BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN: PHÁP LUẬT NGƯỜI KHUYẾT TẬT
Đề bài: Đề 03: Phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về giáo
dục đối với NKT và đề xuất các kiến nghị.
HỌ VÀ TÊN
MSSV
LỚP
:
:
:
NGUYỄN THẾ DŨNG
452021
N01
Hà Nội, 2023
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ Giáo dục và Đào tạo
Liên Hợp Quốc
Người khuyết tật
: Bộ GD&ĐT
: LHQ
: NKT
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................1
NỘI DUNG........................................................................................................1
1. Khái quát chung về pháp luật giáo dục cho NKT.................................1
1.1. Khái niệm giáo đối với NKT...........................................................1
1.2. Vai trò của pháp luật về giáo dục đối với NKT............................1
2. Nội dung pháp luật về giáo dục đối với NKT........................................2
2.1. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về giáo dục đối với NKT. .2
2.2. Phương thức giáo dục đối với người khuyết.................................4
2.3. Chế độ giáo dục đối với NKT..........................................................4
3. Thực trạng pháp luật Việt Nam về giáo dục đối với NKT và một số
kiến nghị........................................................................................................5
3.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về giáo dục đối với NKT...........5
3.2. Khó khăn, bất cập trong áp dụng quy định giáo dục của NKT. .7
3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giáo dục đối với NKT............8
KẾT LUẬN......................................................................................................10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................10
MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống hàng ngày, rất dễ dàng bắt gặp sự bất bình đẳng, càng
thể hiện rõ hơn đối với những người không may mắn bị khiếm khuyết một
phần cơ thể, mà ta còn gọi là NKT (NKT). Do khuyết tật nên họ gặp rất nhiều
khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt, học tập, lao động và tham gia hoạt động
xã hội. Do đó việc đảm bảo sự bình đẳng trong việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ về giáo dục, kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội đối với NKT là nghĩa
vụ của gia đình, xã hội và nhà nước. Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, phát huy truyền thống nhân ái của dân tộc, Đảng, Nhà nước ta
luôn quan tâm chăm sóc và giúp đỡ những người yếu thế trong xã hội trong đó
có NKT. Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách về giáo dục đối với NKT
nhằm tạo điều kiện để NKT thực hiện quyền học tập của mình. Quyền được
giáo dục của cơng dân nói chung trong đó có NKT đã được khẳng định trong
Hiến pháp của nước ta, quyền này được cụ thể hóa trong các luật chuyên
ngành như Luật giáo dục, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em... đặc biệt
Luật NKT ra đời năm 2010 có hiệu lực từ ngày 01/01/2011 đã dành chương IV
để quy định về giáo dục đối với NKT. Tuy nhiên những quy định này đã được
thực hiện như thế nào, đem lại kết quả ra sao trên thực tế và có phản ánh đúng
được nhu cầu học tập của NKT hay không là vấn đề cần phải quan tâm. Do đó,
em xin lựa chọn đề 03 phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về giáo dục đối
với NKT và đề xuất các kiến nghị làm tiểu luận kết thúc học phần của mình.
NỘI DUNG
1. Khái quát chung về pháp luật giáo dục cho NKT.
1.1. Khái niệm giáo đối với NKT
Để có thể phát triển tồn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và
nghề nghiệp con người cần phải được giáo dục. Giáo dục là hoạt động nhằm
tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối
tượng nào đó, làm cho đối tượng đó có được những phẩm chất và năng lực như
yêu cầu đề ra. Vì vậy, giáo dục đối với NKT cũng được hiểu là những hoạt
động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất
của NKT giúp họ có được kiến thức, tri thức, phẩm chất đạo đức đồng thời
hình thành và phát triển nhân cách. Giáo dục đối với NKT có thể được thực
hiện trong nhiều hoạt động, dưới nhiều hình thức và phương thức khác nhau
song hoạt động chủ yếu vẫn là hoạt động học tập.
1.2. Vai trò của pháp luật về giáo dục đối với NKT
Pháp luật giáo dục đảm bảo rằng NKT có tiếng nói trong cộng đồng của
họ, tăng quyền cho họ để họ có thể thể hiện các nhu cầu và đóng góp ý kiến
1
vào quá trình phát triển của địa phương. Đảm bảo cho họ quyền bình đẳng như
những người bình thường khác mà không bị phân biệt đối xử. Tạo ra các thay
đổi nhận thức tích cực trong cộng đồng về khả năng đóng góp cho cộng đồng
của NKT, góp phần tạo nên một xã hội khơng rào cản và hịa nhập hồn tồn
cho NKT.
Pháp luật giáo dục góp phần nâng cao ý thức về bản thân của NKT có
được những tri thức, kiến thức, sự hiểu biết về tự nhiên, về xã hội và giúp họ
trở thành người có ích cho xã hội. Giúp cho NKT có được những kiến thức cơ
bản và nó sẽ trở thành nền tảng cần thiết và quan trọng để họ có thể tham gia
học nghề và tìm kiếm việc làm. Góp phần cho việc huy động về lao động, sống
có ý nghĩa để phát triển kinh tế đất nước, bình ổn xã hội.
Pháp luật giáo dục giáo dục giúp NKT tái hòa nhập vào cộng đồng. Trong
mơi trường học tập, NKT sẽ có điều kiện để giao tiếp với thầy cô cũng như bạn
bè và những người khác. Đây môi trường tốt nhất và nhanh nhất để NKT phát
triển nhận thức và trí tuệ của mình. Để họ cảm thấy ln được quan tâm, hịa
đồng không bị phân biệt đối xử hay xa lánh.
Pháp luật về giáo dục còn thể hiện trách nhiệm, thái độ của Nhà nước để
NKT luôn nhận được sự quan tâm, hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi trong lĩnh
vực giáo dục thơng qua các chính sách, chủ trương của Nhà nước.
2. Nội dung pháp luật về giáo dục đối với NKT
2.1. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về giáo dục đối với NKT
Nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng trong giáo dục của NKT. Quyền
được giáo dục phải được dựa trên cơ sở bình đẳng cơ hội, khơng phân biệt đối
xử thơng qua giáo dục hịa nhập thân thiện ở các cấp học, trình độ đào tạo và
học tập suốt đời. Do đó, NKT cũng có nhu cầu học tập để có kiến thức như
những người bình thường khác. Nhưng vì bị khiếm khuyết nên việc học của họ
trở nên khó khăn hơn người bình thường và các khiếm khuyết này rất đa dạng
cho nên như cầu học tập của mỗi người là khác nhau. Do đó cần tạo điều kiện
cho NKT thực hiện quyền học tập của mình, khơng mang tính chất bất bình
đẳng và phân biệt đối xử.
Nguyên tắc hỗ trợ và tạo điều kiện cần thiết để NKT có thể tham gia
học tập. Đây là nguyên tắc chi phối chế độ giáo dục đối với NKT là nguyên
tắc để NKT có thể tham gia học tập. Giáo dục nói chung và học tập nói riêng
cũng là một quyền và nghĩa vụ thiêng liêng của NKT. Trong khi đó, bản thân
những NKT ln gặp phải rất nhiều khó khăn trong cuộc sống và học tập. Nắm
rõ được điều này, pháp luật nước ta đã có những hỗ trợ, chính sách để bù đắp
những thiệt thịi, những khó khăn của họ, tạo điều kiện cần thiết cho họ được
2
tham gia học tập. Đối với NKT, theo Quy tắc tiêu chuẩn của LHQ về bình
thường hóa các cơ hội cho NKT, trách nhiệm của các quốc gia là phải “thừa
nhận nguyên tắc bảo đảm các cơ hội bình đẳng trong giáo dục tiểu học, trung
học và đại học cho trẻ em, thanh niên, người lớn bị khuyết tật trong những
hoàn cảnh và điều kiện hội nhập. Các quốc gia cần đảm bảo giáo dục cho NKT
là một bộ phận hợp thành trong hệ thống giáo dục”. Với vai trò là một quốc gia
thành viên của LHQ, đồng thời đáp ứng nhu cầu học tập của NKT, Nhà nước
ta đã khẳng định rằng học tập là một trong các quyền và nghĩa vụ của công
dân. NKT cũng là công dân nên họ có quyền được học tập và cũng có nghĩa vụ
phải học tập. Hơn nữa, Nhà nước ta lại chủ trương thực hiện công bằng xã hội
trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng được học hành (Điều 10 Luật giáo
dục) nên đương nhiên NKT cũng sẽ được tiếp cận với cơ hội học tập. Học tập
là quyền của cơng dân nhưng vì NKT là người bị khiếm khuyết một hoặc
nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng nên việc học tập gặp nhiều
khó khăn nên cơ hội học tập đối với NKT thường ít hơn so với những người
bình thường khác. Chính vì vậy, cần phải có sự hỗ trợ và tạo điều kiện cần
thiết để NKT có thể tham gia học tập và thực hiện được quyền học tập của
mình. Sự hỗ trợ này, không phải chỉ đơn thuần là sự hỗ trợ của những người
thân, gia đình NKT mà cịn cần phải có sự hỗ trợ của Nhà nước, của xã hội,
của cộng đồng. Nhà nước không chỉ hỗ trợ về tinh thần cho NKT mà cịn cần
phải có những hỗ trợ về vật chất cho họ (như miễn, giảm học phí...) để họ có
thể tham gia học tập. Bên cạnh đó, bản thân NKT cũng cần phải có sự cố gắng,
nỗ lực, có nghị lực để vượt lên trên mọi khó khăn để tham gia học tập.
Nguyên tắc đề cao và khuyến khích giáo dục hịa nhập cộng đồng. Hịa
nhập cộng đồng là nguyên tắc hết sức quan trọng trong giáo dục đối với NKT.
Bản thân NKT khi thấy mình bị khuyết tật thường có xu hướng xa lánh cộng
đồng bởi tâm lý tự ti mặc cảm. Còn cộng đồng xã hội có thể do nhận thức chưa
đầy đủ và thiếu hiểu biết nên cũng có thái độ phân biệt, kỳ thị đối với NKT.
Chính vì vậy, để xóa bỏ rào cản giữa những NKT và người không khuyết tật
cần phải thực hiện nguyên tắc hòa nhập cộng đồng. Thực hiện việc hịa nhập
cộng đồng trong giáo dục sẽ khơng chỉ tạo môi trường giúp NKT và người
không khuyết tật hiểu biết nhau hơn mà còn giúp NKT phát triển nhận thức
nhanh hơn. Do đó, các phương thức giáo dục NKT cần phải hướng tới nguyên
tắc này. Cần phải tạo điều kiện tối đa để NKT hòa nhập vào cộng đồng theo
chủ chương coi giáo dục hòa nhập là phương thức chủ yếu đối với NKT,
phương thức giáo dục chuyên biệt chỉ nên áp dụng đối với những trường hợp
đặc biệt, khơng thể áp dụng phương thức giáo dục hịa nhập.
3
Giáo dục dành cho NKT cần luôn quan tâm và đề cao nguyên tắc này để
tạo điều kiện tốt nhất cho NKT hịa nhập với xã hội. Thực hiện cơng tác giáo
dục cho NKT theo các nguyên tắc cơ bản trên sẽ đem lại những hiệu quả tích
cực trong giáo dục đối với NKT, giúp họ phát triển nhận thức, tri thức và hịa
nhập nhanh chóng với cộng đồng và xã hội.
2.2. Phương thức giáo dục đối với người khuyết
Tại Điều 28 Luật NKT 2010 đã quy định về các phương thức giáo dục
NKT1 có thể thấy, các phương thức cơ bản nhất chủ yếu vẫn bao gồm giáo dục
hòa nhập, giáo dục bán hòa nhập và giáo dục chuyên biệt Giáo dục hòa nhập là
phương thức giáo dục chủ yếu đối với NKT. Các dạng tật của NKT hết sức đa
dạng, có khuyết tật vận động; khuyết tật nghe nói; khuyết tật nhìn; khuyết tật
thần kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ và các khuyết tật khác. Tùy thuộc vào
mức độ khuyết tật mà NKT, cha, mẹ, hoặc người giám hộ NKT lựa chọn
phương thức giáo dục phù hợp với sự phát triển của cá nhân NKT. Việc xác
định phương thức giáo dục phù hợp cho NKT sẽ không chỉ giúp cho NKT thực
hiện được quyền học tập của mình mà cịn giúp cho việc học tập đạt được hiệu
quả. Nhà nước khuyến khích NKT học tập theo phương thức giáo dục hồ
nhập vì đây được xem là phương pháp giáo dục hiệu quả có sự hỗ trợ của cộng
đồng, tất cả các trẻ em đều được hưởng lợi từ việc học chung trong một lớp
học bình thường, tạo ra cộng đồng trường học và xã hội không phân biệt đối
xử. Riêng giáo dục bán hòa nhập là phương thức giáo dục kết hợp giữa giáo
dục hòa nhập và giáo dục chuyên biệt cho NKT trong cơ sở giáo dục. Phương
thức này cũng được thực hiện trong trường hợp chưa đủ điều kiện để NKT học
tập theo phương thức giáo dục hòa nhập.
2.3. Chế độ giáo dục đối với NKT
Nhà nước cần phải có những quy định riêng dành cho NKT trong chế độ
giáo dục. Những quy định riêng này chỉ có tính chất hỗ trợ và tạo điều kiện cho
NKT thực hiện quyền học tập của mình chứ khơng mang tính chất bất bình
đẳng giữa những NKT và người khơng khuyết tật hay mang tính chất phân biệt
đối xử. Cụ thể, theo quy định tại Điều 27 Luật NKT 2010 2, NKT được nhập
học ở độ tuổi cao hơn so với độ tuổi quy định đối với giáo dục phổ thông; được
ưu tiên trong tuyển sinh; được miễn, giảm một số môn học hoặc nội dung và
hoạt động giáo dục mà khả năng của cá nhân không thể đáp ứng; được miễn,
giảm học phí, chi phí đào tạo, các khoản đóng góp khác; được xét cấp học
bổng, hỗ trợ phương tiện, đồ dùng học tập. Bên cạnh đó, NKT còn được cung
1Xem Điều 28 Luật NKT 2010
2Xem Điều 27 Luật NKT 2010.
4
cấp phương tiện, tài liệu hỗ trợ học tập dành riêng trong trường hợp cần thiết;
NKT nghe, nói được học bằng ngơn ngữ ký hiệu; NKT nhìn được học bằng
chữ nổi Braille theo chuẩn quốc gia.
Theo quy định kể từ ngày 05/3/2014, Thông tư liên tịch số 42/TTLTBGDĐT- BLĐTBXH-BTC ngày 31/12/2013 của liên Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Bộ Tài chính và Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội quy định về chính sách
về giáo dục đối với NKT bắt đầu có hiệu lực. Thơng tư này áp dụng đối với
NKT học tập trong các cơ sở giáo dục dạy NKT, các trung tâm hỗ trợ phát
triển giáo dục hòa nhập, các tổ chức và cá nhân khác liên quan (không áp dụng
đối với NKT học tập tại các cơ sở dạy nghề) 3. Một số nội dung chủ yếu của
Thông tư là được ưu tiên nhập học và tuyển sinh, được nhập học ở độ tuổi cao
hơn so với quy định là 3 tuổi; được hưởng chế độ tuyển thẳng, xét tuyển thẳng
vào trung học cơ sở, trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp. Đối với
tuyển sinh hệ đại học, cao đẳng, NKT đặc biệt nặng được xét tuyển thẳng và
được hưởng chính sách ưu tiên theo đối tượng khi đăng kí xét tuyển theo Quy
chế tuyển sinh do Bộ GD&ĐT ban hành. Được miễn, giảm một số nội dung
trong chương trình giáo dục. Được xét lên lớp và cấp bằng tốt nghiệp. Ngồi ra
NKT cịn được hưởng các Chính sách học bổng và hỗ trợ phương tiện, đồ dùng
học tập.
3. Thực trạng pháp luật Việt Nam về giáo dục đối với NKT và một số
kiến nghị
3.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về giáo dục đối với NKT
Thứ nhất, chính sách chung đảm bảo quyền học tập của NKT. Khoản 3
Điều 61 Hiến pháp năm 2013 khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trong việc
tạo điều kiện để NKT được học tập phù hợp với nhu cầu và khả năng của họ.
Cụ thể hóa quy định trên, Điều 28 Luật NKT năm 2010 đã ghi nhận ba phương
thức giáo dục NKT bao gồm giáo dục hòa nhập, giáo dục bán hòa nhập và giáo
dục chuyên biệt. Trong đó, giáo dục hịa nhập là phương thức giáo dục chủ yếu
đối với NKT. Giáo dục bán hòa nhập và giáo dục chuyên biệt được thực hiện
trong trường hợp chưa đủ điều kiện để NKT học tập theo phương thức giáo
dục hịa nhập. Với những chính sách trên, trong thời gian qua, số lượng trẻ
khuyết tật tham gia học hòa nhập tăng đều hàng năm; số lượng học sinh khuyết
tật được đi học trong giai đoạn 2013-2023 đã tăng gấp khoảng 10 lần so với
giai đoạn 2000-2010; cả nước đã hình thành hệ thống các trung tâm hỗ trợ phát
3 Trương Lệ Châu (2016), “Pháp luật về giáo dục cho NKT và thực tiễn thực hiện tại Trung tâm Hỗ
trợ phát triển giáo dục cho NKT thành phố Hồ Chí Minh”, TS. Nguyễn Hiền Phương hướng dẫn,
trường Đại học Luật Hà Nội.
5
triển giáo dục hòa nhập tại 20 tỉnh, thành phố, 97 cơ sở giáo dục chuyên biệt;
phát triển được mạng lưới giáo viên dạy cho NKT trên 63 tỉnh, thành.
Thứ hai, chính sách đảm bảo điều kiện tiếp cận cơng trình xây dựng, cơ sở
giáo dục. Điều 30 Luật NKT năm 2010 quy định rõ trách nhiệm của cơ sở giáo
dục trong việc bảo đảm các điều kiện dạy và học phù hợp đối với NKT, thực
hiện việc cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất dạy và học chưa bảo đảm điều kiện
tiếp cận đối với NKT. Hiện nay, Việt Nam đã ban hành Quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia QCVN 10:2014/BXD về xây dựng cơng trình đảm bảo NKT tiếp cận
sử dụng. Quy chuẩn này quy định các yêu cầu kỹ thuật bắt buộc phải tuân thủ
khi xây dựng mới hoặc cải tạo các cơng trình xây dựng, cơ sở hạ tầng bao gồm
các cơ sở giáo dục phải đảm bảo NKT tiếp cận sử dụng. Trong từng giai đoạn,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các đề án, chương trình trợ giúp NKT, bao
gồm các chính sách đảm bảo quyền tiếp cận giáo dục đối với NKT: Đề án trợ
giúp NKT giai đoạn 2012 - 2020 chỉ tiêu đến 2020 có 70% trẻ em khuyết tật có
khả năng học tập được tiếp cận giáo dục có chất lượng 4. Tiếp đến, Chương
trình trợ giúp NKT giai đoạn 2021-2030 đề rõ các mục tiêu giai đoạn 20212025 có 80% trẻ khuyết tật ở độ tuổi mầm non và phổ thông được tiếp cận giáo
dục, mục tiêu giai đoạn 2026 - 2030 có 90% trẻ khuyết tật ở độ tuổi mầm non
và phổ thông được tiếp cận giáo dục5.
Thứ ba, chính sách đảm bảo phương tiện, tài liệu hỗ trợ học tập cho
NKT. Khoản 3 Điều 27 Luật NKT năm 2010 quy định: “NKT được cung cấp
phương tiện, tài liệu hỗ trợ học tập dành riêng trong trường hợp cần thiết;
NKT nghe, nói được học bằng ngơn ngữ ký hiệu; NKT nhìn được học bằng chữ
nổi Braille theo chuẩn quốc gia”. Điều này có nghĩa, NKT với các dạng
khuyết tật khác nhau sẽ được cung cấp công cụ, tài liệu và hỗ trợ học tập phù
hợp, đảm bảo được học tập trong lớp dựa theo khả năng, nhu cầu và năng lực
học tập của từng dạng khuyết tật. Theo đó, trong giai đoạn 2013-2023, ngành
giáo dục đã biên soạn và cung cấp một số giáo trình, tài liệu phục vụ việc học
tập của học sinh khuyết tật; Hệ thống giáo trình, sách hướng dẫn, tài liệu dạy
và học cho NKT ngày càng được xuất bản và sử dụng rộng rãi; Việc xây dựng
chương trình, tài liệu học tập hỗ trợ giáo dục đối với học sinh khuyết tật ngày
càng được quan tâm…
Thứ tư, chính sách đào tạo, ưu đãi đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo
dục và nhân viên hỗ trợ giáo dục NKT. Điều 29 Luật NKT năm 2010 quy định
4 Điểm b khoản 2 mục I Điều 1 Quyết định 1019/QĐ-TTg năm 2012 phê duyệt Đề án trợ giúp NKT
giai đoạn 2012 - 2020 do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 05/08/2012.
5 Quyết định 1190/QĐ-TTg năm 2020 về phê duyệt Chương trình trợ giúp NKT giai đoạn 20212030 do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 05/08/2020.
6
nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục tham gia giáo dục NKT, nhân viên hỗ trợ
giáo dục NKT được đào tạo, bồi dưỡng cập nhật về chuyên môn, nghiệp vụ và
kỹ năng đáp ứng nhu cầu giáo dục NKT, được hưởng chế độ phụ cấp và chính
sách ưu đãi theo quy định. Với chính sách trên, hiện nay cả nước đã có 04
trường Đại học sư phạm và 03 trường Cao đẳng sư phạm thành lập khoa Giáo
dục đặc biệt và mở các mã ngành đào tạo giáo viên dạy trẻ khuyết tật. Hằng
năm, các trường này đã đào tạo được gần 600 giáo viên dạy trẻ khuyết tật, tập
huấn giáo dục hòa nhập cho 600 - 700 cán bộ quản lý và từ 2.000 - 2.500 giáo
viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông cốt cán của 63
tỉnh/thành phố về nghiệp vụ giáo dục hòa nhập cho học sinh khuyết tật để
những người này tiến hành tập huấn, hướng dẫn cho giáo viên tại các địa
phương về giáo dục hòa nhập, tiếp tục phát triển mạng lưới giáo viên dạy trẻ
khuyết tật trong cả nước.
3.2. Khó khăn, bất cập trong áp dụng quy định giáo dục của NKT
Mặc dù đã có những chính sách cụ thể nhằm đảm bảo NKT tiếp cận giáo
dục, song thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật Việt Nam hiện nay vẫn cịn
tồn tại một số khó khăn, bất cập như:
Thứ nhất, Luật NKT năm 2010 tuy ban hành đã lâu nhưng thực tế nên cịn
gây khó khăn trong thực hiện, chậm trễ trong việc đưa Luật đi vào cuộc
sống… trong khi bộ máy thực thi pháp luật cịn có nhiều hạn chế về chun
mơn và kinh nghiệm.
Thứ hai, Hiến pháp khẳng định rằng nhà nước và xã hội sẽ tạo những cơ
hội cần thiết cho trẻ em tật nguyền để nắm bắt được kiến thức chung và đào
tạo nghề thích hợp. Chi tiết hóa quyền được giáo dục cho trẻ khuyết tật, Chính
phủ đã thơng qua Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật giáo dục. Để
nâng cao tầm của giáo dục hòa nhập, Bộ GD&ĐT ban hành Quyết định số
23/2006/QĐ- BGD&ĐT ngày 22/5/2006 sao cho NKT có thể “được hưởng
quyền giáo dục bình đẳng với mọi người khác” và học tập chung, tham gia vào
đào tạo học nghề, được phục hồi chức năng và phát triển tiềm năng để hòa
nhập tốt hơn vào cộng đồng...Tuy nhiên, mặt khác, ở Việt Nam vẫn tiếp tục
công nhận và sử dụng hệ thống giáo dục chuyên biệt. Điều 63 của Luật giáo
dục 2005 cho phép thành lập một hệ thống giáo dục 2 nấc trong đó “NKT và
tật nguyền” được giáo dục trong các trường và lớp học chun biệt. Ước tính
tới nay có khoảng hơn 107 trường chuyên biệt cho hơn 7.000 trẻ khuyết tật tại
Việt Nam. Mặc dù mục đích của những trường lớp chuyên biệt là phục hồi
chức năng của những NKT để họ học tập và học nghề nhằm hòa nhập vào
cộng đồng, một hệ thống giáo dục dựa vào những trường chuyên biệt như thế
7
không đảm bảo tinh thần, ý nghĩa của pháp luật giáo dục về NKT.
Thứ ba, về các chính sách về giáo dục đối với NKT, pháp luật chưa có
quy định cụ thể về chế độ khuyến khích, ưu đãi đối với trường, lớp dành cho
NKT do tổ chức, cá nhân thành lập khó khăn trong việc thực hiện trên thực tế,
chưa tạo được động lực để các tổ chức, cá nhân có những hoạt động thiết thực
hỗ trợ NKT. Pháp luật hiện hành cũng thiếu các quy định về trách nhiệm quản
lý, cưỡng chế cũng như chế tài xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật về chế
độ giáo dục đối với NKT như các hành vi phân biệt đối xử, từ chối tiếp nhận
NKT vào học... Hơn thế nữa, theo Luật giáo dục năm 2005, chỉ có những học
sinh khuyết tật có khó khăn về kinh tế mới có quyền học tập miễn phí; tất cả
những trẻ em khác phải trả học phí và chỉ được quyền miễn, giảm học phí.
Nghị định số 49/2010/NĐ-CP quy định chỉ có trẻ em khuyết tật học mẫu giáo
và học sinh, sinh viên bị tàn tật, khuyết tật có khó khăn về kinh tế mới được
miễn học phí (khoản 3 điều 4), trẻ em khuyết tật học mẫu giáo và học sinh phổ
thơng bị tàn tật, khuyết tật có khó khăn về kinh tế được hỗ trợ chi phí học tập
(khoản 2 điều 6), cịn các trẻ em khuyết tật khác thì khơng thuộc diện được
miễn giảm học phí hay hỗ trợ chi phí học tập. Điều này đã phần nào tạo ra sự
phân biệt giữa những NKT, gây ảnh hưởng không tốt cho NKT trong việc thực
hiện.
Do kỹ thuật lập pháp của chúng ta chưa đáp ứng được sự phát triển của
đời sống xã hội, chưa lường hết được sự vận động, thay đổi của xã hội nên
thường xuyên phải sửa đổi bổ sung. Quá trình xây dựng pháp luật về quyền
của NKT nói chung và quyền học tập của NKT nói riêng cịn vướng mắc, trở
ngại do nhiều ngun nhân như: còn nhiều ý kiến khác nhau, chưa thống nhất,
việc tổng kết đánh giá việc thực hiện chế độ giáo dục cho NKT được tiến hành
chậm; việc bổ sung, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật về quyền của
NKT trong thời gian qua còn mang nặng giải pháp tình thế, thiếu sự thống nhất
cao về tư tưởng, đường lối xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền của
NKT.
3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giáo dục đối với NKT
Thứ nhất, để Luật NKT, Nghị định số 28/2012/NĐ-CP có thể đi vào cuộc
sống thì cần nhanh chóng ban hành các thông tư hướng dẫn thi hành. Bộ Giáo
dục và Đào tạo cùng với các cơ quan chức năng cũng phải nhanh chóng nghiên
cứu, xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, đề
án, kế hoạch về công tác giáo dục NKT.
Thứ hai, việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện pháp luật về chế độ giáo dục đối
với NKT cần tập trung vào một số vấn đề cụ thể sau :
8
- Về phương thức giáo dục: Nên có quy định hướng dẫn cụ thể từng dạng
tật và mức độ khuyết tật phù hợp với loại phương thức giáo dục nào với để
NKT có thể hiểu rõ và lựa chọn được phương thức giáo dục phù hợp với bản
thân mình, hướng tới xây dựng một nền giáo dục hịa nhập hồn tồn đối với
NKT trong tương lai, từ đó đem lại hiệu quả thiết thực.
- Về loại hình đào tạo: Cần có các quy định để thực hiện gắn học tập văn
hóa với việc phục hồi chức năng ngay tại cộng đồng hoặc tại các trường cho
NKT. Cần bổ sung các quy định để sớm kiện toàn hệ thống các trường chuyên
biệt với việc đào tạo đội ngũ giáo viên thủ ngữ, đồng thời chuyển hướng chủ
yếu sang thực hiện mô hình giáo dục hịa nhập. Bộ GD&ĐT cần sớm ban hành
bộ giáo trình chuẩn để dạy cho học sinh là NKT với các loại hình khuyết tật
khác nhau, coi đây là nhân tố hàng đầu cho việc hòa nhập cộng đồng của NKT.
Nên có quy định cụ thể, rõ ràng, chi tiết về các chương trình học, phương pháp
giảng dạy và các dịch vụ hỗ trợ đối với từng dạng khuyết tật ở từng cấp học để
dễ áp dụng trong thực tế.
- Về nguồn lực trong giáo dục đối với NKT: Cần sửa đổi, bổ sung để có
các quy định về chế độ thỏa đáng đối với những giáo viên dạy NKT, đặc biệt là
những lớp chuyên biệt. Bổ sung thêm các quy định về miễn, giảm học phí và
các khoản đóng góp cho học sinh là NKT ở các trường dân lập. Bổ sung, sửa
đổi các quy định về chế độ tuyển cử đối với NKT muốn theo học ở các bậc học
đại học và sau đại học các quy định về mơi trường học tập trong đó đặc biệt là
cơ sở vật chất. Cần có các quy định về hướng nghiệp, lựa chọn người tài trong
những NKT để bồi dưỡng, khuyến khích họ trở thành những người thầy dạy
cho chính những NKT sau này.
- Về chính sách trong giáo dục đối với NKT: Cần phải có các quy định rõ
về chế tài xử phạt, đặc biệt là đối với hành vi phân biệt đối xử, kỳ thị xã hội,
không tiếp nhận NKT vào học tại các cơ sở giáo dục không thực hiện những
quy định về chế độ giáo dục đối với NKT được quy định trong Luật NKT cũng
như trong các văn bản pháp luật chuyên ngành khác. Song song với đó cũng
cần có những cơ chế khuyến khích khen thưởng phù hợp như tổ chức tuyên
dương, tặng bằng khen... đối với các cá nhân, tổ chức, cơ quan có nhiều đóng
góp hỗ trợ NKT, có thể có những chính sách ưu đãi về tài chính như trợ cấp,
cho vay vốn với lãi suất thấp, ưu tiên về mặt bằng để xây dựng trường, lớp
hoặc cho mượn, tặng đồ dùng học tập, thiết bị chuyên dùng cho NKT… đối
với trường, lớp do tổ chức, cá nhân thành lập. Pháp luật cũng nên quy định cụ
thể về những đối tượng NKT được hưởng học bổng chính sách và mức hưởng
cụ thể để dễ dàng áp dụng trong thực tế.
9
KẾT LUẬN
Các quy định pháp luật và chính sách của Việt Nam đã thể hiện rất rõ
trách nhiệm của Nhà nước đối với NKT. Các chính sách của Nhà nước về giáo
dục đối với NKT là rất quan trọng để hỗ trợ NKT. Đó cũng là điều kiện cần
thiết đảm bảo cho NKT có một tương lai tốt đẹp hơn. Vì vậy, việc thực thi
chính sách một cách nghiêm túc và hiệu quả là trách nhiệm của tất cả các bộ
ngành liên quan, các chính sách giáo dục cho NKT là trách nhiệm của địa
phương, gia đình và mọi người trong xã hội trong q trình xã hội hóa giáo
dục. Mặc dù vẫn cịn nhiều khó khăn và thách thức trong cơng tác giáo dục
nhưng nhìn chung cơng tác này đã có những chuyển biến tích cực, đặc biệt là
trong nhận thức Nhà nước ta về chính sách giáo dục đối với NKT theo hướng
hoà nhập cộng đồng, phù hợp với nhận thức chung với nhân loại về vấn đề
giáo dục NKT.
10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp 2013
2. Luật NKT năm 2010
3. Luật Giáo dục 2019
4. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004
5. Thơng tư liên tịch số 42/TTLT-BGDĐT- BLĐTBXH-BTC ngày
31/12/2013 của liên Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính và Bộ Lao
động - Thương binh & Xã hội quy định về chính sách về giáo dục đối
với NKT
6. Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2010 về miễn giảm
học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ
sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010 - 2011
đến năm học 2014 - 2015
7. Nghị định số 74/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14
tháng 5 năm 2010 của Chính phủ
8. Nghị định số 28/2012/NĐ-CP Quy đinh chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật NKT
9. Quyết định 1190/QĐ-TTg năm 2020 về phê duyệt Chương trình trợ giúp
NKT giai đoạn 2021-2030 do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày
05/08/2020.
10.Quyết định 1019/QĐ-TTg năm 2012 phê duyệt Đề án trợ giúp NKT giai
đoạn 2012 - 2020 do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 05/08/2012.
11.Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), “Giáo trình Luật NKT”, Hà Nội,
NXB Cơng an nhân dân.
12.Nguyễn Hiền Phương (2013), “Giáo dục đối với NKT theo pháp luật
Việt Nam - Từ quy định đến thực tiễn thực hiện”, Tạp Luật học. Số Đặc
san pháp luật NKT/2013, tr. 94 - 103.
13.TS. Trương Hồng Quang, ThS. Dương Thu Hương (2023), “Pháp luật
về quyền của NKT tại Việt Nam hiện nay”, Tạp chí dân chủ Pháp luật.
14. Khánh Linh (2023), “Đề xuất quy hoạch hệ thống cơ sở giáo dục
chuyên biệt đối với NKT”, Báo điện tử Chính phủ.
15. Trương Lệ Châu (2016), “Pháp luật về giáo dục cho NKT và thực tiễn
thực hiện tại Trung tâm Hỗ trợ phát triển giáo dục cho NKT thành phố
Hồ Chí Minh”, TS. Nguyễn Hiền Phương hướng dẫn, trường Đại học
Luật Hà Nội.
16. Trần Thị Thúy (2012), “Chế độ giáo dục đối với NKT ở Việt Nam”,
11
ThS. Đỗ Thị Dung hướng dẫn, trường Đại học Luật Hà Nội.
12