BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
----
----
BÀI THẢO LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: Lý luận giá trị thặng dư và ý nghĩa của việc nghiên cứu lý
luận giá trị thặng dư
Giảng viên hướng dẫn
:
Tống Thế Sơn
Mã lớp học phần
:
2239RLCP1211
Nhóm thực hiện
:
Nhóm 4
Năm học: 2022 - 2023
MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU: ......................................................................................................................... 3
B. NỘI DUNG................................................................................................................................ 4
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ .............................................................. 4
1.1. Nguồn gốc của giá trị thặng dư ...................................................................................... 4
1.1.2. Hàng hóa sức lao động .............................................................................................. 4
1.1.3. Sự sản xuất giá trị thặng dư ...................................................................................... 5
1.1.4. Tư bản bất biến và tư bản khả biến .......................................................................... 5
1.1.5. Tiền công .................................................................................................................... 5
1.1.6. Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản ...................................................................... 6
1.2. Bản chất của giá trị thặng dư ......................................................................................... 7
1.3. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư ................................................................. 9
1.3.1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối ..................................................... 9
1.3.2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối ................................................. 10
CHƯƠNG II: Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ 12
2.1. Nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư giúp khai thác những di sản lý luận trong học
thuyết về nền kinh tế hàng hóa ............................................................................................... 12
2.2. Nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư cho thấy rõ hơn bản chất bóc lột của chủ nghĩa
tư bản ..................................................................................................................................... 13
2.3. Nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư góp phần vào việc quản lý các thành phần kinh
tế tư bản chủ nghĩa và bảo vệ quyền chính đáng của người lao động ............................. 15
2.4. Nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư khuyến khích thành phần kinh tế tư bản chủ
nghĩa phát triển .................................................................................................................... 17
C. KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 19
2
A. LỜI MỞ ĐẦU:
Theo đánh giá của V.I Lênin, lý luận giá trị thặng dư là “hòn đá tảng của học thuyết
kinh tế của Mác” và học thuyết kinh tế của C. Mác là “nội dung căn bản của chủ nghĩa
Mác”. Để đạt mục đích làm giàu tối đa của mình nhà tư bản đã mua sức lao động của
cơng nhân kết hợp với tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản phẩm, thu về giá trị thặng dư.
Nhưng nhà tư bản bao giờ cũng chỉ trả một phần giá trị sức lao động cho người công
nhân thông qua hình thức tiền lương và bóc lột giá trị thặng dư do người cơng nhân sáng
tạo ra trong q trình sản xuất.
Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác ra đời trên cơ sở nghiên cứu phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, đã vạch trần thực chất bóc lột tư bản chủ nghĩa và cội nguồn đối
lập kinh tế giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, vũ trang cho giai cấp vô sản lý luận
cách mạng sắc bén trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Việc nghiên cứu lý luận
giá trị thặng dư và ý nghĩa nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư có ý nghĩa quan trọng, là
chìa khóa dẫn đến những vấn đề khác trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Chính vì vậy, nhóm 4 đã mạnh dạn chọn đề tài: “Lý luận giá trị thặng dư và ý nghĩa
nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư”.
Do thời gian có hạn, nên bài luận khơng thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Vì
vậy, nhóm 4 kính mong q thầy cơ và các bạn đóng góp ý kiến để bài viết được hoàn
chỉnh hơn.
3
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1.1. Nguồn gốc của giá trị thặng dư
“Vậy tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên
ngồi lưu thơng. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu
thông” - C. Mác.
1.1.1. Công thức chung của tư bản
Tiền trong nền sản xuất hàng hóa giản đơn vận động trong quan hệ H-T-H.
Tiền trong nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa vận động trong quan hệ T-H-T.
Mục đích trong lưu thơng hàng hóa giản đơn là giá trị sử dụng. Mục đích trong lưu
thơng tư bản là giá trị lớn hơn vì nếu khơng thu được lượng giá trị lớn hơn thì sự
lưu thơng này khơng có ý nghĩa.
➢ Tư bản vận động theo công thức chung: T-H-T’ trong đó T’= T + t (t>0)
1.1.2. Hàng hóa sức lao động
“Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh
thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận
dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó” - C. Mác.
❖ Hai điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa:
Người lao động được tự do về thân thể.
Người lao động khơng có đủ các tư liệu sản xuất cần thiết để tự kết hợp với sức
lao động của mình tạo ra hàng hố để bán, cho nên họ phải bán sức lao động.
❖ Thuộc tính của hàng hóa sức lao động gồm giá trị và giá trị sử dụng:
Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do số lượng lao động xã hội cần thiết để
sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động quyết định.
4
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu
của người mua.
➢ Hàng hóa sức lao động là loại hàng hóa đặc biệt, mang yếu tố tinh thần và lịch sử.
Trong khi sử dụng nó khơng những giá trị của nó được bảo tồn mà còn tạo ra được lượng
giá trị lớn hơn. Đây chính là chìa khóa chỉ rõ nguồn gốc của giá trị lớn hơn giá trị thặng
dư do hao phí sức lao động mà có.
1.1.3. Sự sản xuất giá trị thặng dư
Quá trình sản xuất giá trị thặng dư là sự thống nhất của quá trình tạo ra và làm tăng
giá trị.
Để có được giá trị thặng dư nên sản xuất xã hội phải đạt đến một trình độ nhất định,
trình độ đó phản ánh việc người lao động chỉ phải trả hao phí một phần thời gian lao
động là có thể bù đắp được giá trị hàng hóa sức lao động, bộ phận này là thời gian lao
động tất yếu.
Ngoài thời gian lao động tất yếu, vẫn trong nguyên tắc ngang giá đã thỏa thuận
người lao động phải làm việc trong sự quản lý của người mua hàng hóa sức lao động và
sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, thời gian đó là thời gian lao động thặng dư.
1.1.4. Tư bản bất biến và tư bản khả biến
Tư bản bất biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị
được lao động cụ thể của công nhân làm thuê bảo tồn và chuyển nguyên vẹn vào giá trị
sản phẩm, tức là giá trị không biến đổi trong quá trình sản xuất.
Tư bản khả biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái sức lao động không tái hiện
ra nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân làm thuê mà tăng lên, tức là biến
đổi về số lượng trong quá trình sản xuất.
1.1.5. Tiền công
Tiền công là giá cả của sức lao động, là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa
sức lao động. Đó là bởi sức lao động là hàng hóa cịn lao động khơng phải là hàng hóa.
❖ Nguyên nhân dẫn đến sự nhầm lẫn:
5
Nhà tư bản chỉ trả lương cho công nhân sau khi họ cung cấp giá trị sử dụng cho tư
bản nên nhà tư bản lầm tưởng họ trả lương cho công dụng của lao động.
Công nhân phải lao động mới nhận được tiền công nhưng nhầm tưởng là họ bán
lao động.
Số lượng tiền công trả cho các cá nhân trong cùng một điều kiện làm việc nhưng
khác nhau về chất lượng lao động dẫn đến nhầm lẫn tiền công là giá cả của lao
động.
➢ Công nhân bán cho nhà tư bản sức lao động chứ không phải là lao động.
1.1.6. Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản
❖ Tuần hoàn của tư bản
Tuần hoàn của tư bản là sự vận động của tư bản lần lượt trải qua ba giai đoạn dưới
ba hình thái kế tiếp nhau (tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất, tư bản hàng hóa) gắn với
thực hiện những chức năng tương ứng (chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sản xuất
ra giá trị thặng dư thực hiện giá trị thặng dư) và quay trở về hình thái ban đầu cùng
với giá trị thặng dư.
Mơ hình của tuần hồn tư bản:
Sức lao động
... Sản xuất ... H’- T’
T-H
Tư liệu sản xuất
❖ Chu chuyển của tư bản:
Chu chuyển của tư bản là tuần hoàn của tư bản được xét với tư cách là quá
trình định kỳ, thường xuyên lặp đi lặp lại và đổi mới theo thời gian.
6
Document continues below
Discover more
from:tế chính trị
Kinh
Mác- Lênin
RCLP1211
Trường Đại học…
373 documents
Go to course
4
26
2
22
17
Vai trị của nhà nước
trong đảm bảo các…
Kinh tế
chính trị…
99% (90)
Các dạng bài tập
Kinh tế chính trị…
Kinh tế
chính trị…
97% (102)
CƠNG THỨC KINH
TẾ Chính TRỊ
Kinh tế
chính trị…
96% (57)
Tiểu luận Kinh tế
chính trị Mác- Lênin
Kinh tế
chính trị…
96% (91)
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN KINH TẾ…
Kinh tế
chính trị…
100% (10)
Thời gian chu chuyển của tư bản bao gồm thời gian sản
xuất
và thời thương
gian lưu
Lợi
nhuận
thông.
3
nghiệp và lợi tức ch…
Thời gian chu chuyển của tư bản càng ngắn thì tốc độKinh
chu chuyển
của tư bản
tế
chính trị…
nhanh do đó giá trị thặng dư được tạo ra ngày càng nhiều.
100% (8)
Tốc độ chu chuyển của tư bản là số lần chu chuyển của tư bản trong một
năm.
Cơng thức tính:
➢ Nguồn gốc của giá trị thặng dư là do hao phí lao động tạo ra.
1.2. Bản chất của giá trị thặng dư
Giá trị thặng dư là kết quả của sự hao phí sức lao động trong sự thống nhất của quá
trình tạo ra và làm tăng giá trị.
Q trình đó được diễn ra trong quan hệ xã hội giữa người mua hàng hoá sức lao
động với người bán hàng hoá sức lao động. Do đó nếu giả định xã hội chỉ có hai giai cấp
là giai cấp tư sản và giai cấp cơng nhân, thì giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa mang bản chất kinh tế - xã hội là quan hệ giai cấp, trong đó, giai cấp các
nhà tư bản làm giàu dựa trên cơ sở thuê mướn lao động của giai cấp công nhân. Ở đó,
mục đích của nhà tư bản là giá trị thặng dư, người lao động làm thuê phải bán sức lao
động cho nhà tư bản ấy.
Sinh thời, chứng kiến cảnh người lao động bị áp bức với tiền công rẻ mạt trong khi
nhà tư bản thì khơng ngừng giàu có, C. Mác nhận thấy có một sự bất cơng sâu sắc về mặt
xã hội, C. Mác gọi đó là quan hệ bóc lột, mặc dù về mặt kinh tế, nhà tư bản không vi
phạm quy luật kinh tế về trao đổi ngang giá.
Sự giải thích khoa học của C. Mác ở đây đã vượt hẳn so với các nhà kinh tế trước
đó. Tính khoa học thể hiện ở chỗ, C. Mác đã mô tả được một thực tế, nhà tư bản đã
không vi phạm quy luật kinh tế về trao đổi ngang giá thông qua ký hợp đồng thoả thuận
với người lao động làm thuê, song trong trao đổi ngang giá đó, giá trị thặng dư vẫn được
7
tạo ra cho nhà tư bản bằng lao động sống chứ khơng phải do máy móc sinh ra. Trong điều
kiện ngày nay, quan hệ đó vẫn đang diễn ra nhưng với trình độ và mức độ rất khác, rất
tinh vi và dưới hình thức văn minh hơn so với cách mà nhà tư bản đã từng thực hiện
trong thế kỷ XIX.
Để hiểu sâu hơn bản chất của giá trị thặng dư, C. Mác làm rõ 2 phạm trù tỷ suất và
khối lượng giá trị thặng dư. Mục đích của nhà tư bản trong nền kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa khơng chỉ dừng lại ở mức có được giá trị thặng dư, mà quan trọng là phải thu
được nhiều giá trị thặng dư, do đó cần có thước đo để đo lường giá trị thặng dư về mặt
lượng.
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến
để sản xuất ra giá trị thặng dư đó.
Cơng thức tính tỷ suất giá trị thặng dư là:
m' =
x 100%
Trong đó:
m' là tỷ suất giá trị thặng dư
m là giá trị thặng dư
v là tư bản khả biến
Tỷ suất giá trị thặng dư cũng có thể tính theo tỷ lệ phần trăm giữa thời gian lao động
thặng dư (t') và thời gian lao động tất yếu (t):
m' =
x 100%
Cơng thức tính khối lượng giá trị thặng dư là:
M = m' . V
Trong đó:
8
M là khối lượng giá trị thặng dư
m' là tỷ suất giá trị thặng dư
V là tổng tư bản khả biến
Tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh trình độ khai thác sức lao động làm thuê, khối
lượng giá trị thặng dư phản ánh quy mô giá trị thặng dư mà chủ sở hữu tư liệu sản xuất
thu được.
1.3. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa. Vì vậy, các nhà tư
bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Khái quát có
hai phương pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản
xuất giá trị thặng dư tương đối.
1.3.1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật còn
thấp, tiến bộ chậm chạp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo dài ngày
lao động của công nhân. Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được trên cơ sở
kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân trong điều kiện thời gian lao động tất yếu
không đổi. Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4
giờ là thời gian lao động thặng dư. Tỷ suất giá trị thặng dư là:
m’ = 4h / 4h x 100% = 100%
Giả sử nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời gian tất yếu
không thay đổi, vẫn là 4 giờ. Khi đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:
m’ = 6h / 4h x 100% = 150%
Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất
yếu không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên tỷ suất giá trị thặng dư
tăng lên. Trước đây, tỷ suất giá trị thặng dư là 100% thì bây giờ là 150%.
9
Về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu, nhưng không
thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động. Vì cơng nhân phải có
thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe. Việc kéo dài ngày lao động
còn vấp phải sự phản kháng của giai cấp cơng nhân. Cịn giới hạn dưới của ngày lao động
không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao động thặng dư bằng khơng.
Trong phạm vi giới hạn nói trên, độ dài của ngày lao động là một đại lượng không cố
định và có nhiều mức khác nhau. Độ dài cụ thể của ngày lao động do cuộc đấu tranh giữa
giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng quyết định. Cuộc
đấu tranh của giai cấp cơng nhân địi ngày lao động tiêu chuẩn, ngày làm 8 giờ đã kéo dài
hàng thế kỷ.
1.3.2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, kỹ
thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản
chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội, tức là
bóc lột giá trị thặng dư tương đối. Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được
bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu lại để kéo dài một cách tương ứng thời gian
lao động thặng dư trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội trong điều kiện độ dài ngày
lao động không đổi.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ và nó được chia thành 4 giờ là thời gian lao động tất
yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Tỷ suất giá trị thặng dư là:
m’ = 4h / 4h x 100% = 100%
Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ cần 3 giờ
lao động đã tạo ra được một lượng giá trị mới bằng với giá trị sức lao động của mình. Do
đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi: 3 giờ là thời gian lao động tất yếu và 5 giờ
là thời gian lao động thặng dư. Bây giờ, tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:
m’ = 5h / 3h x 100% = 166%
10
Như vậy, tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 166%. Thời gian lao động tất
yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu phải
giảm giá trị sức lao động. Để hạ thấp được giá trị sức lao động thì phải giảm được giá trị
các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết để tái sản xuất sức lao động, do đó phải tăng
năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt. Lịch sử phát triển của
lực lượng sản xuất và của năng suất lao động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua ba
giai đoạn: hợp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, đó cũng là
q trình nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối. Hai phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình
độ bóc lột cơng nhân làm th trong q trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ
nghĩa tư bản, việc áp dụng máy móc khơng phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của
công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc tự động
hóa sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng
thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.
11
CHƯƠNG II: Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG
DƯ
2.1. Nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư giúp khai thác những di sản lý luận
trong học thuyết về nền kinh tế hàng hóa
Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác được xây dựng dựa trên cơ sở nghiên cứu
nền sản xuất hàng hóa, đặc biệt là nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa. Bởi thế nên C.
Mác cũng là một trong những người nghiên cứu kỹ lưỡng về nền kinh tế thị trường. Bản
chất của nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa có nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và
hiện nay gọi là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đã là sản xuất hàng hóa
thì bất kỳ đâu cũng có những tính đặc tính phổ biến, cũng phải nói đến giá trị và giá trị
thặng dư. Điều khác biệt chỉ là trong những quan hệ kinh tế khác nhau thì giá trị và giá trị
thặng dư mang bản chất xã hội khác nhau. Vì vậy việc nghiên cứu tính phổ biến và tính
đặc thù của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, nghiên cứu những phạm trù, công cụ và việc
sử dụng chúng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ di sản lý luận
của C. Mác là việc làm có nhiều ý nghĩa thực tiễn.
Ngay từ khi mới xuất hiện, chủ nghĩa tư bản đã phát triển nền kinh tế thị trường,
qua thị trường, giai cấp tư sản mới mua được tư liệu sản xuất và sức lao động, mới bán
được hàng hóa và do đó bóc lột được giá trị thặng dư do người lao động tạo ra. Trong nền
kinh tế thị trường, dưới những tác động của các quy luật kinh tế, trong đó có quy luật giá
trị thặng dư, các nhà tư bản - các doanh nghiệp đã không ngừng ứng dụng những thành
tựu của khoa học kỹ thuật vào sản xuất để tăng năng suất lao động, tích cực hợp lý hóa
q trình sản xuất, tiết kiệm các yếu tố đầu vào, nghiên cứu nhu cầu thị trường… để nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Các tiềm năng về vốn, khoa học cơng nghệ kỹ thuật,
trình độ quản lý sản xuất kinh doanh… được kích thích và phát triển mạnh mẽ, từ đó nền
kinh tế thị trường trở nên năng động hơn. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, trong khu vực kinh tế nhà nước và tập thể, chúng ta
cần vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư mà các nhà tư bản đã sử dụng để
phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế kết hợp với việc phân phối
12
theo lao động và hiệu quả kinh tế nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người
lao động.
Những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực đáng ghi nhận trong việc cải
thiện năng suất lao động, nhờ đó đã có những cải thiện đáng kể, cả về mặt giá trị và tốc
độ. Theo Báo cáo của Tổ chức Năng suất Châu Á năm 2020 đã cho thấy: năng suất lao
động của Việt Nam được cải thiện một cách rõ rệt, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 tăng
5,8%/năm, cao hơn giai đoạn 2011 - 2015 (4,3%) và vượt mục tiêu đề ra (5%). Đóng góp
của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) bình quân 5 năm đạt khoảng 45,2% (mục tiêu
đề ra là 30 - 35%). Cũng theo Báo cáo 2020 của Tổ chức Năng suất châu Á (APO), năng
suất lao động Việt Nam tụt hậu so với Nhật Bản 60 năm, so với Malaysia 40 năm và Thái
Lan 10 năm. Điều này cho thấy Việt Nam cần phải có nhiều nỗ lực mạnh mẽ hơn nữa
trong việc cải thiện năng suất quốc gia.
2.2. Nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư cho thấy rõ hơn bản chất bóc lột của
chủ nghĩa tư bản
Học thuyết giá trị thặng dư cho thấy rõ bản chất và đặc điểm bóc lột của tư bản chủ
nghĩa. Kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa là sự phát triển của kinh tế hàng hóa giản đơn.
Nhưng, kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa khác với kinh tế hàng hóa giản đơn khơng chỉ
về lượng mà cịn khác về chất. Trên vũ đài hàng hóa xuất hiện một loại hàng hóa mới là
sức lao động. Do đó, thị trường hàng hóa được bổ sung bằng một bộ phận đặc biệt là thị
trường sức lao động. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở
của một hình thức bóc lột đặc biệt, tức là hình thức chiếm đoạt lao động của người khác
(lao động thặng dư) dưới hình thái giá trị thặng dư. Khác với phạm trù “lợi nhuận” vốn
được nhà tư bản yêu thích, giá trị thặng dư biểu hiện một cách chính xác như sau:
1- Là giá trị, tức lao động vật hóa.
2- Là lao động thặng dư vật hóa, là phần giá trị dơi ra ngồi giá trị sức lao động và
bị nhà tư bản chiếm dụng.
Từ đó, đặc điểm bóc lột của chủ nghĩa tư bản không phải là ở sự tồn tại lao động
thặng dư, mặc dù dưới sự thống trị của tư bản, trình độ bóc lột được nâng lên rất cao, mà
đặc điểm của nó là lao động thặng dư đã hao phí mang hình thái giá trị thặng dư, còn tỷ lệ
13
giữa thời gian lao động thặng dư và thời gian lao động tất yếu thì mang hình thái tỷ lệ
giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến. Quan hệ bóc lột bị vật hóa, bị che lấp đằng sau
quan hệ giữa vật với vật. Vì thế, sự bóc lột trong chủ nghĩa tư bản là rất tinh vi và khơng
có giới hạn.
Trước đây, khi chưa có sự xuất hiện của hàng hóa dư thừa, chế độ tư bản chưa xuất
hiện. Tuy nhiên, khi có hàng hóa dư thừa, sư phân tầng xã hội rõ ràng đã làm xuất hiện
chế độ tư bản. Trong lịch sử hơn 400 năm từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa tư bản đã trải
qua nhiều giai đoạn phát triển, từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đến chủ nghĩa tư bản
độc quyền, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước và ngày nay là chủ nghĩa tư bản hiện
đại trong thời đại tồn cầu hóa. Trong mọi giai đoạn phát triển, chủ nghĩa tư bản đều
mang trong mình những thuộc tính chung, cơ bản, tạo nên bản chất của chủ nghĩa tư bản,
phân biệt chủ nghĩa tư bản với các chế độ xã hội khác (hay các hình thái kinh tế - xã hội
khác). Đồng thời, trong mỗi giai đoạn phát triển, chủ nghĩa tư bản lại có những đặc điểm
riêng, những biểu hiện mới cả trong lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả trong cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội. Trước đây, những người cơng nhân bị bóc
lột nặng nề cả về tinh thần và thể xác dưới sự thống trị của các giai cấp tư sản. Họ phải
làm việc vất vả, thậm chí bị coi như một hàng hóa để đem ra trao đổi. Tuy nhiên, ngày
nay, chủ nghĩa tư bản đã có sự điều chỉnh lớn, do đó, có quan điểm cho rằng chủ nghĩa tư
bản khơng cịn bóc lột lao động làm thuê và đề cao, thổi phồng kết quả, điều kiện sống
mà người lao động được thụ hưởng. Tuy nhiên thực tế là, cơ chế điều tiết phân phối giá
trị thặng dư của các nhà tư bản được thực hiện thông qua thuế, quỹ phúc lợi xã hội, bảo
hiểm xã hội, trợ cấp thất nghiệp... Một bộ phận cơng nhân có cổ phần, là cổ đơng trong
các cơng ty cổ phần, họ đầu tư dưới hình thức mua cổ phiếu, trái phiếu, tiền gửi tiết kiệm
và thu được lợi tức cổ phần, lợi tức trái phiếu và lãi suất tiền gửi. Do đó, khơng thể phủ
nhận rằng, hiện nay, đời sống của người công nhân trong xã hội tư bản được nâng cao,
thu nhập của họ không chỉ từ tiền cơng nhận được hằng tháng, mà cịn có thêm các khoản
khác như lợi tức cổ phần, tăng ca, trợ cấp khó khăn, thất nghiệp, phúc lợi xã hội... Tuy
nhiên, tất cả những phần thu của người công nhân nhận được, một mặt, không bao giờ tỷ
lệ thuận với sức lao động của chính bản thân bỏ ra; mặt khác, nhu cầu đòi hỏi của con
người tất yếu ngày càng cao, theo đó, chi phí sẽ tăng, trong khi thu nhập không đáp ứng
được. Qua nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư, chúng ta phải khẳng định rằng, sự giàu có
của nhà tư bản là kết quả của sự bóc lột giá trị thặng dư. Có người cho rằng, nhà tư bản
thu nhiều lợi nhuận là do lao động quản lý, lao động khoa học – kỹ thuật của nhà tư bản.
14
Thực tế, trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản, nhiều nhà tư bản đồng thời là giám đốc,
thậm chí cịn là cán bộ khoa học kỹ thuật nữa. Những chức năng quản lý và khoa học kỹ
thuật ấy thuộc phạm trù lao động, không thuộc phạm trù tư bản. Nếu nhà tư bản kiểm cả
chức năng quản lý và khoa học kỹ thuật thì trong thu nhập của nhà tư bản sẽ bao gồm giá
trị mới do lao động quản lý và khoa học kỹ thuật tạo ra cộng với giá trị thặng dư chiếm
đoạt không phải trả cơng.
Mặt khác, xem xét quan hệ bóc lột của chủ nghĩa tư bản ngày nay khơng chỉ bó hẹp
trong quan hệ giữa nhà tư bản và người lao động làm thuê ở các nước tư bản chủ nghĩa,
mà còn phải xem xét cả sự thống trị, bóc lột của các nước phát triển đối với các nước
kém phát triển và đang phát triển, thể hiện ở sự phân hóa hai cực giàu và nghèo của thế
giới. Đến năm 2018, theo tính tốn của Oxfam, mỗi ngày tổng tài sản của các tỷ phú trên
thế giới tăng thêm 2,5 tỷ USD, tương đương mức tăng 12% trong cả năm. Trong khi đó,
tổng tài sản của 50% dân số nghèo nhất của thế giới, giảm đi 11% trong cả năm . Điều
này cho thấy khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn đang hủy hoại cuộc chiến chống
nghèo đói, gây tổn thất cho nền kinh tế thế giới, cũng như châm ngòi cho làn sóng bất
bình diễn ra trên tồn cầu.
Như vậy, thực tế đã và đang chứng minh tính khoa học, tính đúng đắn của học
thuyết giá trị thặng dư trong điều kiện lịch sử cụ thể hiện nay. Cho dù khoa học và công
nghệ trên thế giới ngày càng phát triển, việc áp dụng các thiết bị máy móc, cơng nghệ
hiện đại và những quan hệ kinh tế - xã hội rất phức tạp, đa chiều, làm cho khơng ít người
lầm tưởng lý luận hàng hóa sức lao động và quy luật giá trị thặng dư đã biến mất, song
như C. Mác đã vạch rõ, suy cho cùng, chỉ có lao động sống mới tạo ra lợi nhuận là giá trị
thặng dư và sản xuất giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Lý luận
hàng hóa sức lao động cũng như học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác vẫn ln là “hịn
đá tảng”, là cơ sở để phân tích, xem xét bản chất kin h tế - chính trị của chủ nghĩa tư bản
hiện đại.
2.3. Nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư góp phần vào việc quản lý các thành
phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và bảo vệ quyền chính đáng của người lao động
Khai thác những luận điểm của Mác về những biện pháp, thủ đoạn nhằm thu được
nhiều giá trị thặng dư của các nhà tư bản để góp phần vào việc quản lý thành phần kinh
tế tư nhân (đặc biệt là kinh tế tư bản tư nhân) trong nền kinh tế sao cho vừa khuyến
15
khích phát triển, vừa hướng thành phần kinh tế này đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội.
Điều này cần có chính sách thúc đẩy thành phần kinh tế, để qua đó thu hút được nhiều
lao động xã hội, sử dụng nhiều trình độ lao động để tạo ra nhiều sản phẩm thỏa mãn nhu
cầu xã hội.
Nhà nước cần phải quản lý doanh nghiệp này để nhằm hạn chế việc bóc lột người
lao động quá mức như kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian quy định của luật
lao động mà khơng có sự thống nhất của người lao động, việc cắt xén tiền công, cắt xén
các chế độ của người lao động như bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm tai nạn lao động. Việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư sẽ cho chúng ta
thấy rằng chúng ta thừa nhận bóc lột này khơng thể như trong chế độ tư bản chủ nghĩa
được mà người lao động cần phải được bảo vệ thông qua hệ thống pháp luật.
Trong thực tế, sau hơn 30 năm kể từ khi Luật đầu tư được ban hành năm 1987, đây
là văn bản pháp luật quan trọng nhất chính thức hóa việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài,
tạo điều kiện mời gọi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi vào Việt Nam. Hơn
30 năm qua, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) đang trở thành một phần
khơng thể thiếu của nền kinh tế, đóng góp khơng nhỏ sự phát triển kinh tế - xã hội ở
Việt Nam. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sau hơn 30 năm đón vốn FDI, từ
năm 1988 đến tháng 8/2018, 63 tỉnh, thành phố của cả nước thu hút 26.438 dự án FDI
của 129 quốc gia và vùng lãnh thổ còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 333,83 tỷ USD.
Vốn FDI đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân. Đầu tư
nước ngoài hiện là nguồn vốn bổ sung quan trọng chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư
cả nước, đóng góp khoảng 20% GDP. Năm 2017, khu vực FDI đóng góp khoảng 8 tỷ
USD, chiếm 14,4% tông thu ngân sách. 10 đối tác đứng đầu có số vốn đăng ký khoảng
82%, trong đó phải kể đến Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore và Đài Loan (Trung Quốc).
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước phải được thể chế hóa 65 thành
luật. Luật pháp phải là công cụ và cơ sở để điều chỉnh các hành vi xã hội. Bảo đảm ai
chấp hành đúng pháp luật thì được xã hội thừa nhận và tơn vinh, góp phần xây dựng
một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong quản lý xã hội,
Nhà nước phải xây dựng được cơ chế và chế tài đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ thu
16
nhập cá nhân, thu nhập của các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế nhằm,
một mặt, chống thất thu thuế, mặt khác, đảm bảo sự công bằng trong phân phối thông
qua Nhà nước và bằng cả “kênh” phân phối lại và điều tiết thu nhập xã hội. Qua đó, góp
phần vào việc giải phóng sức sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế và chủ động hội
nhập nền kinh tế thế giới.
Thực tế, nhà nước ta đã có hệ thống luật pháp bảo vệ người lao động như: Luật lao
động, luật bảo hiểm, quy định về tiền lương tối thiểu cho khu vực doanh nghiệp nhưng
vẫn chưa đầy đủ. Tuy nhiên, yếu kém nhất hiện nay trong bảo vệ người lao động là
thiếu sự kiểm soát chặt chẽ và xử lý vi phạm nghiêm minh của các cơ quan chức năng
đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Nhiều cuộc đình cơng, bãi cơng của
cơng nhân nước ta ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ khá cao
trong các cuộc đình cơng đặc biệt là năm 2011 đạt kỷ lục với 857 cuộc đình cơng. Hiện
nay, tuy đã giảm nhưng vẫn cịn diễn ra các cuộc đình cơng mà nguyên nhân dẫn đến có
liên quan đến các vấn đề về bảo hiểm xã hội, tiền lương, chế độ ngày nghỉ, chất lượng
bữa ăn ca.
Bảo vệ được những quyền lợi chính đáng, những quyền lợi được luật pháp bảo vệ,
của tất cả các bên trong quan hệ lao động là bảo đảm cho việc vận dụng một cách hợp lý
quan hệ bóc lột trong điều kiện hiện nay, đồng thời cũng là những đóng góp cơ bản nhất
cho cả quá trình hồn thiện và xây dựng mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam. Nếu khắc phục được những yếu kém này, chúng ta sẽ thúc đẩy
nền kinh tế phát triển đồng thời đảm bảo lợi ích chính đáng của người lao động, giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường.
2.4. Nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư khuyến khích thành phần kinh tế tư
bản chủ nghĩa phát triển
Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác ra đời dựa trên cơ sở nghiên cứu phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Phát hiện giá trị thặng dư làm nổ ra cuộc cách mạng thực
sự trong toàn bộ khoa học kinh tế, trang bị cho giai cấp tư sản thứ vũ khí sắc bén trong
cuộc đấu tranh và phát triển các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa. Ngày nay, từ quan
niệm đổi mới về các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa, học thuyết này cịn có ý nghĩa
17
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và khuyến khích phát triển thành phần
kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Hiện nay ta có thể thấy rằng việc nghiên cứu, khai thác để vận dụng học thuyết giá
trị thặng dư của C. Mác trở thành việc làm cần thiết trong điều kiện phát triển nền kinh tế
tư bản nhằm phát triển nền kinh tế tư bản một cách bền vững và mạnh mẽ. Nghiên cứu
học thuyết giá trị thặng dư không phải là để kỳ thị thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa
mà để khuyến khích nó phát triển, bởi vì chỉ có hiểu rõ bản chất của nó mới có thể đưa ra
những chính sách đúng đắn và phù hợp với nó.
Chẳng hạn, đối với Việt Nam chúng ta, việc hiểu rõ mục đích và động cơ của sản
xuất tư bản chủ nghĩa là cố gắng thu được càng nhiều giá trị thặng dư càng tốt thông qua
các hoạt động trao đổi hàng hóa và bn bán, vậy thì muốn khuyến khích thành phần
kinh tế tư bản tư nhân phát triển và thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài vào đầu tư các dự
án, chúng ta phải có chính sách như thế nào để họ thu được lợi nhuận thoả đáng, thậm chí
cao hơn lợi nhuận thu được khi học đầu tư vào các nước láng giềng của ta. Vì chắc chắn
rằng việc đầu tư là phải sinh lời, phải tạo ra được giá trị thặng dư xứng đáng với nguồn
lực về tài chính và nhân lực họ bỏ ra, thì họ mới tiếp tục duy trì và dần mở rộng đầu tư
trong tương lai. Từ đó mới giúp cho nền kinh tế trong nước ta phát triển bền vững hơn,
tạo ra được công ăn việc làm cho hàng ngàn người lao động, giải quyết các bài tốn khó
khăn trong việc giải quyết tình trạng thất nghiệp. Mặt khác, Việt Nam cũng phải có biện
pháp điều tiết bớt sự chênh lệch quá đáng giữa người giàu và người nghèo hay cịn gọi
ngắn gọn là sự phân hóa giàu nghèo, đồng thời có các chính sách xã hội hỗ trợ người khó
khăn (cơng nhân lao động chân tay, người lao động dân trí thấp...) để giảm bớt bất công
và đồng thời là nâng cao sự thỏa mãn, hài lòng về mặt tinh thần giúp cho người dân an
tâm, vững vàng và tập trung vào làm việc, tạo ra của cải vật chất.
18
C. KẾT LUẬN
Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là sản xuất ra giá trị sử dụng,
mà là sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư bằng bất
cứ thủ đoạn nào là mục đích, động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản, cũng
như của toàn bộ xã hội tư sản. Để sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, các nhà tư bản phải
tăng cường bóc lột cơng nhân làm th, không phải bằng cưỡng bức siêu kinh tế (roi vọt),
mà bằng cưỡng bức kinh tế (kỷ luật đói rét) dựa trên cơ sở mở rộng sản xuất, phát triển
kỹ thuật để tăng năng suất lao động, tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động.
Vậy sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. C. Mác
viết: “Việc tạo ra giá trị thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất đó”.
Nội dung chủ yếu của quy luật này là để thu được giá trị thặng dư một cách tối đa, nhà tư
bản đã tăng số lượng lao động làm thuê và tìm mọi thủ đoạn để bóc lột họ.
Trong giai đoạn hiện nay, các nhà tư bản thực hiện cải tiến kỹ thuật hoàn thiện tổ
chức sản xuất và tổ chức lao động để tăng năng suất lao động, làm giảm giá trị hàng hoá.
Đồng thời thu hút một đội ngũ các kỹ sư, quản lý, mà chức năng của họ suy cho cùng là
bảo đảm sử dụng có hiệu quả nhất tất cả các nhân tố của sản xuất mà trước hết là sức lao
động, nhờ đó mà tăng giá trị thặng dư.
19