PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BA TRI
TRƯỜNG THCS BẢO THẠNH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài :
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SOẠN GIẢNG
MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
Đề tài thuộc lĩnh vực chuyên môn: Lịch sử
Họ và tên người thực hiện: Phan Thanh Sơn
Chức vụ: Tổ trưởng
Sinh hoạt tổ chuyên môn: Sử-Địa-GDCD-Nhạc-Mỹ thuật
Ba Tri, tháng 02/2010
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Bối cảnh của đề tài:
Năm học 2009–2010 là năm học “Đổi mới quản lí và nâng cao chất lượng giáo
dục”. Cùng với toàn ngành, trường THCS Bảo Thạnh ra sức đẩy mạnh cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh”, cuộc vận động
“Hai không” với bốn nội dung và cuộc vận động “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm
gương về đạo đức, tự học và sáng tạo” để không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục
nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội và sự nghiệp cơng nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước.
II. Lý do chọn đề tài:
Trong thời gian qua, kết quả giảng dạy và học tập môn Lịch sử không ngừng
được nâng cao và ngày càng chứng tỏ không thể thiếu được trong việc giáo dục và
hình thành nhân cách thế hệ trẻ. Tuy nhiên, những kết quả đó vẫn cịn thấp so với yêu
cầu của tình hình mới. Việc nghiên cứu đề tài nầy, tôi muốn san sẻ với các bạn đồng
nghiệp một số kinh nghiệm trong việc soạn giảng bộ môn Lịch sử ở trường Trung học
cơ sở.
III. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
Nội dung đề tài trình bày một số kinh nghiệm của bản thân có liên quan đến
quá trình soạn bài và tiến hành hoạt động dạy học trên lớp. Đề tài được nghiên cứu và
thực hiện ở học sinh lớp 9 trong trường THCS Bảo Thạnh, năm học 2009–2010.
IV. Mục đích của đề tài:
Nâng cao hiệu quả hoạt động dạy học là mục tiêu phấn đấu của tồn Ngành
giáo dục, của các bộ mơn giảng dạy trong nhà trường. Được sự quan tâm của các cấp
lãnh đạo và sự hỗ trợ của quý đồng nghiệp, bản thân đã nghiên cứu thực hiện đề tài
nầy với mục đích góp phần nâng cao hiệu quả dạy học mơn Lịch sử ở trường Trung
học cơ sở.
V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu:
- Về phía giáo viên: có nhận thức sâu sắc hơn về công tác soạn giảng và đổi
mới phương pháp.
- Về phía học sinh: giúp các em ngày càng u thích bộ mơn và có phương
pháp học tập tích cực, sáng tạo hơn.
PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận:
Quan điểm đổi mới phương pháp dạy học hiện nay đã được Nghị quyết của
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai, khoá 8 chỉ rõ: “Đổi mới mạnh
mẽ phương pháp giáo dục – đào tạo, khắc phục lối truyền thụ kiến thức một chiều,
rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo người học ...”. Như vậy, việc đổi mới phương
pháp dạy học là nhằm từng bước phát huy tính tích cực của học sinh trên tất cả các
khâu của quá trình dạy học.
II. Thực trạng vấn đề:
Hiện nay, cơng việc soạn giảng của giáo viên còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế
như: Việc trình bày kiến thức của giáo viên trong soạn giảng còn dàn trải theo nội
dung sách giáo khoa, chưa đảm bảo tính hệ thống và tính trọng tâm của bài học; việc
kết hợp các phương pháp trong q trình dạy học cịn nhiều lúng túng, chưa nhịp
nhàng, linh hoạt; sử dụng các phương tiện, thiết bị dạy học chưa thật hợp lý, khai thác
chưa triệt để và hiệu quả các loại đồ dùng trực quan; trình bày bảng chưa thật khoa
học, còn chưa linh hoạt trong quá trình lên lớp.
Về phía học sinh, nhìn chung đa số các em hiểu biết về lịch sử còn hạn chế,
kiến thức còn chưa vững chắc, kỹ năng thực hành bộ môn chưa cao. Kết quả khảo sát
đầu năm của học sinh khối lớp 9 ở Trường THCS Bảo Thạnh còn thấp. Cụ thể:
Chất lượng bộ mơn
Chất lượng đầu năm
Giỏi
30,1%
Khá
41,8%
Trung bình
23,1%
Yếu
5,0%
III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
Công việc soạn giảng của người thầy được thực hiện cụ thể qua hai cơng đoạn
là q trình nhận thức và truyền thụ tri thức.
1/ Quá trình nhận thức:
Quá trình nhận thức là công đoạn đầu tiên của hoạt động dạy học, đây là công
đoạn chuẩn bị và thiết kế bài học. Để việc chuẩn bị và thiết kế bài học tốt, người giáo
viên cần phải lưu ý các điểm sau:
1.1/ Làm chủ tri thức:
Người thầy làm chủ tri thức tức là phải có kiến thức, có hiểu biết sâu rộng và
phải luôn cập nhật với những thông tin mới. Làm chủ tri thức còn thể hiện việc người
thầy biết chủ động lựa chọn những kiến thức cần truyền thụ cho học sinh, biết khắc
sâu những nội dung cơ bản và mạnh dạn lược bớt những nội dung học sinh có thể tự
lực tìm hiểu.
1.2/ Tham khảo tài liệu:
Sách giáo khoa là tài liệu viết cho học sinh và cũng là cơ sở để giáo viên chuẩn
bị bài giảng. Song đối với giáo viên, sách giáo khoa không phải là tài liệu duy nhất.
Sự hiểu biết sâu sắc tri thức đòi hỏi người giáo viên phải bổ sung thêm nhiều loại tài
liệu tham khảo.
1.3/ Chuẩn bị phương tiện trực quan:
Cùng với việc sử dụng bài viết trong sách giáo khoa và tài liệu tham khảo, giáo
viên còn phải quan tâm đặc biệt đến việc sử dụng phương tiện trực quan. Do đặc
điểm của môn học Lịch sử là khơng thể tái hiện lại sự kiện lịch sử, vì vậy lời nói của
giáo viên khơng đem lại cho học sinh hình ảnh thật cụ thể, chính xác được. Hiện nay,
sử dụng phương tiện trực quan không dừng lại ở việc minh họa cho bài giảng mà nó
cịn là nguồn kiến thức để học sinh khai thác, giúp các em nhớ kỷ, hiểu sâu kiến thức,
phát triển khả năng quan sát, tư duy và xúc cảm thẩm mỹ. Hiện nay, kênh hình trong
sách giáo khoa và phương tiện trực quan do nhà nước cấp đã khá phong phú nhưng
thực tế vẫn cịn ít, nhiều bài rất cần có hình ảnh thì lại khơng có. Vì vậy trong q
trình chuẩn bị, giáo viên cần phải sưu tầm, sáng tạo thêm đồ dùng dạy học nhằm tăng
tính hình ảnh, tính cụ thể của kiến thức truyền thụ cho học sinh.
1.4/ Thiết kế bài học:
Thiết kế bài học là một khâu quan trọng của quá trình nhận thức. Trong quá
trình thiết kế, giáo viên cần nghiên cứu kỷ mục tiêu, xác định rõ kiến thức cơ bản và
trọng tâm của bài học. Khi đã có cái nhìn khái qt, cần đi sâu vào từng mục nhằm
xác định những sự kiện cơ bản của mục đó và sự liên quan của kiến thức đó với kiến
thức cơ bản của toàn bài. Mỗi bài cần dành thời gian hợp lý cho từng mục, phải xác
định phần nào đi lướt, phần nào trọng tâm. Mặt khác, cần đặt bài giảng trong mối liên
hệ với những bài trước đó và sau đó. Điều nầy giúp giáo viên giảng dạy lịch sử đảm
bảo tính hệ thống và lơgíc. Trong q trình soạn bài, giáo viên khơng nên liệt kê lại
sự kiện sách giáo khoa mà cần xác định rõ một số đơn vị kiến thức cơ bản rồi xác
định phương pháp làm nổi bật kiến thức đó. Cần tránh việc lập lại nguyên si sách
giáo khoa, điều đó sẽ làm cho học sinh khơng hứng thú học tập. Giáo viên cũng
khơng nên thốt ly hồn tồn sách giáo khoa vì sách giáo khoa là tài liệu cơ bản mà
học sinh phải làm việc để nắm vững nội dung.
2/ Truyền đạt tri thức:
Nếu như quá trình nhận thức có vai trị hết sức quan trọng thì thành cơng của
hoạt động dạy học lại phụ thuộc rất nhiều ở giai đoạn tổ chức của người thầy. Trong
quá trình lên lớp, học sinh vừa nghe giảng, vừa ghi chép, vừa theo dõi sách giáo
khoa. Tính tích cực học tập của học sinh phải được biểu hiện ở cả ba mặt đó. Tính
tích cực của học sinh cịn được biểu hiện qua nét mặt, ánh mắt, các thao tác của
những giác quan. Bằng sự nhạy cảm qua quan sát lớp học, người thầy có thể điều
chỉnh phương pháp, thao tác sư phạm cho phù hợp.
Mỗi môn học đều có hệ thống phương pháp đặc trưng để truyền thụ tri thức
cho học sinh. Có người cho rằng trong một tiết học người giáo viên nêu ra thật nhiều
câu hỏi cho học sinh trả lời là đã phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh.
Nếu như vậy thì đã phủ nhận các phương pháp đặc trưng của môn Lịch sử. Trong một
tiết dạy không thể sử dụng một hay vài phương pháp nhất định hoặc chọn một
phương pháp nào đó cho rằng là tối ưu. Để thực hiện thành công một tiết dạy, tùy
theo nội dung cụ thể của từng bài mà người giáo viên xác định và thực hiện kết hợp
một số phương pháp phù hợp.
Sau đây là một số phương pháp thường được sử dụng trong quá trình soạn
giảng:
2.1/ Sử dụng sách giáo khoa:
Sử dụng sách giáo khoa là một trong những phương pháp dạy học đặc trưng
của bộ mơn Lịch sử. Trong q trình soạn giảng vẫn còn một số trường hợp sử dụng
sách giáo khoa chưa hợp lý. Có trường hợp giáo viên quá lạm dụng việc cho học sinh
đọc sách giáo khoa, có trường hợp giáo viên cho học sinh đọc sách giáo khoa nhưng
chỉ mang tính hình thức mà khơng có chủ ý rõ ràng, khơng có u cầu cụ thể.
Thơng thường với những kiến thức tương đối ít phức tạp, khơng địi hỏi phải
giải thích hay phân tích nhiều thì giáo viên có thể cho học sinh đọc sách giáo khoa.
Chẳng hạn, đó là những kiến thức về tiểu sử một nhân vật; về tương quan lực lượng
giữa hai phía trong một trận đánh, một cuộc khởi nghĩa; về kết quả một chiến dịch; về
đặc điểm điều kiện tự nhiên, địa hình một khu vực; hoặc một đoạn trích trong tư liệu
gốc .., đồng thời đi kèm với việc đọc sách giáo khoa là những yêu cầu cụ thể phù hợp
với nội dung bài học và đối tượng học sinh. Ví dụ: Khi dạy về chương trình khai thác
lần thứ hai của thực dân Pháp ở Việt Nam trong bài “Việt Nam sau Chiến tranh thế
giới thứ nhất” (SGK – Lịch sử 9), giáo viên có thể cho học sinh đọc đoạn in nhỏ
trong sách giáo khoa về chính sách khai thác trên lĩnh vực nơng nghiệp và khai mỏ,
sau đó nêu u cầu: Em có nhận xét gì về chính sách khai thác của thực dân Pháp
trên lĩnh vực nông nghiệp và khai mỏ? Vì sao Pháp đầu tư vốn nhiều nhất vào đồn
điền cao su và khai thác than? Qua nội dung sách giáo khoa, các em sẽ nhận xét
được sự tăng cường đầu tư vốn rất lớn vào nông nghiệp và khai mỏ, vì đây là hai mặt
hàng mà thị trường Pháp và thế giới có nhu cầu lớn. Hay khi dạy về cuộc tấn công
của quân Mỹ, quân đồng minh và qn đội Sài Gịn vào thơn Vạn Tường (Quảng
Ngãi) trong bài “Cả nước trực tiếp chống Mỹ, cứu nước (1965–1973)” (SGK – Lịch
sử 9), giáo viên có thể cho học sinh đọc sách giáo khoa về lực lượng quân địch và
cuộc chiến đấu của ta, sau đó nêu yêu cầu: Em có nhận xét gì về lực lượng qn địch
và tinh thần chiến đấu của quân ta? Thắng lợi Vạn Tường có ý nghĩa như thế nào?
Qua nội dung sách giáo khoa, các em thấy được địch huy động một lực lượng quân
đội rất lớn, được trang bị hiện đại và đánh theo kiểu hiện đại vào thôn nhỏ Vạn
Tường để thí điểm cuộc hành qn “tìm diệt” trong chiến lược “Chiến tranh cục bộ”.
Lần đầu tiên quân dân ta trực tiếp đối đầu với quân đội Mỹ là một khó khăn, thử
thách vơ cùng to lớn. Thắng lợi Vạn Tường đã chứng tỏ ta hồn tồn có khả năng
đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ.
Ưu điểm của phương pháp nầy là có thể sử dụng được đối với mọi đối tượng
học sinh, kể cả học sinh yếu, học sinh rụt rè ít phát biểu trong lớp. Ngồi ra, giáo viên
cũng có thể sử dụng sách giáo khoa bằng cách cho học sinh tự nghiên cứu một đoạn
nào đó rồi đặt vấn đề để các em trao đổi. Ví dụ: Khi dạy về cuộc chiến tranh phá hoại
miền Bắc lần thứ nhất của Mỹ trong bài “Cả nước trực tiếp chống Mỹ, cứu nước
(1965–1973)” (SGK – Lịch sử 9), sách giáo khoa đã trình bày khá rõ ràng, giáo viên
có thể cho các em tự nghiên cứu và u cầu: Em có nhận xét gì qua các mục tiêu ném
bom của Mỹ?
2.2/ Sử dụng đồ dùng trực quan:
Đồ dùng trực quan là những hiện vật, bản đồ, tranh ảnh lịch sử ... do nhà nước
cấp, kênh hình trong sách giáo khoa và kể cả những đồ dùng trực quan quy ước.
Trong dạy học lịch sử, nếu đồ dùng trực quan được sử dụng tốt sẽ huy động được
nhiều giác quan của học sinh tham gia, kết hợp tai nghe, mắt thấy, tạo điều kiện cho
các em dễ hiểu, nhớ lâu, phát triển năng lực quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn
ngữ. Tuy nhiên, nếu quá lạm dụng hay sử dụng đồ dùng trực quan không đúng lúc sẽ
làm phân tán sự chú ý của học sinh.
2.2.1/ Bản đồ:
Hầu như mỗi bài học lịch sử đều có bản đồ riêng phù hợp với nội dung kiến
thức của bài đó. Có bài sử dụng bản đồ để xác định ranh giới lãnh thổ, các đơn vị
hành chính; có bài sử dụng bản đồ để xác định sự ra đời của các quốc gia, các địa
điểm, các địa danh lịch sử; có bài sử dụng bản đồ để trình bày diễn biến một cuộc
khởi nghĩa... Trước khi sử dụng giáo viên cần nắm chắc nội dung, lựa chọn cách sử
dụng phù hợp với từng loại bài và với đối tượng học sinh của từng khối lớp nhằm
mục đích phát huy được tác dụng của bản đồ, tạo nên hình ảnh cụ thể, sinh động thu
hút sự chú ý của học sinh vào hoạt động nhận thức, đồng thời thơng qua đó rèn luyện
cho các em kỹ năng sử dụng, kỹ năng quan sát, phân tích, so sánh ... Bản đồ thường
được sử dụng kết hợp với miêu tả, tường thuật. Trong quá trình tường thuật, giáo viên
cần kết hợp đặt câu hỏi để học sinh quan sát và trả lời. Ví dụ: Khi sử dụng bản đồ
Chiến dịch Biên giới thu – đông 1950 (SGK – Lịch sử 9), giáo viên có thể tường
thuật diễn biến chiến dịch Biên giới. Trong quá trình tường thuật, giáo viên kết hợp
đặt câu hỏi: Vì sao ta chọn Đơng Khê để tấn cơng? Mất Đơng Khê tình hình địch trên
Đường số 4 như thế nào? Qua theo dõi bài học, quan sát bản đồ học sinh rút ra được
Đơng Khê có một vị trí chiến lược quan trọng trên Đường số 4. Chiến thắng Đơng
Khê đã cắt đơi phịng tuyến của địch, uy hiếp Thất Khê, cô lập Cao Bằng. Hệ thống
phịng ngự trên Đường số 4 bị lung lay.
Cũng có thể tùy theo nội dung kiến thức của bài và năng lực học tập của học
sinh, giáo viên có thể tổ chức cho các em tự trình bày hiểu biết của mình trên bản đồ
qua sự chuẩn bị trước. Ví dụ: Khi sử dụng bản đồ chiến dịch Việt Bắc thu – đông
1947 (SGK – Lịch sử 9), trên cơ sở giao bài tập chuẩn bị trước ở nhà, giáo viên có thể
sử dụng bản đồ và tổ chức cho học sinh tự trình bày các mũi tiến quân của Pháp. Qua
đó, giáo viên có thể đặt câu hỏi: Em có nhận xét gì về kế hoạch tiến quân của địch?
Qua việc trình bày ba mũi tiến quân của Pháp, các em thấy được kế hoạch tiến quân
nhằm tạo thế gọng kìm bao vây Căn cứ Việt Bắc. Hay khi sử dụng lược đồ phong
trào “Đồng khởi” năm 1960 (SGK – Lịch sử 9), giáo viên có thể yêu cầu học sinh xác
định các địa phương diễn ra các trận đánh và phong trào nổi dậy của quần chúng, từ
đó có thể nêu u cầu: Em có nhận xét gì về phong trào đấu tranh của nhân dân ta
trong những năm 1959–1960?
Với cách sử dụng nêu trên, chúng ta đã kết hợp được nhiều phương pháp khi
sử dụng bản đồ, vừa tạo được biểu tượng lịch sử cho học sinh, vừa có tác dụng củng
cố kiến thức mà các em vừa tiếp nhận đồng thời rèn kỹ năng và phát triển tư duy cho
học sinh.
Những năm gần đây giáo viên thường sử dụng lược đồ trống thay cho bản đồ
trong dạy học lịch sử.Với cách sử dụng nầy giáo viên cần phải kết hợp nhiều thao tác:
điền ký hiệu, tường thuật, miêu tả, tổ chức học sinh hoạt động ... Ưu điểm của cách
sử dụng nầy là ngoài việc rèn luyện kỹ năng sử dụng bản đồ cho học sinh, giáo viên
còn phát triển ở các em về tư duy thẩm mỹ, tính chính xác và sự hứng thú trong học
tập.
2.2.2/ Tranh ảnh:
Tranh ảnh là một phương tiện trực quan tạo hình có tác dụng rất lớn trong dạy
học lịch sử. Bản thân tranh ảnh không thể gây ra sự quan sát tích cực của học sinh
nếu như nó khơng được quan sát trong những tình huống có vấn đề. Khi sử dụng
tranh ảnh giáo viên thường kết hợp với miêu tả, kể chuyện, giải thích và phát vấn. Có
tranh ảnh qua quan sát tự các em nói lên được suy nghĩ về nhận thức của mình nhưng
cũng có tranh ảnh giáo viên cần phải miêu tả để hướng dẫn học sinh quan sát. Ví dụ:
Khi sử dụng tranh “Cuộc biểu tình địi ly khai và độc lập ở Lít-va” trong Bài 2 (SGK
– Lịch sử 9), giáo viên có thể cho học sinh quan sát tranh và nêu vấn đề: Qua hình
ảnh trong tranh nói lên tình trạng gì diễn ra ở Liên Xơ? Từ quan sát các em có thể rút
ra được tình trạng mâu thuẩn sắc tộc, tơn giáo diễn ra gay gắt ở Liên bang Xô viết.
Hay khi sử dụng tranh “Cử tri Sài Gòn bỏ phiếu bầu Quốc hội khóa I” trong Bài 24
(SGK – Lịch sử 9), giáo viên có thể yêu cầu học sinh: Em hãy mô tả nội dung tranh,
từ đó so sánh sự khác nhau trong việc tổ chức xây dựng chế độ mới sau khi Cách
mạng tháng Tám thành cơng so với thời kì phong kiến và thực dân?
2.2.3/ Đồ dùng trực quan quy ước:
Đồ dùng trực quan quy ước như sơ đồ, biểu đồ, bảng so sánh, bảng niên biểu...
là sự cụ thể hóa kiến thức sách giáo khoa có tác dụng giúp học sinh dễ dàng lĩnh hội,
khắc sâu kiến thức cũng như rèn kỹ năng quan sát và phát triển khả năng tư duy trừu
tượng ở các em. Bên cạnh đó, sử dụng đồ dùng trực quan quy ước còn làm cho giờ
học thêm sinh động, tạo được sự hứng thú cho học sinh trong học tập. Ví dụ: Khi dạy
về hồn cảnh của Liên Xô tiến hành công cuộc khôi phục kinh tế sau Chiến tranh thế
giới thứ hai trong Bài 1 (SGK - Lịch sử 9), giáo viên có thể sử dụng bảng thống kê sự
thiệt hại của các nước sau chiến tranh:a các nước sau chiến tranh:c sau chiến tranh:n tranh:
Tên nước
Tổng số người chết
Tỉ lệ % so với dân số 1939
Liên Xô
27 000 000
16,2
Đức
5 600 000
7
Nhật
2 200 000
3
Pháp
630 000
1,5
I-ta-li-a
480 000
1.2
Anh
382 000
1
Mỹ
300 000
0.3
Sau đó đặt yêu cầu cho học sinh: Qua bảng thống kê, theo em Liên Xô tiến
hành công cuộc khôi phục kinh tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai trong hoàn cảnh
nào? Qua quan sát các số liệu trên bảng thống kê giữa các nước thắng trận và bại trận
các em rút ra được Liên Xô tiến hành khơi phục kinh tế trong hồn cảnh cực kỳ khó
khăn.
2.3/ Sử dụng kiến thức liên mơn:
Tri thức lịch sử có liên quan đến hệ thống tri thức của các môn khoa học xã
hội. Việc làm chủ tri thức lịch sử cịn hàm chứa sự hiểu biết, sự tích lũy tri thức của
các bộ mơn khoa học liên quan. Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh về phong trào Bình
dân học vụ chống “giặc dốt” của nước ta sau Cách mạng tháng Tám (SGK – Lịch sử
9), để tạo cho học sinh có được biểu tượng sinh động về lớp bình dân học vụ, về tinh
thần của nhân dân ta hưởng ứng chủ trương của Đảng và Chính phủ, giáo viên có thể
trích đọc một đoạn trong bài thơ “Trường tơi” của nhà thơ Tố Hữu, sáng tác năm
1946:
“Trường tơi kiểu cách gì đâu?
Khơng ham ngói đỏ, khơng cầu tường vơi
Nhà tranh vách đất đủ rồi
Đình quang điếm chật được ngồi là hay! ...”
Hay để tạo biểu tượng về tội ác của Mỹ – Diệm, giáo viên có thể trích đọc một
đoạn trong bài thơ “Lá thư Bến Tre” của nhà thơ Tố Hữu, sáng tác tháng 7/ 1962:
“ ... Có những ơng già nó khảo tra
Khơng khai nó chém giữa sân nhà
Có chị gần sinh khơng chịu nhục
Lấy vồ nó đập, vọt thai ra ...”
Điều cần lưu ý khi sử dụng kiến thức liên môn là không được quá lạm dụng,
bởi vì nếu lạm dụng sẽ làm lỗng nội dung, thậm chí phản tác dụng. Cần phải chọn
lọc thật phù hợp, trích lược phải thật cơ đọng, ngắn gọn, có tác dụng thiết thực để bổ
sung cho bài học.
2.4/ Sử dụng ngôn ngữ:
Chúng ta đều biết ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp, là công cụ thông tin.
Trong dạy học, lời nói đóng vai trị rất quan trọng, bởi vì khơng có một phương pháp
dạy học nào, một phương tiện dạy học nào được sử dụng mà khơng kèm theo sự diễn
đạt bằng lời nói, nhất là đối với phương pháp tường thuật, miêu tả, thông báo, kể
chuyện ... Vì vậy u cầu khi sử dụng ngơn ngữ phải đảm bảo tính khoa học, chính
xác, diễn đạt rõ ràng, trong sáng, dễ hiểu ... Điều đó khơng chỉ giúp giáo viên truyền
thụ kiến thức được dễ dàng mà còn giúp học sinh nắm vững và khắc sâu kiến thức
đồng thời tác động đến tâm tư, tình cảm của các em. Hiện tượng nói lắp, nói quá
nhanh, nói có nhiều thổ ngữ, nói ngắt quảng rời rạc, nói thừa nhiều liên từ khơng cần
thiết, nói khơng ngữ điệu... sẽ hạn chế rất nhiều đến hiệu quả giáo dục và giáo dưỡng
của bộ môn. Như vậy trong dạy học, ngôn ngữ diễn đạt của giáo viên được sử dụng
như một phương pháp dạy học. Do đó địi hỏi người giáo viên phải ln rèn luyện để
có vốn từ phong phú và đa dạng.
2.5/ Trình bày bảng:
Trong dạy học, bảng đen được xem là một phương tiện dạy học. Việc trình bày
bảng vừa là phương pháp, vừa là nghệ thuật của người thầy giáo. Để giúp học sinh
theo dõi bài giảng một cách có hiệu quả giáo viên cần phải kết hợp tốt giữa bài giảng
và ghi bảng. Việc trình bày bảng của giáo viên phải đạt được yêu cầu vừa là một loại
trực quan, vừa để học sinh theo dõi cấu trúc bài giảng giúp các em củng cố và hệ
thống hóa kiến thức. Do vậy, việc ghi bảng kết hợp với lời giảng phải thật ăn khớp,
nhịp nhàng, khơng lãng phí thời gian, lời giảng không bị ngắt quảng.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Qua m t n m nghiên cứu và thực hiện đề tài ở trường, kết quả giảng dạy bộu và thực hiện đề tài ở trường, kết quả giảng dạy bộc hiện đề tài ở trường, kết quả giảng dạy bộn đề tài ở trường, kết quả giảng dạy bộ tài ở trường, kết quả giảng dạy bộ trường, kết quả giảng dạy bộng, kến tranh:t quả giảng dạy bộ giả giảng dạy bộng dạy bộy b
môn bước sau chiến tranh:c đầu có sự chuyển biến tích cực. Cụ thể:u có sực hiện đề tài ở trường, kết quả giảng dạy bộ chuyển biến tích cực. Cụ thể:n biến tranh:n tích cực hiện đề tài ở trường, kết quả giảng dạy bộc. Cụ thể: thển biến tích cực. Cụ thể::
Năm học 2008 - 2009
Chỉ tiêu đăng ký
Khảo sát đầu năm
Học kì I
Cả năm
Giỏi
40%
30,1%
50,3%
Khá
35%
41,8%
34,9%
Trung bình
23%
23,1%
14,8%
Yếu
2%
5,0%
PHẦN KẾT LUẬN
I. Những bài học kinh nghiệm:
Qua nghiên cứu và thực hiện đề tài, bản thân xin rút ra một số bài học kinh
nghiệm nhằm nâng cao chất lượng soạn giảng:
* Chuẩn bị và thiết kế bài học:
- Cần nghiên cứu kỷ nội dung, nắm vững mục tiêu bài học, xác định rõ kiến
thức trọng tâm, đảm bảo tính hệ thống kiến thức.
- Lựa chọn phương pháp phù hợp đặc trưng bộ môn và nội dung bài học.
- Chuẩn bị đầy đủ những phương tiện, thiết bị cần thiết phục vụ bài giảng.
* Tổ chức truyền đạt tri thức:
- Cần kết hợp nhịp nhàng các phương pháp, sử dụng hợp lý và hiệu quả các
phương tiện, thiết bị dạy học.
- Lời giảng phải sinh động, thu hút học sinh.
- Trình bày bảng phải hợp lý, khoa học.
- Tổ chức hoạt động phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh,
chú ý việc nắm bắt kiến thức, rèn kỹ năng bộ môn và phát triển tư duy học sinh.
II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm:
Việc đầu tư nâng cao chất lượng soạn giảng giúp người thầy ngày càng nâng
cao hơn trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nhất là việc đổi mới phương pháp dạy học.
Phát hiện được những học sinh năng khiếu, học sinh giỏi để bồi dưỡng đầu tư
chất lượng mũi nhọn, đồng thời có kế hoạch phụ đạo để giảm dần tỉ lệ học sinh yếu
kém.
III. Khả năng ứng dụng, triển khai:
Đề tài đề cập đến vấn đề mà tất cả các giáo viên dạy học môn Lịch sử trong
trường Trung học cơ sở đều phải thực hiện thường xuyên và thực hiện ở học sinh tất
cả các khối lớp. Với lòng nhiệt thành, tôi muốn chia sẻ với quý đồng nghiệp những
kinh nghiệm rút ra từ thực tế soạn giảng. Đây là sáng kiến kinh nghiệm của cá nhân,
chắc chắn sẽ có nhiều hạn chế, thiếu sót, rất mong sự đóng góp của Quý lãnh đạo và
Quý đồng nghiệp để bản thân tích lũy được thêm nhiều kinh nghiệm trong cơng tác
giảng dạy của mình.
IV. Những kiến nghị, đề xuất:
Đối với giáo viên giảng dạy: Bên cạnh việc đầu tư công tác soạn giảng, cần
đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thơng tin để nâng cao hiệu quả giảng dạy bộ
mơn.
Tóm lại, đổi mới phương pháp là vấn đề phức tạp bao gồm nhiều khâu, nhiều
việc và là công việc của nhiều người, trong đó vai trị của người thầy giáo trực tiếp
giảng dạy là hết sức quan trọng. Với đề tài: “Nâng cao chất lượng soạn giảng môn
Lịch sử ở trường Trung học cơ sở”, bản thân mong muốn đóng góp một vài kinh
nghiệm của mình vào việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học môn Lịch sử hiện
nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Ngọc Liên (chủ biên), 1998, Phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ
thông, Trung tâm đào tạo từ xa Đại học Huế, Nhà xuất bản Giáo dục.
2. Phan Ngọc Liên, Đinh Xuân Lâm, 2005, Sách giáo khoa Lịch sử 9, Nhà xuất bản
Giáo dục, trang 3, 9, 55, 97, 99, 107, 111, 134, 142 – 143, 147
3. Phan Ngọc Liên và Phan Văn Trị (chủ biên), 1999, Phương pháp dạy học lịch sử,
Nhà xuất bản Giáo dục, trang 122 – 154.
4. PGS.TS. Trịnh Đình Tùng, 1999, “Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan nhằm
phát huy tính tích cực hoạt động độc lập của học sinh trong dạy học lịch sử”, trong Kỷ yếu
Tài liệu Hội nghị đổi mới phương pháp dạy và học tập môn Lịch sử ở trường Trung học phổ
thông và Trung học cơ sở - Bộ Giáo dục và Đào tạo, 11/1999, Hà Nội, trang 62-70.
5. PGS.TS. Trịnh Đình Tùng, 1999, “Về phương pháp sử dụng sách giáo khoa trong
dạy học Lịch sử ở trường phổ thông”, trong Kỷ yếu Tài liệu Hội nghị đổi mới phương pháp
dạy và học tập môn Lịch sử ở trường Trung học phổ thông và Trung học cơ sở - Bộ Giáo dục
và Đào tạo, 11/1999, Hà Nội, trang 52-57.
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
I.
Bối cảnh của đề tài
II.
Lý do chọn đề tài
III.
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
IV.
Mục đích nghiên cứu
V.
Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
I.
Cơ sở lý luận
II.
Thực trạng của vấn đề
III.
Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
IV.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
PHẦN KẾT LUẬN
I.
Những bài học kinh nghiệm
II.
Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm
III.
Khả năng ứng dụng, triển khai
IV.
Những kiến nghị, đề xuất
Tài liệu tham khảo
Mục lục
PHÒNG GD&ĐT BA TRI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG THCS BẢO THẠNH
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
PHIẾU NHẬN XÉT, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Tên đề tài: Nâng cao chất lượng soạn giảng môn Lịch sử ở trường Trung học cơ sở
Tác giả: Phan Thanh Sơn
Chức vụ: Tổ trưởng
Bộ phận công tác: Tổ Sử - Địa – GDCD – Nhạc – Mỹ Thuật
HỘI ĐỒNG KHOA HỌC ĐƠN VỊ
TỔ CHUYÊN MÔN
Nhận xét:
Nhận xét
Cấu trúc đề tài đúng theo qui định. Nội
- Sáng kiến kinh nghiệm của thầy Phan
dung thiết thực, có tác dụng tốt trong
Thanh Sơn thực hiện đúng qui định.
việc soạn giảng của GV, góp phần nâng
- Áp dụng tại đơn vị có hiệu quả.
cao chất lượng dạy và học. Đề tài có khã
năng vận dụng để các môn học khác Xếp loại: A
trong tổ chuyên mơn tham khảo trong
Ngày 26 tháng 02 năm 2010
q trình soạn giảng.
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Xếp loại: A.
(Ký ghi rõ họ tên, đóng dấu)
Ngày 25 tháng 02 năm 2010
TỔ TRƯỞNG
Phan Thanh Sơn
Trần Văn Dưỡng
HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BA TRI
Nhận xét:
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………..
.
………………………………………………………………………………………..
.………………………………………………………………………………………
Xếp loại: ………………
………………, ngày …… tháng …… năm 2010
TRƯỞNG PHÒNG