Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Lịch sử hình thành nguyên tắc suy đoán vô tội và điều kiện đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.15 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG...............................................................................................................1
PHẦN 1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGUN TẮC
SUY ĐỐN VƠ TỘI...............................................................................................1
1. Khái niệm và nội dung ngun tắc suy đốn vơ tội.........................................1
2. Lịch sử hình thành và phát triển của ngun tắc suy đốn vơ tội....................2
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngun tắc suy đốn vơ tội theo
pháp luật quốc tế.................................................................................................2
2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của nguyên tắc suy đốn vơ tội theo
pháp luật Việt Nam.............................................................................................3
2.2.1. Giai đoạn từ Hiến pháp năm 1946 đến trước Hiến pháp năm 1959.....3
2.2.2. Giai đoạn từ Hiến pháp năm 1959 đến trước Hiến pháp năm 1980.....4
2.2.3.

Giai đoạn từ Hiến pháp năm 1980 đến trước Hiến pháp năm 1992.....4

2.2.4. Giai đoạn từ Hiến pháp năm 1992 đến trước Hiến pháp năm 2013......5
2.2.5. Giai đoạn từ Hiến pháp năm 2013 đến nay............................................6
PHẦN 2. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO NGUN TẮC SUY ĐỐN VƠ TỘI
...................................................................................................................................9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................13


NỘI DUNG
PHẦN 1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGUN TẮC SUY
ĐỐN VƠ TỘI
1.
Khái niệm và nội dung ngun tắc suy đốn vơ tội
Suy đốn vơ tội theo tiếng Anh là “presumption of innocence” hay “the right to be
presumed innocent”, với nghĩa là quyền được giả định vô tội, theo đó, người bị cáo buộc
thực hiện một tội phạm được coi là khơng có tội cho đến khi cơ quan cơng tố thuyết phục


được Tịa án rằng bị cáo đã phạm tội
Theo đó, một người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho tới khi tội phạm của
họ được chứng minh theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định và có bản án kết tội của
Tồ án đã có hiệu lực pháp luật. Ngun tắc này bao gồm năm nội dung sau:
Thứ nhất, người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho tới khi bị kết tội bởi một
bản án có hiệu lực pháp luật. Toà án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử và kết tội một
người, khơng một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào có thể phán quyết một người phạm tội,
kể cả cơ quan điều tra, truy tố.
Thứ hai, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không được đối xử
với người bị buộc tội như người phạm tội, không được định kiến, thiên lệch khi giải
quyết vụ án. Mọi quyền con người của người bị buộc tội phải được tôn trọng ngay cả khi
bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế, ngăn chặn, người bị buộc tội chỉ bị hạn chế một
phần quyền con người trong giới hạn luật định.
Thứ ba, việc chứng minh tội phạm phải được thực hiện theo một trình tự, thủ tục
nghiêm ngặt do Luật TTHS quy định. Các cơ quan điều tra trong quá trình thu thập các
tài liệu, chứng cứ phải khách quan và đúng pháp luật. Nghiêm cấm các hình thức bức
cung, nhục hình, “mớm cung”,... và các phương pháp thu thập tài liệu, chứng cứ trái pháp
luật.
Thứ tư, việc kết tội một người phải dựa trên những chứng cứ xác thực đã được
kiểm tra, xác minh cơng khai tại phiên tồ và khơng cịn bất cứ sự nghi ngờ nào. Mọi sự
nghi ngờ không chứng minh được theo trình tự, thủ tục luật định phải được xử lý theo
hướng có lợi cho người bị buộc tội. Khi không đủ căn cứ chứng minh tội phạm theo trình
tự, thủ tục luật định thì phải kết luận người bị buộc tội khơng có tội, các quyền và lợi ích
hợp pháp của họ phải được khơi phục theo quy định của pháp luật.
Thứ năm, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về bên buộc tội, người bị buộc
tội có quyền nhưng khơng có nghĩa vụ phải chứng minh. Người bị buộc tội không bị buộc
1


phải đưa ra lời khai chống lại mình và có quyền giữ im lặng, không trả lời các câu hỏi của

các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Không được dùng lời nhận tội của
bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội .
2.
Lịch sử hình thành và phát triển của nguyên tắc suy đốn vơ tội
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của ngun tắc suy đốn vơ tội theo pháp
luật quốc tế
Ngun tắc suy đốn vơ tội là một ngun tắc đặc trưng trong tố tụng hình sự, sự
ra đời của nguyên tắc này góp phần củng cố và đảm bảo quyền con người nói chung và
quyền con người trong lĩnh vực tư pháp nói riêng.
Trên thế giới, suy đốn vô tội ra đời từ rất sớm, nguyên tắc này bắt đầu manh nha
từ thời cổ đại trong Bộ luật cổ Manu của Ấn Độ, xuất hiện lần đầu tiên ở thời La Mã cổ
đại thế kỷ thứ VI khi hồng đế La Mã ban hành bản tóm lược luật La Mã với nội dung:
“Chứng minh là công việc thuộc về anh ta – người khẳng định chứ không phải là người
phủ định” . Theo đó, trách nhiệm chứng minh thuộc về bên tố cáo và người nào đi kiện
thì người đó chứng minh trước. Sau đó, các triều đại La Mã đã áp ụng nguyên tắc này
trong quá trình xét xử hình sự và bắt đầu khẳng định nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên
buộc tội và một hệ quả tất yếu là bị cáo luôn được coi là vơ tội.
Tư tưởng về suy đốn vơ tội chỉ trở thành nguyên tắc pháp luật khi Cách mạng tư
sản Pháp thắng lợi cùng với đó là địi hỏi ngày càng gay gắt của xã hội cần phải có biện
pháp hạn chế, chống lại sự chuyên quyền, độc đoán xâm phạm thơbạo quyền con người
từ phía nhà nước, tại Điều 9 Tun ngơn Nhân quyền và Dân quyền của Cộng hịa Pháp
năm 1789 cũng đã thừa nhận suy đốn vơ tội như một quyền cơ bản của con người, cụ
thể “ Mọi người đều được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội, nếu xét thấy
nhất thiết phải bắt giữ thì mọi sự cưỡng bức vượt quá mức cần thiết cho sự bắt giữ đều bị
pháp luật xử phạt nghiêm khắc”. Đây là một bước tiến trong nhận thức trong việc tôn
trọng và bảo đảm quyền con người.
Sau này, ngun tắc suy đốn vơ tội đã sớm trở thành nguyên tắc được cộng đồng
quốc tế thừa nhận và được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế về quyền con người.
Theo đó , Điều 11 Tun ngơn thế giới về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc quy
định: “Mỗi bị cáo dù đã bị buộc tội có quyền được coi là vơ tội cho đến khi được chứng

minh là phạm tội theo pháp luật tại một phiên tồ xét xử cơng khai với mọi bảo đảm biện
hộ cần thiết”. Khoản 1 Điều 14 Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về các quyền dân
sự và chính trị năm 1966 quy định: “Tất cả mọi người đều bình đẳng trước tồ án… Bất
kì người nào đều có quyền địi hỏi việc xét xử cơng bằng và cơng khai do một tồ án có
thẩm quyền, độc lập không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về
2


lời buộc tội trong vụ án hình sự…”. Khoản 2 Điều 14 Công ước này cũng quy định:
“Người bị buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vơ tội cho tới khi tội của người
đó được chứng minh theo pháp luật”.
Hiện nay hầu hết các quốc gia trên thế giới nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng
ngun tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự như một nguyên tắc nền tảng cơ bản,
định hướng cho quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, gắn trách nhiệm với cơ quan
công quyền trong việc thu thập các tài liệu chứng cứ để chứng minh tội phạm đều . Qua
đó ngun tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự như một nguyên tắc cơ bản để hướng
đến việc giải quyết vụ án hình sự một cách khách quan, công bằng, hướng đến bảo vệ
công bằng, lẽ phải.
2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của ngun tắc suy đốn vơ tội theo pháp
luật Việt Nam
Ngun tắc suy đốn vơ tội vừa là một ngun tắc trong luật nhân quyền quốc tế
vừa là một nguyên tắc hiến định được cụ thể hóa thành một nguyên tắc trong tố tụng hình
sự. Ở Việt Nam, sự ra đời của Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên quy định một cách rõ
ràng, riêng biệt các quyền con người và quyền cơng dân, đồng thời trên cơ sở đó chính
thức thừa nhận ngun tắc suy đốn vơ tội là một nguyên tắc hiến định. Tuy vậy, điều
này không đồng nghĩa với việc thời điểm trước đó ở Việt Nam khơng tồn tại ngun tắc
này, thay vào đó q trình hình thành và phát triển ngun tắc suy đốn vơ tội gắn liền
với mỗi giai đoạn lập hiến, lập pháp của Việt Nam qua các thời kỳ.
2.2.1. Giai đoạn từ Hiến pháp năm 1946 đến trước Hiến pháp năm 1959
Hiến pháp năm 1946 khơng có quy định trực tiếp về suy đốn vơ tội như một

ngun tắc hiến định. Tuy nhiên trong giai đoạn này, ngun tắc suy đốn vơ tội đã được
thể hiện trong nội dung của Thông tư số 2225-HCTP ngày 24/10/1956 của Bộ Tư pháp
về chấn chỉnh việc thực hiện quyền bào chữa của bị can. Theo đó tại Mục III của Thơng
tư có quy định :
“3) Trong quá trình điều tra cũng xét xử, tuyện đối không được mớm cung, bức cung hay
trấn áp bị can bất cứ bằng hình thức nào, hoặc dùng lời lẽ dụ dỗ, hứa hẹn để bị can nhận
tội. Lời thú tội của bị can không kết thúc cuộc thẩm cứu mà cịn phải có bằng chứng xác
minh mới được dùng làm cơ sở để kết tội. Tòa án chỉ dựa trên những sự việc đã xác minh
rõ rệt ở phiên tịa mà kết luận.
4) Khơng nên có định kiến hễ người bị truy tố là nhất định có tội mà đối xử như với
người có tội; bị can trước khi tun án được coi như có tội để tịa án có thái độ hồn
tồn khách quan.”

3


Trong phần mở đầu của Thông tư 2225-HCTP ngày 24/10/1956 có thể thấy đây là
một văn bản pháp luật được ban hành trong bối cảnh quyền bào chữa của bị can chưa
được coi trọng, quyền chọn người bào chữa của bị can cũng không được thực hiện đầy
đủ. Mặc dù suy đốn vơ tội trong nội dung của Thơng tư 2225- HCTP không được đặt tên
thành một nguyên tắc hay một điều luật cụ thể, đồng thời với đặc thù một văn bản đảm
bảo quyền của bị can, pháp luật giai đoạn này chỉ quy định quyền suy đốn vơ tội đối với
bị can cứ không phải là người bị tạm giữ , bị cáo,…nhưng các quy định trên đã thể hiện
được nội dung cơ bản của nguyên tắc này thơng qua việc ghi nhận Tịa án chỉ dựa trên
những sự việc đã xác minh rõ rệt ở phiên tòa mà kết luận và bị can được suy đốn vơ tội
cho đến khi có bản án, kết luận của Tịa án.
2.2.2. Giai đoạn từ Hiến pháp năm 1959 đến trước Hiến pháp năm 1980
Tương tự như Hiến pháp năm 1946, nội dung Hiến pháp năm 1959 chưa có quy
định về ngun tắc suy đốn vơ tội. Trong giai đoạn này, ngun tắc suy đốn vơ tội
được thể hiện trong nội dung của Thơng tư 16/TATC ngày 27/09/1974 của Tồ án nhân

dân tối cao hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự, cụ thể : “Việc xét hỏi tại
tịa nhằm mục đích trực tiếp và cơng khai thẩm tra lại các chứng cứ của vụ án. Do đó hội
đồng xét xử phải xét hỏi một cách khách quan, cần tránh tư tưởng coi nhẹ hồ sơ mà coi
nhẹ tác dụng của việc xét hỏi tại 2 phiên tòa hoặc xét hỏi nhằm buộc tội bị can phải nhận
những lời mà họ đã khai tại cơ quan điều tra.”
Hiến pháp năm 1959 đã mở rộng các quyền công dân đồng thời quy định các cơ
chế bảo đảm thực hiện các quyền đó, về ngun tắc suy đốn vơ tội, nội dung của nguyên
tắc này trong Thông tư 16/TATC được kế thừa các quy định của Thông tư số 2225/HCTP
ngày 24/10/1956 của Bộ Tư pháp trước đó về quyền bào chữa của bị can.
2.2.3. Giai đoạn từ Hiến pháp năm 1980 đến trước Hiến pháp năm 1992
Kế thừa và phát triển Hiến pháp năm 1946 và năm 1959 , Hiến pháp năm 1980
một mặt ghi nhận lại quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân quy định trong Hiến pháp
trước, mặt khác quy định thêm về quyền và nghĩa vụ mới phù hợp với tình hình phát triển
của đất nước trong giai đoạn mới. Trong đó, Hiến pháp năm 1980 chưa có quy định trực
tiếp về nguyên tắc suy đốn vơ tội nhưng đã thể hiện các tư tưởng tôn trọng, bảo vệ
quyền con người thông qua quy định tại Điều 55 và Điều 69 của Hiến pháp:
“Điều 55
Mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật.
Điều 69
Cơng dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể.
4


Khơng ai có thể bị bắt, nếu khơng có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc
phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân.
Việc bắt và giam giữ người phải theo đúng pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình.”
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1980, Bộ luật Tố tụng hình sự ( BLTTHS) năm 1988
đã ghi nhận nội dung ngun tắc suy đốn vơ tội như sau:
“Điều 10. Khơng ai có thể bị coi là có tội, nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực của

Tồ án.
Khơng ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt, khi chưa có bản án kết tội của
Tồ án đã có hiệu lực pháp luật.Bổ sung
Điều 11. Xác định sự thật của vụ án.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác
định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng
cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vơ tội, những tình tiết tăng nặng và những tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo.
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có
quyền nhưng khơng buộc phải chứng minh là mình vơ tội.”
Điều 10 BLTTHS năm 1988 khơng trực tiếp gọi tên ngun tắc suy đốn vơ tội
nhưng đã thể hiện nội dung của nguyên tắc này. Tuy nhiên trong BLTTHS năm 1988,
trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các coq quan tố tụng ( Điều 11) và coi đây là
nội dung của nguyên tắc xác định sự thật của vụ án chứ không phải là nội dung của
ngun tắc suy đốn vơ tội.
2.2.4. Giai đoạn từ Hiến pháp năm 1992 đến trước Hiến pháp năm 2013
Hiến pháp năm 1992 đã đưa ngun tắc suy đốn vơ tội từ một ngun tắc của tó
tụng hình sự thành một nguyên tắc hiến định với nội dung giữ nguyên quy định của
BLTTHS năm 1988. Tại Điều 72 Hiến pháp năm 1992 quy định:
“Điều 72
Khơng ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tồ án đã
có hiệu lực pháp luật.

5


Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt
hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ,
truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh.”
Thể chế hóa Hiến pháp năm 1992, BLTTHS năm 2003 về cơ bản vẫn giữ nguyên nội

dung nguyên tắc suy đốn vơ tội trong BLTTHS năm 1988:
“Điều 9. Khơng ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tồ án đã có hiệu lực
pháp luật
Khơng ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tồ án đã
có hiệu lực pháp luật.
Điều 10. Xác định sự thật của vụ án
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác
định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng
cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vơ tội, những tình tiết tăng nặng và những tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo
có quyền nhưng khơng buộc phải chứng minh là mình vô tội.”
Mặc dù cho đến giai đoạn này, nguyên tắc suy đốn vơ tội vẫn chưa được chính
thức đặt thành tên gọi của một điều luật nhưng những nội dung cơ bản và quan trọng của
nguyên tắc đã được ghi nhận như một nguyên tắc hiến định trong Hiến pháp năm 1992.
Việc quy định như vậy có ý nghĩa quan trọng trong việc sửa đổi, định hướng hoàn thiện
và cụ thể hóa các nội dung trong luật tố tụng hình sự trong các giai đoạn sau.
2.2.5. Giai đoạn từ Hiến pháp năm 2013 đến nay
Như đã đề cập trước đó, Hiến pháp năm 2013 đánh dấu một giai đoạn phát triển
mới của chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đối với
nguyên tắc suy đốn vơ tội, Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định như sau:
“Điều 31.
1.
Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng minh theo
trình tự luật định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật.”
Cùng với những tư tưởng mới về cách ghi nhận quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân, nội dung dung của ngun tắc suy đốn vơ tội đã được ghi nhận
một cách rõ ràng và cụ thể hơn tại Khoanr1 Điều 31, các Khoản 2,3,4 và 5 Điều 31 bổ
sung thêm vàm rõ ràng các quy định về của người bị buộc tội, quyền được bồi thường
6



thiệt hại Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái
pháp luật . Hiến pháp năm 2013 đánh dấu bước phát triển mới trong quy định về nguyên
tắc suy đoán vô tội. Các bản Hiến pháp và pháp luật Việt Nam trước đó quy định về
ngun tắc suy đốn vơ tội mới chỉ bao hàm một nội dung (dấu hiệu), đó là khơng ai bị
coi là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật. Hay nói cách khác, người
nào đó chỉ bị coi là có tội khi có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật. Như vậy, những
trường hợp bị kết án oan, phải chấp hành hình phạt, kể cả hình phạt tù thì cũng bị coi là
có tội vì đã có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật. Hiện nay, người bị coi là có tội phải
có đủ hai điều kiện: thứ nhất, việc phạm tội của người đó phải được chứng minh theo
đúng trình tự của pháp luật; thứ hai, phải có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp
luật đối với người đó. Như vậy, thiếu một trong hai điều kiện trên thì người bị buộc tội
vẫn được “coi” là chưa có tội. Với quy định này, pháp luật mở ra cơ hội cho người dù bị
kết án oan vẫn có thể được coi là người chưa có tội vì việc thực hiện hành vi phạm tội
chưa được chứng minh theo đúng trình tự luật định mà việc kết tội được thực hiện sai
pháp luật, trong đó có cả trường hợp mớm cung, ép cung, dùng nhục hình bị pháp luật
nghiêm cấm.
Quy định này của Hiến pháp năm 2013 được coi là phù hợp với tư tưởng về quyền con
người trong các văn bản pháp lí quốc tế như Tun ngơn tồn thế giới về nhân quyền
năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Có thể thấy
khơng chỉ nâng tâm suy đốn vơ tội từ một nguyên tắc TTHS thành một quyền hiến định
(như Hiến pháp năm 1992), Hiến pháp năm 2013 còn phát triển suy đốn vơ tội lên mức
cao nhất, khẳng định đó là một quyền con người đồng thời nhấn mạnh trách nhiệm của cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền được suy đoán vô
tội của người bị buộc tội
Hiến pháp buộc quyền tiến hành tố tụng khi thực hiện các hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử phải theo đúng trình tự luật định. Hiến pháp khẳng định rõ quyền được suy
đốn vơ tội để cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cả xã hội nhận thức và
ứng xử với người đang bị buộc tội một cách đúng đắn, khách quan, nhân văn: phải coi họ

là người khơng có tội và họ có quyền được đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp như
người khơng có tội trong suốt q trình điều tra, truy tố, xét xử. Vấn đề này có ý nghĩa rất
quan trọng trong thực tiễn hoạt động của các cơ quan tư pháp cũng như cụ thể hoá các
quy định của Hiến pháp.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy
định riêng về suy đốn vơ tội trong một điều luật - Điều 13 (ở Chương II - “Những
nguyên tắc cơ bản”) với đúng tên gọi “Suy đốn vơ tội”:
“Điều 13. Suy đốn vơ tội
7


Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự,
thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục
do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận
người bị buộc tội khơng có tội.”
Ngun tắc suy đốn vơ tội trong BLTTHS năm 2015 là một nguyên tắc đặc thù.
Theo đó, khi chưa được chứng minh theo trình tự, thủ tục do luật quy định, chưa có bản
án kết tội của tồ án đã có hiệu lực pháp luật thì người bị buộc tội phải được coi là người
khơng có tội. Do khơng được coi là người có tội nên các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng không được đối xử với người bị buộc tội như người có tội, kể cả trường hợp
họ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất như tạm giam. Vì vậy, BLTTHS
quy định chế độ tạm giữ, tạm giam khác với chế độ chấp hành án phạt tù.
Thực tiễn tố tụng đều thừa nhận không phải mọi người bị buộc tội đều là chủ thể
của tội phạm. Tuy nhiên, khi buộc tội một người phải có căn cứ theo quy định của pháp
luật. Mặt khác, BLTTHS quy định nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng. Khi chứng minh tội phạm, cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ làm rõ
chứng cử xác định có tội, chứng cứ xác định vơ tội, những tình tiết tăng nặng, tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm của người bị buộc tội. Trong giai đoạn điều tra nếu không chứng

minh được bị can đã thực hiện tội phạm mà thời hạn điều tra đã hết thì cơ quan điều tra
phải ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án. Trong giai đoạn xét xử nếu không đủ căn cứ để
xác định bị cáo có tội thì hội đồng xét xử ra bản án tun bố bị cáo khơng có tội. Thực
tiễn giải quyết vụ án hình sự cũng cho thấy khuynh hướng nhìn nhận người bị buộc tội
như là người có tội, dù lỗi của họ chưa được chứng minh. Trong tâm lí học, khuynh
hướng này được coi là khuynh hướng buộc tội, cịn trong khoa học pháp lí thì coi đó là
“suy đốn có tội”. Ngun nhân dẫn đến tình trạng oan, sai thường xuất phát từ khuynh
hướng này. Suy đốn vơ tội là một trong những ngun tắc điển hình của tố tụng tranh
tụng .
Điều 13 BLTTHS năm 2015 quy định nguyên tắc này với nội dung được thể hiện
cụ thể như sau:
Thứ nhất, người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi tội của họ được
chứng minh theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định và có bản án kết tội của tồ án đã
có hiệu lực pháp luật.
Thứ hai, khi khơng đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo
trình tự, thủ tục luật định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết
8


luận người bị buộc tội khơng có tội.Mọi nghi ngờ trong q trình tố tụng đều phải được
giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội
Bên cạnh nguyên tắc suy đốn vơ tội, pháp luật cũng quy định về quyền im lặng,
đây là một quyền liên quan tới quyền được suy đốn vơ tội. ”. BLTTHS năm 2015 đã
chính thức ghi nhận “người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra
lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”. BLTTHS hiện hành cho
phép người bị buộc tội có quyền lựa chọn khai báo hoặc không khai báo trước cơ quan
tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, nếu họ tự nguyện trình bày những tình tiết liên quan đến
hành vi phạm tội của bản thân hoặc tự nhận mình có tội thì cơ quan tiến hành tố tụng vẫn
ghi nhận lời khai đó. Bên cạnh đó, pháp luật hình sự của Việt Nam từ trước đến nay đều

quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng; các
cơ quan tiến hành tố tụng không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ
duy nhất để kết tội và chỉ được dùng làm chứng cứ khi nó phù hợp với những chứng cứ
khác của vụ án; người bị buộc tội không phải chịu trách nhiệm hình sự vì lý do khơng
khai báo, khơng khai báo cũng khơng bị coi là tình tiết làm tăng trách nhiệm hình sự,
ngược lại khai báo thành khẩn lại được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
PHẦN 2. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC SUY ĐỐN VƠ TỘI
Ngun tắc suy đốn vơ tội được Nhà nước ta cam kết thực hiện với sự kiện Việt
Nam gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 24/9/1982. Tuy
nhiên, tương như việc ghi nhận các quyền con người nói chung, quyền con người trong
lĩnh vực tư pháp nói riêng, để ngun tắc suy đốn vơ tội thực sự được phát huy giá trị,
đảm bảo tốt nhất hiệu quả thực thi cũng như hạn chế tối đa việc bỏ lọt tội phạm thì quá
trình áp dụng nguyên tắc này cần đảm bảo các điều kiện:
Thứ nhất, điều kiện thống nhất về chính trị, chủ trương, đường lối của Đảng:
Bảo đảm và thúc đẩy quyền con người là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Trong Nghị quyết số 49-NQ/TW năm 2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu ra các nhiệm vụ :
“Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Coi trọng việc hồn thiện
chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phịng ngừa và tính
hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội
Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm
của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính cơng

9


khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử,
coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.”
Gần đây, Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước

pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới cũng đã đưa nhiệm vụ cải cách tư pháp
là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền, trong đó các nhiệm vụ liên quan đến ngun tắc suy đốn vơ tội thơng qua nhấn
mạnh việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân:
“ Hồn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, quyền cơng dân. Hồn thiện cơ chế phịng ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi
hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư pháp; bảo đảm tính độc lập của tòa án
theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá; bảo
đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền, hiện đại, nghiêm minh,
dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân”
Với vai trò là một văn bản chứa đựng những chủ trương, đường lối, định hướng
cho sự phát triển của đất nước, ngun tắc suy đốn vơ tội khơng được trực tiếp được
nhắc đến nhưng Đảng và Nhà nước luôn đề cao, quán triệt sâu sắc những nội dung liên
quan đến bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong giai đoạn mới. Đây là một
điều kiện quan trọng để đảm bảo ngun tắc suy đốn vơ tội, là cơ sở để các chủ thể liên
quan áp dụng một cách ngiêm túc, triệt để, tuân thủ pháp luật khi tham gia vào quá trình
tố tụng hình sự.
Thứ hai, điều kiện đầy đủ về kinh tế- xã hội và cơ sở vật chất: Tương tự như
việc đảm bảo các nguyên tắc tố tụng khác, điều kiện để bảo đảm nguyên tắc suy đoán vơ
tội đó là bảo đảm một nền pháp độc lập, trong đó sự độc lập về kinh phí hoạt động của hệ
thống tư pháp là một yếu tố góp phần hạn chế sự phụ thuộc vào các cơ quan nhà nước,
chịu sự tác động từ các chủ thể liên quan trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
Trong giai đoạn hiện nay, cải cách tư pháp được Đảng, Nhà nước ngày một quan
tâm. Tuy nhiên muốn cải cách tư pháp một cách tồn diện và triệt để thì vấn đề đảm bảo
các điều kiện về ngân sách và cơ sở vật chất cũng đặt ra gánh nặng cho quá trình này.
Hoạt động tố tụng nói chung ở Việt Nam trong những năm gần đây xuất hiện khơng ít
các hành vi tiêu cực, tham nhũng, vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp. Đây những
hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức và quy tắc xử sự trong hoạt động tư pháp, do người
có thẩm quyền hoặc có liên quan đến hoạt động tư pháp thực hiện trong quá trình thực thi

các hoạt động tư pháp đã cố ý hoặc vô ý xâm hại đến hoạt động đúng đắn của các cơ
10


quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án, xâm phạm đến quyền con người và xâm hại
đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức, xã hội.
Để thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội, thì rất nhiều nội dung cần có những điều
kiện kinh tế để thực hiện, ví dụ như đảm bảo chống bức cung, nhục hình, minh bạch
trong quá trình hỏi cung thì việc ghi âm, ghi hình hoạt động hỏi cung là cần thiết, để vừa
bảo đảm minh bạch quá trình hỏi cung, vừa bảo vệ bị can, chống bức cung, dùng nhục
hình, bảo vệ người hỏi cung tránh bị vu cáo. Để thực hiện những nội dung này thì bảo
đảm về vật chất mang ý nghĩa quyết định. Vì vậy, các điều kiện về kinh tế - xã hội là một
bảo đảm cần thiết và quan trọng trong việc thực hiện ngun tắc suy đốn vơ tội.
Thứ ba, điều kiện về nhận thức pháp luật của các chủ thể có liên quan trong
hoạt động tố tụng và vai trò của cơ quan tư pháp:
Trước hết cần đảm bảo tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để
mọi công dân đều hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình, đặc biệt đối với người bị buộc tội
hiểu rõ về ngun tắc suy đốn vơ tội để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích chính đáng cho
chính bản thân người bị buộc tội đó. Trên cơ sở đó cần có sự thống nhất về nhận thức
một cách tồn diện, chính xác về nội dung và tầm quan trọng của ngun tắc suy đốn vơ
tội đối với hoạt động bào chữa của luật sư, cũng như đối với những người tiến hành tố
tụng trong vụ án hình sự. Theo đó, người bị buộc tội ln ln có quyền được suy đốn
vơ tội và họ khơng phải là người có tội khi chưa có bản án kết tội của tịa án có hiệu lực
pháp luật. Theo đó, nhiệm vụ tố tụng hình sự là phải được thực hiện trên cơ sở đảm bảo
quyền con người, quyền được suy đoán vơ tội đối với người bị buộc tội.
Bên cạnh đó bản thân các thẩm phán, kiêm sát viên, luật sư phải khơng ngừng học hỏi để
nâng cao trình độ nghiệp vụ, nắm vững các quy định của pháp luật hình sự, đúc rút kinh
nghiệm trong thực tiễn xét xử, rèn luyện kỹ năng viết, kỹ năng nói; thưởng xuyên rẻn
luyện bản lĩnh, đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, nêu cao tinh thần bảo vệ công lý, thượng
tôn pháp luật, thận trọng và tỉ mỉ trong giải quyết vụ án.

Ngoài ra, điều kiện quan trọng để thực hiện nguyên tắc suy đốn vơ tội là xác định
vai trị quan trọng của hệ thống cơ quan tư pháp trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Trong đó,
sự độc lập của Tịa án được xác định là một điều kiện đặc biệt quan trọng để thực hiện
nguyên tắc. Bởi, với vai trò của mình, Tịa án là cơ quan xét xử, là cơ quan duy nhất có
thẩm quyền ra bản án tuyên bố một người có tội hay vơ tội, tồn bộ các giai đoạn tố tụng
trước đó đều hướng đến một kết luận cuối cùng của Tòa án thể hiện bằng bản án. Vì vậy,
sự độc lập của Tịa án đảm bảo phán xử cơng bằng. Sự độc lập của Tịa án là một bảo
đảm để thúc đẩy, bảo vệ quyền của người bị buộc tội được suy đốn vơ tội trước khi có

11


bản án kết tội của tịa án có hiệu lực pháp luật, yêu cầu xem xét lại bản án; quyền bào
chữa của bị can, bị cáo.... bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp.
Thứ tư bảo đảm hoàn thiện pháp luật
Hiện nay nhiều chuyên gia, nhà làm luật có nhiều quan điểm về việc sửa đổi quy
định về ngun tắc suy đốn vơ tội tại Điều 13 BLTTHS năm 2015. Trên cơ sở các
nguyên tắc của Hiến pháp và chuẩn mực quốc tế về quyền con người, có thể đưa ra quy
định về ngun tắc suy đốn vơ tội như sau: Người bị buộc tội được suy đoán vô tội trong
khi tội phạm do họ thực hiện chưa được chứng minh theo quy định của pháp luật và chưa
được kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Quy định này khắc phục
được hạn chế của quy định hiện hành ở chỗ: Thứ nhất, người bị buộc tội được “coi” là vô
tội… là chưa rõ, chưa chính xác. Bởi lẽ, chữ “coi” khơng được nhìn nhận như một ngơn
ngữ luật học. Hơn nữa, người ta có thể và có quyền “coi” việc này là đúng hay không
đúng theo cảm nhận riêng của mỗi người. Do vậy, quy định: người bị buộc tội được “suy
đốn vơ tội”… là phù hợp, đúng với tên gọi của điều luật là “suy đốn vơ tội”, chứ khơng
phải “coi” là vô tội. Thứ hai, pháp luật quy định: người bị buộc tội được coi là vô tội cho
đến khi bị kết tội là không phù hợp về nội dung cốt lõi mà điều luật cần quy định. Bởi vì,
quy định này cần dứt khốt khẳng định trạng thái vơ tội; khơng thể vừa vơ tội, vừa có tội.
Theo đó, cần quy định: người bị buộc tội được suy đốn vơ tội khi tội phạm chưa được

chứng minh theo trình tự luật định là phù hợp với logic, với trạng thái vẫn vô tội. Một
điều hiển nhiên là, chưa chứng minh được tội phạm có nghĩa là chưa có tội. Còn đến khi
tội phạm được chứng minh và kết tội thì lúc đó là có tội. Ở đây cần thể hiện đúng trạng
thái chưa có tội chứ khơng phải là trạng thái có tội .
Ngồi ra, để bảo đảm quyền bào chữa của luật sự cũng như đảm bảo ngun tắc
suy đốn vơ tội, cần phải ban hành văn bản hướng dẫn, quy định rõ về việc: Các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khi tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ
chứng minh, phải lắng nghe, tôn trọng cũng như tạo điều kiện đối với luật sư bào chữa
cho bị cáo. Chỉ ngắt hoặc yêu cầu luật sư dừng việc hỏi khi những câu hỏi có vi phạm
pháp luật hoặc trái với đạo đức xã hội. Đối với những lập luận và nội dung luật sư nêu ra
mà VKS không đối đáp, không trả lời thì HĐXX cần tơn trọng và ủng hộ quan điểm, ý
kiến của luật sư bào chữa tại phiên tòa

12




13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam /Trường Đại học Luật Hà Nội ; Hoàng Thị
Minh Sơn chủ biên ; Phan Thị Thanh Mai , NXB Công an nhân dân, năm 2022, tr46-47
2. Tiến sĩ, Luật sư Ngô Ngọc Diễm - Đỗ Thị Hà, Bàn về ngun tắc suy đốn vơ tội trong
tố tụng hình sự Việt Nam, />3. Phí Thành Chung, TAND Cấp cao tại Hà Nội, Yêu cầu thực hiện ngun tắc suy đốn
vơ tội trong giai đoạn xét xử, Tạp chí Tịa án điện tử, Tháng 8/2018,
/>4. Trần Thái Dương, Quyền được suy đốn vơ tội theo Hiến pháp và vấn đề bảo đảm
thực thi ở Việt Nam hiện nay, Luật học.Trường Đại học Luật Hà Nội,Số 3/2017, tr. 3 -9
5. PGS.TS Hồng, Hùng Hải, Suy đốn vơ tội và kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp

luật về ngun tắc suy đốn vơ tội, Nghiên cứu lập pháp.Viện Nghiên cứu lập pháp,2018.
- Số 23, tr. 11-15.
6. Bùi Tiến Đạt (2015), Quyền giả định vô tội và quyền im lặng: Lý thuyết và thách thức
từ thực tiễn, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 22 (302), tr. 4
7. Mai Đắc Biên, Quách Đình Lực, Thực tiễn bảo đảm nguyên tắc suy đốn vơ tội trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ góc nhìn của Kiểm sát viên, Nghề Luật, Học
viện Tư pháp,2020. - Số 9, tr. 42-47, 56.



×