sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan, phương
pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác-Lênin, mà hạt nhân lý luận
là triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Nói cách khác, chủ nghĩa
Mác-Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng thế giới quan duy vật và phương pháp luận
biện chứng trong việc tiếp thu, kế thừa tinh hoa văn hóa nhân loại và chuyển hóa
được những điều hiểu biết quý báu đó để xây dựng được hệ tư tưởng riêng của
mình.



Hồ Chí Minh đã khơng rập khn những tư tưởng cũ bởi chúng có chứa
đựng những yếu tố duy tâm, lạc hậu nhưng Người cũng khơng “phủ định sạch
trơn” vì những tư tưởng ấy cịn có cả những yếu tố duy vật, tích cực, như vậy
Hồ Chí Minh đã tiếp thu một cách có kế thừa và phát triển, theo đúng tinh thần
của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Hồ Chí Minh đã phê phán, gạt bỏ tư tưởng
đẳng cấp, khinh lao động chân tay, khinh phụ nữ,…của Nho giáo nhưng Người
cũng đã tiếp thu triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời,…;
trong nội dung xây dựng nền đạo đức mới, Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều khái
niệm, phạm trù của các tư tưởng đạo đức đã có từ trước, nhất là đạo đức Nho
giáo như: trung, hiếu, nhân, nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính,… và đạo đức phương
Tây từ thời cổ đại Hy Lạp – La Mã, như: dân chủ, tự do, công bằng, bác ái,…,
nhưng đã đưa vào đó những nội dung mới, cùng là “Trung”, “Hiếu” nhưng nếu
trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông, trung là trung
với vua, hiếu là hiếu với cha, mẹ thì với Hồ Chí Minh, trung là trung với nước –
trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước của dân tộc, hiếu là hiếu với
dân – gắn bó với dân, kính trọng dân, giúp đỡ dân, phục vụ và hướng dẫn nhân
dân. Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới
thu hái được những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại.”
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã tạo ra bước chuyển trong nhận thức của Hồ Chí
Minh, từ đó Người tìm ra con đường giải phóng dân tộc, giải quyết đúng đắn các
vấn đề thực tiễn đặt ra của cách mạng Việt Nam.
Đối với Người, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin cũng có nghĩa là đến với
con đường cách mạng vô sản. Từ đây, Người thực sự tìm thấy con đường cứu
nước chân chính, triệt để: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng có con
đường nào khác con đường cách mạng vơ sản" và "chỉ có giải phóng giai cấp vơ
sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự
nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới". Sơ thảo lần thứ nhất
nhưng luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin đã diễn đạt một

cách đầy đủ và sâu sắc những điều mà Hồ Chí Minh lúc bấy giờ đang nung nấu,
đã giúp Người tìm ra con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng


dân tộc. Đó là bước chuyển lịch sử trong cuộc đời hoạt động cách mạng của
Nguyễn Ái Quốc: từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy
con đường giải phóng dân tộc mình trong sự nghiệp giải phóng tất cả các dân
tộc, đồng thời cũng đánh dấu bước ngoặt mới của cách mạng nước ta, mở ra
bước chuyển biến cho bao thế hệ người Việt Nam: từ người yêu nước thành
người cộng sản.
2. Chủ nghĩa Mác – Lênin quyết định về chất đối với tư tưởng Hồ Chí
Minh
Sự kế thừa có chọn lọc nhiều chủ nghĩa, học thuyết của nhân loại đã góp
phần giúp cho Hồ Chí Minh xây dựng phát triển hệ thống quan điểm của mình
mang tính khoa học, cách mạng và có sức sống mãnh liệt.Trong nguồn gốc tư
tưởng, lý luận thì chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc cơ bản, chủ yếu, có ảnh
hưởng mạnh mẽ nhất đối với sự hình thành phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng chói và tinh
thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đổi mới và sáng tạo, đã soi đường cho
cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi.
Có thể khẳng định, Luận cương của Lênin đã mở ra con đường đưa
Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Do nhu cầu của cách mạng,
Người càng ra sức tìm hiểu và thấu suốt được tinh túy của chủ nghĩa Mác Lênin, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam nhằm giải quyết
những vấn đề mà thực tiễn cách mạng Việt Nam đặt ra. Như vậy, hồn tồn có
cơ sở để khẳng định rằng, chính Luận cương của Lênin đã tạo ra bước ngoặt căn
bản về chất trong sự phát triển nhận thức, tư tưởng và lập trường chính trị của
Nguyễn Ái Quốc: từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin, từ giác ngộ
dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành ngƣời cộng sản. Qua
Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở đó con đường chân chính
cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, đó là con đường cách mạng vơ sản.

3. Đặc điểm con đường Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin
Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin ở Hồ Chí Minh diễn ra trên nền tảng
của những tri thức văn hóa tinh túy được chắt lọc, hấp thụ và một vốn chính trị,


vốn hiểu biết phong phú, được tích lũy qua thực tiễn hoạt động đấu tranh vì mục
tiêu cứu nước và giải phóng dân tộc. Bản lĩnh trí tuệ đó đã nâng cao khả năng
độc lập tự chủ và sáng tạo ở Người khi vận dụng những nguyên lý cách mạng
của thời đại vào hoàn cảnh, điều kiện kiện cụ thể của Việt Nam.
Thứ nhất, hành trang tư tưởng khi ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn
Tất Thành là chủ nghĩa yêu nước cháy bỏng với một vốn học vấn chắc chắn,
một năng lực trí tuệ sắc sảo được trang bị từ quê hương, gia đình. Với hành
trang giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc là chủ nghĩa yêu nước nhân văn với những giá trị về giải phóng dân tộc và con người, để so sánh, đối
chiếu, chọn lọc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, và trên cơ sở đó, trên
cơ sở năng lực trí tuệ cao, Hồ Chí Minh đã có điều kiện thâu thái một cách tự
nhiên, về cả lý trí và tình cảm, học thuyết giải phóng con người triệt để nhất là
chủ nghĩa Mác-Lênin. Tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã từ
người yêu nước trở thành người cộng sản khi trở thành người tham gia sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp.
Thứ hai, Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin là để tìm kim
chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, tức là từ nhu cầu của thực
tiễn cách mạng Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác-Lênin hoàn
toàn khơng phải ngẫu nhiên, đó là hành động đáp ứng nhu cầu của lịch sử dân
tộc và xu thế thời đại, một tất yếu lịch sử. Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin từ địi
hỏi của thực tiễn giải phóng dân tộc và con người Việt Nam, từ nhu cầu chung
của nhân loại về quyền dân tộc, quyền con người, Hồ Chí Minh đã vận dụng thế
giới quan và phương pháp luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin
để nghiên cứu thực tiễn Việt Nam và thế giới, tự tìm ra con đường của cách
mạng Việt Nam phù hợp với sự tiến hóa và thời đại mới. Chính vì vậy, chủ
nghĩa Mác-Lênin là cơ sở lý luận làm cho Hồ Chí Minh vượt lên trước những

nhà yêu nước đương thời, khắc phục được sự khủng khoảng về con đường tiến
lên của dân tộc Việt Nam.
Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lê-nin theo phương
pháp nhận thức Mác-xít và “đắc ý vong ngôn” của phương Đông. Với thế giới


quan và phương pháp luận mácxít, Hồ Chí Minh có sự chuyển biến về chất tư
tưởng cách mạng của mình để có thể hấp thụ và chuyển hóa được những giá trị
tích cực và tiến bộ của truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn
hóa của nhân loại, giúp cho Người nghiên cứu lý luận và thực tế, tổng kết thực
tiễn, đúc rút lý luận và hình thành nên một hệ thống những quan điêm cơ bản về
cách mạng Việt Nam, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội (giai cấp) và giải phóng con người.
Vì vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin chính là một nguồn gốc lý luận, là cơ sở chủ
yếu có vai trị quyết định trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và tư
tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng, phát triển sáng tạo và làm phong phú
chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại mới.

KẾT LUẬN
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khơng những đã vận dụng sáng tạo, mà còn bổ sung, phát triển và làm phong phú
chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại mới. Trong các vấn đề dân tộc và cách mạng
giải phóng dân tộc; chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; các
vấn đề xây dựng Đảng, Nhà nước, văn hóa, con người, đạo đức,..v..v.. Hồ Chí
Minh đã có những luận điểm bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước nhảy vọt trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Chinh: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Cách mạng Việt Nam, Nxb
Thơng tin Lý luận, Hà Nội, 1992.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng: Tồn tập, tập 2, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2016.


5. Phạm Văn Đồng: Hồ Chủ tịch tinh hoa của dân tộc, lương tâm của thời
đại, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976.
6. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách
mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
7. Trần Văn Giàu: Hồ Chí Minh – vĩ đại một con người, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2010.
8. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh – Song Thành
( Chủ biên): Hồ Chí Minh – Tiểu sử, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2006.
9. Hồ Chí Minh: “ Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
II của Đảng”, Tồn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
10. Hồ Chí Minh: “ Con đường dẫn tơi đến chủ nghĩa Lênin”, Tồn tập,
t.12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.



×