Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

đề tài '''''''' thực trạng công tác kế toán doanh thu, chi phí và xác định kết quả kinh doanh''''''''

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.84 KB, 19 trang )

luận văn báo cáo
Đề tài
" Thực trạng công tác kế toán doanh thu,
chi phí và xác định kết quả kinh doanh"
1
Mục lục
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trước đổi mới, kinh tế Việt Nam có ba loại hình doanh nghiệp: doanh nghiệp
nhà nước (SOEs), hợp tác xã và các hộ gia đình. Từ khi có đổi mới, các loại hình
doanh nghiệp khác như doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp tư nhân ra đời. Doanh
nghiệp tư nhân nước ta đã được định vị từ năm 1990 khi Luật Doanh nghiệp tư
nhân và Luật Công ty được ban hành. Sau khi Luật Doanh nghiệp 1999 ra đời,
doanh nghiệp tư nhân có bước phát triển khá nhanh.
Luật Doanh Nghiệp đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khoá XI thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005. Luật này có hiệu lực thi
hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2006. Luật Doanh nghiệp năm 2005 ra đời đánh dấu
một sự thay đổi lớn trong pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam, đồng thời phản
ánh được tư tưởng và mục tiêu nổi bật của luật Doanh nghiệp năm 2005 là hình
thành một khung pháp lý chung, bình đẳng áp dụng thống nhất cho mọi loại hình
2
doanh nghiệp. Đây là lần đầu tiên nước ta ban hành một văn bản pháp luật chung
điều chỉnh thống nhất tất cả các loại hình doanh nghiệp. Với việc ban hành Luật
Doanh nghiệp năm 2005, các doanh nghiệp Việt Nam đã có điều kiện để hoạt
động bình đẳng trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Sự ra
đời của Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng đáp ứng được yêu cầu đối xử bình
đẳng giữa các doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Luật Doanh nghiệp 2005 đã đặt doanh nghiệp tư nhân lên một vị thế mới, là
khung pháp lý tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng cho khối doanh,
giúp doanh nghiệp tư nhân ngày càng lớn mạnh về số lượng và chất lượng. tuy
nhiên việc thực hiện Luật này vẫn tồn tại những hạn chế và bất cập cho các doanh
nghiệp nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng. Tại sao lại có những tồn tại


như vậy? Hãy cùng tìm hiểu và phân tích các quy định của Luật doanh nghiệp
2005 về doanh nghiệp tư nhân để làm rõ điều này.
NỘI DUNG
I. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
(theo Luật doanh nghiệp 2005):
1.1 Doanh nghiệp tư nhân:
Theo Điều 141:
1. Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
2. Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
3. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
Doanh nghiệp tư nhân được xếp vào nhóm doanh nghiệp 1 chủ sở hữu. Các
doanh nghiệp 1 chủ sở hữu bao gồm: công ty Nhà nước, công ty TNHH 1 thành
viên, doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, ngay trong nhóm các doanh nghiệp 1 chủ
3
sở hữu doanh nghiệp tư nhân mang những nét khác biệt, đó là loại hình doanh
nghiệp này chỉ do một cá nhân duy nhất sở hữu. Như vậy doanh nghiệp tư nhân
không xuất hiện sự góp vốn giống như nhiều chủ sở hữu, nguồn vốn của doanh
nghiệp cũng chủ yếu xuất phát từ tài sản của một cá nhân duy nhất. Từ đặc điểm
này có thể thấy rằng doanh nghiệp tư nhân bao hàm trong đó những đặc trưng nhất
định giúp phân biệt doanh nghiệp tư nhân với các loại hình doanh nghiệp khác.
Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân. Doanh nghiệp tư nhân
không phải là pháp nhân do nó không có dự độc lập về tài sản.
Chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiêm vô hạn trước mọi khoản nợ
phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Do tính chất độc lập về tài
sản không có nên chủ doanh nghiệp sẽ phải chịu trách nhiệm vô hạn về hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp trong phạm vi phần vốn đầu tư đã đăng ký với cơ
quan đăng ký kinh doanh đồng thời cũng phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình trong trường hợp phần vốn đầu tư đã đăng ký không đủ trang trải các
khoản nợ của doanh nghiệp tư nhân. Một doanh nghiệp tư nhân không có khả năng

thanh toán các khoản nợ đến hạn và lâm vào tình trạng phá sản thì tất cả tài sản
thuộc sử hữu của chủ doanh nghiệp đều nằm trong diện tài sản phá sản của doanh
nghiệp.
1.2. Vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân:
Theo điều 142 Luật doanh nghiệp 2005:
1.Vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân do chủ doanh nghiệp tự đăng ký. Chủ
doanh nghiệp tư nhân có nghĩa vụ đăng ký chính xác tổng số vốn đầu tư, trong đó
nêu rõ số vốn bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng và các tài sản
khác; đối với vốn bằng tài sản khác còn phải ghi rõ loại tài sản, số lượng và giá trị
còn lại của mỗi loại tài sản.
4
2. Toàn bộ vốn và tài sản kể cả vốn vay và tài sản thuê được sử dụng vào hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp phải được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán và
báo cáo tài chính của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
3. Trong quá trình hoạt động, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tăng hoặc giảm
vốn đầu tư của mình vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Việc tăng hoặc
giảm vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp phải được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán.
Trường hợp giảm vốn đầu tư xuống thấp hơn vốn đầu tư đã đăng ký thì chủ doanh
nghiệp tư nhân chỉ được giảm vốn sau khi đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh
doanh.
Nguồn vốn ban đầu của doanh nghiệp tư nhân xuất phát chủ yếu từ tài sản
của một cái nhân, phần vốn này sẽ do chủ doanh nghiệp tự khai báo với cơ quan
đăng kí kinh doanh (gọi là vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân) và được ghi
chép đầy đủ vào sổ kế toán của doanh nghiệp. Như vậy, cái nhân chủ doanh
nghiệp tư nhân sẽ đưa vào kinh doanh một số vốn nhất định.
Chính từ điều này có thể kết luận rằng hầu như không có giới hạn nào giữa
phần vốn và tài sản đưa vào kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân và phần tài sản
còn lại thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp. Trong mọi thời điểm sự thay đổi về
mức vốn kinh doanh đều có thể diễn ra, vì thế ranh giới giữa phần tài sản và vốn
đưa vào kinh doanh và phần tài sản của chủ doanh nghiệp chỉ tồn tại một cách tạm

thời. Hay nói cách khác không có sự phân biệt rõ ràng giữa hai khối tài sản này.
Điều này có ý nghĩa trong việc nhìn nhận về khối tài sản của doanh nghiệp tư
nhân, khẳng định vấn đề không thể tách bạch tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân
và tài sản của chính doanh nghiệp tư nhân đó.
1.1.3. Thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh:
Theo điều 13: Thành lập doanh nghiệp
5
1. Tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền thành lập và
quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của Luật này, trừ trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Tổ chức, cá nhân sau đây không được quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp
tại Việt Nam:
a) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng tài
sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn
vị mình;
b) Cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức;
c) Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các
cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam;
d) Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp 100% vốn sở hữu
nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo uỷ quyền để quản lý phần
vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác;
đ) Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất
năng lực hành vi dân sự;
e) Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị Toà án cấm hành nghề kinh
doanh;
g) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản.
Theo điều 15: Trình tự đăng ký kinh doanh
1. Người thành lập doanh nghiệp nộp đủ hồ sơ đăng ký kinh doanh theo quy định
của Luật này tại cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền và phải chịu trách

nhiệm về tính trung thực, chính xác của nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh.
2. Cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm xem xét hồ sơ đăng ký kinh doanh
và cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong thời hạn mười ngày làm việc,
kể từ ngày nhận hồ sơ; nếu từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì
6
thông báo bằng văn bản cho người thành lập doanh nghiệp biết. Thông báo phải
nêu rõ lý do và các yêu cầu sửa đổi, bổ sung.
3. Cơ quan đăng ký kinh doanh xem xét và chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ
sơ khi cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; không được yêu cầu người thành
lập doanh nghiệp nộp thêm các giấy tờ khác không quy định tại Luật này.
4. Thời hạn cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh gắn với dự án đầu tư cụ thể
thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư.
Hồ sơ đăng ký kinh doanh bao gồm:
- Đơn đăng ký kinh doanh.
- Điều lệ đối với công ty.
- Bản sao chứng minh nhân dân, hộ chiếu hoặc chứng thực hợp pháp.
- Xác nhận vốn pháp định (nếu có).
- Chứng chỉ hành nghề (nếu có).
Sở kế hoạch và đầu tư cấp tỉnh sẽ cấp giấy phép kinh doanh khi tài sản hợp lệ,
xem xét tài sản trong vòng 15 ngày.
1.4. Về quản lý doanh nghiệp:
Theo điều 143 Luật doanh nghiệp 2005:
1. Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực
hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật.
2. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc thuê người khác quản lý, điều
hành hoạt động kinh doanh. Trường hợp thuê người khác làm Giám đốc quản lý
doanh nghiệp thì chủ doanh nghiệp tư nhân phải đăng ký với cơ quan đăng ký kinh
doanh và vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.

7
3. Chủ doanh nghiệp tư nhân là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Toà án trong các tranh chấp liên quan đến
doanh nghiệp.
4. Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp tư nhân quan hệ sở hữu quyết định quan hệ quản lý.
Chủ doanh nghệp tư nhân có không phải chia sẻ quyền quản lý doanh nghiệp cho
bất kỳ đối tượng nào khác. Chủ doanh nghiệp tư nhân cũng là người đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp; có quyền định đoát đối với tài sản doanh nghiệp cũng
như có toàn quyền quyết định việc tổ chức quản lý doanh nghiệp. Chủ doanh
nghiệp có thể tự mình quản lý doanh nghiệp hoặc thuê người khác quản lý doanh
nghiệp. trong trường hợp này người quản lý, chủ doanh nghiệp vẫn phải chịu trách
nhiệm về mọi hoạt động của doanh ngiệp dưới sự quản lý và điều hành cuả người
thuê, giới hạn trách nhiệm được phân chia giữa chủ doanh nghiệp và người được
thuê quản lý thông qua một hợp đồng.
1.5. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân:
* Quyền của doanh nghiệp tư nhân.
- Có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của doanh nghiệp.
Quyền chủ động lựa chọn ngành nghề, địa bàn đầu tư, hình thức đầu tư, chủ động
mở rộng quy mô và ngành nghề kinh doanh. Đồng thời doanh nghiệp tư nhân có
quyền chủ động tìm kiếm thị trường, khách hành và ký kết hợp đồng.
- Quyền lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn.
- Quyền kinh doanh xuất khẩu và nhập khẩu.
Quyền tuyển, thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu kinh doanh; tự chủ kinh
doanh, chủ động áp dụng phương thức quản lý khoa học hiện đại để nâng cao hiệu
quả và khả năng cạnh tranh.
8
- Quyền từ chối và tố cáo mọi yêu cầu cung cấp các nguồn lực không được
pháp luật quy định của bất kỳ cái nhân và cơ quan hay tổ chức nào, trừ những
khoản đóng góp vì mục đích nhân đạo hoặc công ích; ngoài ra có quyền khiếu nại,

tố cáo và trực tiếp hoặc thông qua người đại diện để tham gia tố tụng theo quy
định của pháp luật.
Như vậy về cơ bản doanh nghiệp tư nhân có tất cả các quyền của một doanh
nghiệp, ngoài ra nó còn có các quyền đặc thù góp phần làm cho doanh nghiệp tư
nhân trở thành một loại hình doanh nghiệp đặc biệt. Những quyền đặc thù này
được luật doanh nghiệp 2005 quy định trực tiếp cho chủ doanh nghiệp tư nhân bao
gồm:
Điều 144 Cho thuê doanh nghiệp:
Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp của mình
nhưng phải báo cáo bằng văn bản kèm theo bản sao hợp đồng cho thuê có công
chứng đến cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan thuế. Trong thời hạn cho thuê,
chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật với tư cách là
chủ sở hữu doanh nghiệp. Quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu và người thuê đối
với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được quy định trong hợp đồng cho
thuê.
Điều 145 Bán doanh nghiệp:
1. Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người
khác. Chậm nhất mười lăm ngày trước ngày chuyển giao doanh nghiệp cho người
mua, chủ doanh nghiệp phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng ký kinh
doanh. Thông báo phải nêu rõ tên, trụ sở của doanh nghiệp; tên, địa chỉ của người
mua; tổng số nợ chưa thanh toán của doanh nghiệp; tên, địa chỉ, số nợ và thời hạn
thanh toán cho từng chủ nợ; hợp đồng lao động và các hợp đồng khác đã ký mà
chưa thực hiện xong và cách thức giải quyết các hợp đồng đó.
9
2. Sau khi bán doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm
về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác mà doanh nghiệp chưa thực hiện, trừ
trường hợp người mua, người bán và chủ nợ của doanh nghiệp có thoả thuận khác.
3. Người bán, người mua doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định của pháp luật
về lao động.
4. Người mua doanh nghiệp phải đăng ký kinh doanh lại theo quy định của Luật

này.
* Nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân:
Cũng giống như các loại hình doanh nghiệp khác, doanh nghiệp tư nhân
cũng có những nghĩa vụ cơ bản như: đảm bảo việc kinh doanh đúng ngành nghề
như đã ghi trong giấy phép; bảo đảm chất lượng, tiêu chuẩn hang hoá đăng ký,
đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế…
1.6. Quy chế giải thể doanh nghiệp tư nhân:
Theo điều 158 Luật doanh nghiệp:
Các trường hợp giải thể: tự nguyện hoặc bắt buộc trong trường hợp doanh
nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Thủ tục giải thể:
- Chủ doanh nghiệp trực tiếp tổ chức thanh lý tài sản doanh nghiệp.
- Trong 7 ngày làm việc phải gửi quyết định đến cơ quan đăng ký kinh doanh và
thông báo cho tất cả những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
- Niêm yết quyết định giải thể tại trụ sở chính của doanh nghiệp.
- Đăng báo trung ương và địa phương trong 3 số lien tiếp.
- Sau khi hoàn trả các khoản nợ phải gửi bộ hồ sơ giải thể tới cơ quan đăng ký
kinh doanh.
10
II. TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ TRONG VIỆC BAN HÀNH VÀ THỰC HIỆN
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI DNTN:
Về cơ bản, Luật doanh nghiệp năm 2005 giữ nội dung của Luật doanh nghiệp
năm 1999. Luật quy định rõ mỗi cá nhân chỉ được thành lập 1 doanh nghiệp tư
nhân là điểm mới căn bản nhất. Sau đây là một số mặt tích cực và hạn chế của
Luật doanh nghiệp 2005 đối với doanh nghiệp tư nhâ
2.1. Tích cực:
Một là, Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và
tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp. Vốn đầu tư của doanh nghiệp tư nhân do chính chủ sở hữu tự đăng ký,
chịu trách nhiệm vô hạn với phần vốn đó.

Trong số những loại hình doanh nghiệp có hai loại hình doanh ngiệp có chế
độ trách nhiệm tài sản vô hạn: doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Chủ
doanh nghiệp tư nhân và các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tái sản của mình về các nghĩa vụ của doanh nghiệp. Danh thế và khả năng tài
chính của những chủ sở hữu có ý nghĩa hết sức quan trọng, ảnh hưởng đến việc
các chủ thể kinh doanh khác có lựa chọn hợp tác với doanh nghiệp hay không. Khi
lựa chọn “làm ăn” với doanh nghiệp tư nhân, các đối tác yên tâm là các ông chủ
phải chịu trách nhiệm về hoạt động của doanh nghiệp không chỉ bằng tài sản của
doanh nghiệp mà còn bằng các tài sản khác của mình (tài sản thương sự và tài sản
dân sự). Lợi nhuận thu được thuộc về chủ doanh nghiệp, nếu kinh doanh thua lỗ
phải dung tài sản thuộc cả hai khối tài sản để thanh toán các khoản nợ cho chủ nợ,
chủ doanh ngiệp có thể bị phá sản. Vì vậy các ông chủ phải chịu trách nhiệm về
hoạt động của doanh nghiệp “đến mảnh áo cuối cùng”.
Vì sinh ra và lớn lên trong môi trường cạnh tranh, phải đánh đổi mọi quyết
định trong kinh doanh bằng tính mệnh của chính mình, chỉ có những doanh nghiệp
tư nhân có sức cạnh tranh (lành mạnh) mới có thể tồn tại. Sức ép cạnh tranh theo
11
nguyên lý thị trường tự do không cho phép doanh nghiệp đứng yên, không phát
triển tiến lên thì sẽ buộc bị đẩy vào con đường thui chột. Đây chính là động lực
phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh của bộ phận doanh nghiệp này.
Ngoài ra, một chủ đầu tư hay nói cách khác một cá nhân làm chủ sẽ tạo
thuận lợi cho quá trình ra các quyết định trong kinh doanh của doanh nghiệp tư
nhân. Hơn nữa quy định này giúp các nhà đầu tư muốn thành lập doanh nghiệp tư
nhân dễ dàng ra nhập thị trường.
Hai là, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền cho thuê hoặc bán doanh nghiệp
của mình. Đây là đặc điểm mà các loại hình doanh nghiệp khác không có được.
Điều này cho phép chủ doanh nghiệp tư nhân sử dụng vốn có hiệu quả, có thể lựa
chọn được người có năng lực điều hành doanh nghiệp tránh cho doanh nghiệp
không bị phá sản trong trường hợp chủ sở hữu không có năng lực tham gia hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Ba là, việc quản lý doanh nghiệp do chính chủ doanh nghiệp quyết định, điều
này cũng tạo cho quá trình ra quyết định của doanh nghiệp tránh sự tranh luận và
bất đồng quan điểm giữa các thành viên trong doanh nghiệp giống như các loại
hình doanh nghiệp khác như: công ty cổ phần, công ty TNHH 2 thành viên trở lên,
hợp tác xã…
Bốn là, Luật doanh nghiệp đã chuyển từ hệ thống cấp phép sang đăng ký cho
doanh nghiệp tư nhân. Đồng thời cũng quy định thời gian cấp giấy phép kinh
doanh. Điều này đã làm giảm đáng kể các chi phí giao dịch cho chủ doanh nghiêp
trước đó. Trước năm 2000, khoảng 50% số doanh nghiệp phải chờ từ 1 đến 3
tháng để hoàn tất thủ tục.
Năm là, trong giai đoạn hội nhập WTO của nước ta hiên nay để có được
những đấu thủ khỏe cho cuộc chơi WTO, khó có thể trông cậy được vào bộ phận
doanh nghiệp nhà nước, vậy thì chỉ còn cách nuôi dưỡng phát triển đội ngũ doanh
nghiệp tư nhân. Luật doanh nghiệp góp phần quan trọng trong vấn đề này. Đó
12
cũng là tác động tích cực và gián tiếp của các quy định pháp luật mà cụ thể là Luật
doanh nghiệp 2005 đối với doanh nghiệp tư nhân nói riêng và nền kinh tế nói
chung.
2.2. Hạn chế:
Bên cạnh những mặt tích cực các quy đinh của Luật doanh nghiệp 2005 còn
tồn tại nhiều hạn chế, điển hình là:
Một là, doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân và phải chịu trách
nhiêm vô hạn trong sản xuất kinh doanh. Ở doanh nghiệp tư nhân không có sự hùn
hạp vốn, chỉ có một cá nhân là chủ sở hữu, bỏ ra 100% vốn, chịu trách nhiệm bằng
cả “gia tài” của mình, doanh nghiệp tư nhân không được phép phát hành bất kỳ
một loại chứng khoán huy động vốn nào. Vì vậy độ rủi ro trong kinh doanh rất
cao. Hơn nữa muốn mở rông quy mô kinh doanh, tăng thêm vốn kinh doanh chủ
doanh nghiệp tư nhân chỉ có thể bằng cách dùng khả năng tài chính của mình, vay
vốn (ví dụ ở các tổ chức tín dụng…), hoặc tìm nguồn đầu tư từ các quỹ đầu tư
nước ngoài.

Mỗi khi có nhu cầu vay vốn, doanh nghiệp tư nhân phải thực hiện nhiều thủ
tục phức tạp, ngay cả khi có thế chấp cũng chỉ được vay dưới 50% giá trị tài sản.
Trường hợp của Công ty Thương mại và chuyển giao công nghệ Hà Nội là một ví
dụ. Khi làm hồ sơ xin vay vốn ngân hàng, giám đốc doanh nghiệp không đủ giấy
chứng nhận sở hữu nhà và quyền sử dụng đất do Chủ tịch UBND thành phố cấp
nên bị từ chối thẳng thừng.
(Việt Báo (Theo_VnExpress.net)
Theo kết quả điều tra năm 2008 của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam, vừa mới công bố, có đến 90,14% doanh nghiệp tư nhân khu vực đồng bằng
sông Cửu Long (Đồng bằng sông Cửu Long-ĐBSCL) cho biết không thể vay vốn
nếu không có tài sản thế chấp. Qua điều tra có 95% doanh nghiệp ĐBSCL đang
13
vay vốn phải thế chấp tài sản, trong đó 87,7% thế chấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Có 67,38% doanh nghiệp ĐBSCL cho biết lãi suất và các điều kiện
vay vốn ngân hàng đối với doanh nghiệp tư nhân luôn khó khăn hơn so với doanh
nghiệp nhà nước. Đồng thời, 55,18% doanh nghiệp ĐBSCL cũng cho biết thủ tục
vay vốn còn phiền hà.
(atpvietnam.com)
Đầu tư vào khu vực kinh tế tư nhân đang là xu hướng của các quỹ đầu tư, thể
hiện sự cam kết lâu dài của họ với thị trường Việt Nam. Trên thực tế, số lượng
công ty tư nhân khá nhiều nhưng số thực sự đáp ứng được nhu cầu của các quỹ
đầu tư nước ngoài không phải là nhiều. Tính minh bạch trong quản lý và vấn đề
tài chính là một yếu tố khác mà các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi đầu tư vào
doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam.
(Việt Báo (Theo_VnExpress.net)
Đây là trở ngại lớn nhất trong 5 trở ngại chính (vốn, cơ sở hạ tầng, thủ tục
hành chính, lao động và nhân lực, thuế) của doanh nghiệp tư nhân. So với các loại
hình doanh nghiệp khác đó là điều kiềm chế sự phát triển của các doanh nghiệp tư
nhân. Quy định của Luật doanh nghiệp 2005 giúp doanh nghiệp tư nhân dễ dàng
cho nhà đầu tư ra nhập thị trường nhưng nó chưa giúp họ có thể phát triển từ cơ sở

kinh doanh nhỏ thành những doanh nghiệp lớn. Muốn phát triển với quy mô lớn
các doanh nghiệp tư nhân cần phải thu hút các quỹ đầu tư trong nước cũng như
nước ngoài.
Hai là, tuy Luật doanh nghiệp 2005 đã được sửa đổi bổ sung nhưng vẫn còn
tồn tại sự bất bình đẳng giữa khối doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà
nước. Sau đây là một số lơi thế của doanh nghiệp nhà nước mà doanh nghiệp tư
nhân không có được:
14
- Có cơ quan chủ quản và quy hoạch nghành đây là lợi thế lớn nhất tạo nên sức
mạnh của doanh nghiệp nhà nước.
- Quốc doanh còn được nhiều ưu ái về đất đai, tín dụng, quyền khai thác tài
nguyên. Hiện có 10% doanh nghiệp nhà nước có quyền sử dụng đất, trong khi
90% doanh nghiệp tư nhân phải thuê đất; thời hạn thuê hay sử dụng đất của doanh
nghiệp tư nhân thường ngắn hơn doanh nghiệp nhà nước.
Ông Nguyễn Thâm, Phó chủ tịch Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam, nói:
"Đại đa số cán bộ chủ chốt ở các cơ quan công quyền đều ngại gần doanh nghiệp
tư nhân. Những biểu hiện xấu trong kinh tế sản xuất, thực hiện các quy định pháp
luật sai như gian lận thuế, làm hàng kém chất lượng thường được gán cho khu
vực này, nhưng thực tế sai phạm ở các doanh nghiệp nhà nước không hề ít".
Ngoài ra, doanh nghiệp tư nhân thường rất khó xin đăng ký kinh doanh những
ngành nghề mà trước đây Nhà nước độc quyền như du lịch lữ hành quốc tế, xuất
khẩu lao động, khai khoáng Ông Nguyễn Thâm cho rằng, nhiều doanh nghiệp tư
nhân trong nước hoàn toàn đủ điều kiện và sẵn sàng đầu tư để xây dựng kho bãi
tại sân bay Tân Sơn Nhất và đảm nhận các dịch vụ mặt đất nhưng không được
chấp nhận. Trong khi đó, Công ty Dịch vụ mặt đất của Singapore lại được hưởng
"đặc ân" này.
(Việt Báo (Theo_VnExpress.net)
Đó là sự bất bình đẳng tạo môi trường kinh doanh không lành mạnh giữa khối
doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước đồng thời kìm hãm sự phát triển
của khối doanh ngiệp tư nhân, ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế.

Ba là, vấn đề thành lập và đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân:
Hồ sơ đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp kinh doanh các ngành, nghề yêu
cầu phải có chứng chỉ hành nghề thì phải có thêm bản sao hợp lệ chứng chỉ hành
nghề. Điều này dễ tạo ra tình huống đưa các chủ đầu tư, doanh nghiệp vào tình trạng
15
“lạng lách” pháp luật. Chủ doanh nghiệp có thể sẽ lợi dụng quy định này để thuê,
mướn chứng chỉ, thậm chí cả bằng cấp…Thực tế cho thấy chủ doanh nghiệp không
nhất thiết phải là người nắm vững các kiến thức chuyên ngành. Vấn đề quan trọng
là họ phải có năng lực quản lý, biết cách sử dụng đúng người đúng việc (khả năng
quản trị doanh nghiệp).
Trong thực tế, có nhiều trường hợp doanh nghiệp phải thuê người có chứng chỉ
hành nghề tương ứng với ngành nghề kinh doanh đăng ký hồ sơ. Nếu người được
thuê nghỉ việc ngay, doanh nghiệp chưa tìm được người thay thế thì doanh nghiệp sẽ
không được thay đổi hay bổ sung ngành nghề kinh doanh, thậm chí có thể bị rút
ngành nghề đã đăng ký. Trong trường hợp này, khi đã bị rút ngành nghề đăng ký kinh
doanh thì doanh nghiệp coi như hoạt động bất hợp pháp và những hợp đồng đã ký với
đối tác đều không thực hiện được.
Bên cạnh đó quá trình làm thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh cũng là
vấn đề nan giải của các doanh nghiệp tư nhân nói riêng và các doanh nghiệp khác
trong nền kinh tế nói chung:
4 bước chính của quá trình đăng ký kinh doanh và quá trình thành lập doanh
nghiệp hiện nay là: Đăng ký xin giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ở sở kế
hoạch và đầu tư; Làm con dấu và đăng ký tại cơ quan công an địa phương; Nhận
mã số thuế ở cục thuế địa phương; cuối cùng là mua quyển hoá đơn đỏ ở phòng
thuế. Cuộc điều tra của MPDF cho thấy, các doanh nghiệp trong mẫu điều tra
thường mất khoảng 50 ngày (nếu nhờ dịch vụ thì khoảng 23 ngày) để hoàn tất
toàn bộ quá trình trên. "Theo báo cáo Kinh doanh 2005 của Ngân hàng Thế giới -
một báo cáo so sánh các chỉ số chính về môi trường kinh doanh ở 145 nước trên
toàn thế giới, 50 ngày là một thời gian khá dài đối với việc đăng ký doanh
nghiệp”, bà Nguyễn Quỳnh Trang, Giám đốc Chương trình Phát triển Môi trường

Kinh doanh của MPDF, nói.
Việt Báo (Theo_VnExpress.net)
16
Có thể nói, những quy định của pháp luật về doanh nghiệp đã và đang tạo ra những
hướng đi mới mẻ, đa dạng cho doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt
tích cực, luật doanh nghiệp cũng còn tồn đọng nhiều vấn đề bất cập, chưa hợp lý và vô
tình đã cản trở hoạt động chung của các nhà đầu tư. Điều đó đòi hỏi cả trong hiện tại và
tương lai phải có sự cộng tác, phối hợp chặt chẽ hơn nữa của Chính phủ, nhà lập pháp,
nhà đầu tư, doanh nhân trong hoạt động xây dựng khung pháp lý, góp phần hướng
doanh nghiệp tư nhân Việt Nam có những bước đi an toàn, hội nhập vào thương trường
rộng lớn của thế giới.
III. KIẾN NGHI SỬA ĐỔI:
Có sự hạn chế kể trên là do những nguyên nhân khách quan và chủ quan
mang lại. nguyên nhân chủ quan xuất phát từ chính những quy định pháp luật còn
chứa đựng nhiều bất hợp lý làm cho việc thực hiện có nhiều khó khăn và bất cập,
ngoài ra cũng xuất phát từ chính bản thân doanh nghiệp tư nhân còn nhiều yếu
kém trong việc thi hành luật. Nguyên nhân khách quan cần đề cập tới đó là cơ chế
quan liêu, các các quan điểm lệch lạc về doanh nghiệp tư nhân vẫn còn tồn tại
trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay và đây cũng là nguyên nhân
chính kìm hãm sự phát triển của khối doanh nghiệp tư nhân. Để doanh nghiệp tư
nhân có thể tồn tại và phát triển tốt cần có sự sửa đổi bổ sung về luật đồng thời
thay đổi cơ chế cũng như quan điểm đối với doanh ngiệp tư nhân.
Trước hết luật cần có sự sửa đổi bổ sung các vấn đề sau:
- Ưu tiên hơn đối với các quy đinh về vốn của doanh nghiệp tư nhân. Nhằm
hạn chế rủi ro, góp phần làm cho khối doanh nghiệp này có thể mở rộng quy mô
sản xuất, phát triển nghành nghề.
17
- Vấn đề thành lập và đăng ký kinh doanh cần gon nhẹ, giảm bớt thời gian
và các thủ tục không cần thiết. ví dụ: một số loại giấp phép con, hay chứng chỉ
hành nghề của một số chủ doanh nghiệp tư nhân kinh doanh các nghành, nghề…

Vấn đề quan trọng cần giải quyết là bảo đảm tính minh bạch trong quy trình
xây dựng luật, xóa bỏ tình trạng cục bộ, khép kín. Hơn nữa, quá trình dự thảo luật
cần có sự tham gia hoặc tham vấn đối tượng chịu sự điều chỉnh của luật là cộng
đồng doanh nghiệp, thông qua đại diện của họ là các hiệp hội ngành nghề, nhằm
bảo đảm tính khả thi sau khi ban hành.
Hai là, cần xoá bỏ cơ chế quan liêu trong việc thực hiện cấp giấy đăng ký
kinh doanh. Cần nghiêm khắc kiểm điểm và sử lý các vi phạm của các cán bộ, cơ
quan ban ngành có liên quan trong việc cấp giấy phép đăng ký kinh doanh.
Ba là, quan niêm trước kia trong cơ chế bao cấp coi trọng khu vực quốc
doanh (các doanh nghiệp Nhà nước) hơn khu vực tư nhân vẫn còn khắc sâu trong
tư tưởng người Việt Nam cho đến ngày nay, các doanh nghiệp trong khối quốc
doanh luôn được hưởng ưu đãi nhiều hơn doanh nghiệp tư nhân. Mặc dù rất khó
xoá bỏ nhưng nhất thiết cần xoá bỏ chúng bằng một cách triệt để có như vậy mới
tạo sự công bằng trong kinh doanh và cũng tạo cơ hội cho sự phát triển của các
doanh nghiệp tư nhân.
KẾT LUẬN
Nhìn tổng quát nội dung của Luật doanh nghiệp 2005 đã được dư luận xã
hội nói chung cũng như khối doanh nghiệp tư nhân nói riêng đồng tình ủng hộ và
đánh giá cao cho rằng việc thông qua và ban hành Luật doanh nghiệp sẽ tiếp tục
góp phần quan trọng trong việc cải thiện môi trường kinh doanh của nước ta đồng
18
thời thúc đẩy sự duy trì và phát triển các doanh nghiệp tư nhân. Mặc dù vẫn còn
tồn tại những hạn chế nhưng doanh nghiệp tư nhân đã và đang có những đóng góp
đáng kể đối với nền kinh tế. Nhà nước cần có những biện pháp thúc đẩy sự phát
triển của khu vực doanh nghiệp này.
Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề em đã hoàn thành bài tiểu luận
này. Do thời gian và kiến thức của bản thân còn nhiều hạn chế nên bài tiểu luận
của em không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận các ý kiến nhận
xét đánh giá của cô và các bạn để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn. Em
xin trân thành cảm ơn.

Bài tiểu luận đã sử dụng các tài liệu sau:
1. Luật doanh nghiệp 2005 (nhà xuất bản thống kê).
2. Giáo trình Luật kinh tế - Đại học kinh tế Quốc dân.
3. Giáo trình Luật kinh doanh - Học viện công nghệ bưu chính viễn thông.
4. Các webside: VnExpress.net, VietNamNet.vn, atpvietnam.com…
5. Các báo: Việt báo, Thời báo kinh tế Sài Gòn,…



19

×