MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................1
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TÁC ĐỘNG CẠNH
TRANH CHIẾN LƯỢC MỸ - TRUNG QUỐC TỚI CỤC DIỆN ĐỊA CHÍNH
TRỊ CHÂU Á- THÁI BÌNH DƯƠNG TỪ 2010-2020.........................................7
1.1. Cơ sở lí luận.................................................................................................7
1.2. Cơ sở thực tiễn.............................................................................................8
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA CẠNH TRANH CHIẾN
LƯỢC MỸ- TRUNG QUỐC TỚI ĐỊA- CHÍNH TRỊ KHU VỰC CHÂU ÁTHÁI BÌNH DƯƠNG TỪ 2010-2020................................................................35
2.1. Cạnh tranh tại khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương...............................35
2.2. Cạnh tranh tại khu vực Đông Nam Á........................................................39
2.3. Cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc ở Đông Bắc Á..................................51
CHƯƠNG 3 DỰ BÁO TÁC ĐỘNG VÀ ĐỐI SÁCH CỦA VIỆT NAM TRƯỚC
TÁC ĐỘNG CỦA CẠNH TRANH CHIẾN LƯỢC MỸ - TRUNG QUỐC TỚI
ĐỊA CHÍNH TRỊ KHU VỰC CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG......................59
3.1. Dự báo tác động cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc tới Việt Nam.....59
3.2. Đối sách của Việt Nam trước tác động của cạnh tranh chiến lược Mỹ Trung Quốc tới địa chính trị khu vực châu Á - Thái Bình Dương......................61
KẾT LUẬN........................................................................................................67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................68
TÓM TẮT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP......................................................71
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT – CHÚ THÍCH
CA-TBD: Châu Á- Thái Bình Dương ( Asia Pacific)
TPP: Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific
Partnership Agreement)
CTTPP: Hiệp định Đối tác Tồn diện và Tiến bộ xun Thái Bình Dương (The
Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership)
ASEAN: Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian
Nations)
COC: Bộ quy tắc ứng xừ của các bên về biển Đông (Code of Conduct)
DOC: Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (Declaration on Conduct of
the Parties in the South China Sea)
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước sang thế kỉ XXI nhất là trong những năm gần đây tình hình thế giới
và khu vực có nhiều thay đổi, biến động phức tạp. Trong quan hệ quốc tế, xuất
hiện xu hướng chuyển dịch quyền lực trên phạm vi toàn cầu từ Tây sang Đông,
dẫn đến những thay đổi về tương quan lực lượng giữa các nước lớn. Hiện nay,
khu vực châu Á- Thái Bình Dương trở thành khu vực phát triển năng động, có vị
trí địa chính trị, kinh tế, an ninh quan trọng hàng đầu trên thế giới. Tại khu vực
này xuất hiện sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, gia tăng sự tập hợp
lực lượng, điều chỉnh chiến lược làm cho hình thái cạnh tranh, hợp tác giữa các
nước lớn ngày càng quyết liệt hơn, điển hình nhất là sự cạnh tranh chiến lược
Mỹ- Trung Quốc. Về mặt chiến lược, hai nước đều có lợi ích duy trì trật tự hiện
hành. Mỹ cơng nhận vị trí nước lớn của Trung Quốc và để ngỏ dư địa chi nước
này đóng vai trị lớn hơn trong trật tự do Mỹ đứng đầu. Quan hệ Mỹ- Trung thể
hiện đầy đủ và là điển hình mối quan hệ giữa các nước lớn giai đoạn hiện nay.
Đó là, quan hệ vừa hợp tác vừa cạnh tranh gay gắt trên tất cả các lĩnh vực,
nhưng không để xảy ra chiến tranh hay xung đột lớn, mà sẵn sàng thỏa hiệp với
nhau để bảo vệ lợi ích cốt lõi của quốc gia, dân tộc. Với việc nhấn mạnh khái
niệm “ Ấn Độ Dương- Thái Bình Dương” thay cho “ Châu Á-Thái Bình Dương”
trong công bố của Tổng thống Donald Trump tại hội nghị APEC 2017 đã hé lộ
phần trong chính sách đối ngoại với châu Á của Mỹ theo hường “ cân bằng”.
Một khi cấu trúc an ninh khu vực được hình thành, sáng kiến “ Vành đai và Con
đường” do Trung Quốc thúc đẩy và chiến lược “ Ấn Độ Dương- Thái Bình
Dương” của Mỹ sẽ hình thành sự cạnh tranh lẫn nhau, cuộc đọ sức chiến lược
trên biển-đất liền truyền thống sẽ diễn ra ở ngã tư đường của châu Á- châu Đại
Dương-Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trong thời gian tới. Điều này khơng chỉ
phản ánh hình thức tập hợp lực lượng mới, mà còn nhấn mạnh tầm quan trọng
về địa chính trị trong thế giới hội nhập. Trên cơ sở nghiên cứu, những động thái
điều chỉnh chính sách nhằm gia tăng cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung
1
Quốc tại khu vực Châu Á- Thái Bình Dương đặc biệt là khu vực Đông Nam Á,
tôi chọn đề tài “Tác động của cạnh tranh chiến lược Mỹ- Trung Quốc tới cục
diện địa chính trị khu vực châu Á- Thái Bình Dương giai đoạn 2010-2020
và một số đối sách của Việt Nam”. Đề tài của tôi sẽ tập trung phân tích, đánh
giá, làm rõ tình hình cạnh tranh chiến lược giữa hai cường quốc là Mỹ và Trung
Quốc ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương và những tác động của nó tới an
ninh khu vực để giúp các nước trong khu vực, đặc biệt là Việt Nam, nhằm giảm
thiểu tối đa rủi ro, củng cố và tăng cường tốt nhất các lợi ích cho mình ở khu
vực và trên thế giới.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan :
Tác động của cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung tại ĐNA đến địa chính trị
các nước trong khu vực CA-TBD từ năm 2010 đến năm 2020 là đề tài được
giới nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Tuy nhiên, nghiên cứu về đề tài
này khơng có nhiều mà chủ yếu nghiên cứu về cạnh tranh chiến lược của Mỹ Trung ở Đông Á, biển Đông hoặc cạnh tranh chiến lược của các nước lớn ở
ĐNA. Vì vậy, cho đến nay, đề tài của khóa luận ở trong cũng như ngồi nước
chưa có cơng trình nghiên cứu nào mang tính hệ thống, khái quát về tác động
của cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ - Trung ở khu vực CA-TBD trong thập niên
thứ 2 của thế kỷ XXI. Cơng trình nghiên cứu của em chủ yếu tập trung theo 3
hướng: thứ nhất, CA-TBD trong chiến lược của Mỹ và Trung Quốc; thứ hai, tác
động của cạnh tranh chiến lược Mỹ -Trung tạiCA-TBD; thứ ba, đối sách của
Việt Nam trước ảnh hưởng của sự cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung.. Dưới đây
là một số bài nghiên cứu có liên quan đến nội dung em đang làm trong bài khóa
luận này:
Trước hết phải kể đến cơng trình nghiên cứu như: Cuốn sách chuyên khảo
“Địa chính trị thế giới” của Nguyễn Thị Quế và Ngơ Thúy Hiền (2014) [154] đã
trình bày những kiến thức cơ bản về đặc điểm địa lý tự nhiên, lịch sử và văn hóa
và q trình vận động địa - chính trị của CA-TBD, qua đó giúp tác giả khóa luận
có cơ sở phân tích, giải thích các diễn biến chính trị trên nền của các yếu tố địa
lý, sự ảnh hưởng tác động qua lại giữa yếu tố địa lý và chính trị đối với sự phát
2
triển quốc gia, khu vực. Trên tạp chí khoa học cũng có hàng loạt nghiên cứu về
lợi ích chiến lược của Mỹ và Trung Quốc như: bài “Châu Á – Thái Bình Dương
trong chiến lược của Mỹ và Trung Quốc” của Nguyễn Ngọc Ánh (2012) [7], bài
“Châu Á – Thái Bình Dương: Tâm điểm quan hệ của các nước lớn” của Nguyễn
Thành Đồng (2014) [40]. Các cơng trình khoa học này đã giúp tác giả phân tích
rõ nét hơn về các nhân tố tác động đến ảnh hưởng cạnh tranh chiến lược Mỹ Trung tại CA-TBD. Đặc biệt có khá nhiều cơng trình nghiên cứu chun sâu về
Biển Đơng như bài “Lợi ích của Mỹ ở Biển Đơng” của Phạm Thùy Trang
(2009) [201], bài “An ninh Biển Đơng nhìn từ tranh chấp lợi ích kinh tế giữa các
nước liên quan” của Đỗ Minh Cao (2010) [20], bài “Lợi ích của các cường quốc
và thể chế khu vực trong vấn đề an ninh Biển Đông” của Đỗ Minh Thái (2011)
[167] và bài “Vì sao các nước quan tâm hơn đến Biển Đơng?” của Nguyễn
Nhâm (2015) [140]. Các cơng trình nghiên cứu này đã đã đưa ra những đánh giá
về vai trò của Biển Đơng khơng chỉ liên quan đến lợi ích của các nước ASEAN
và Trung Quốc, mà còn gắn liền với lợi ích nhiều mặt của các cường quốc cũng
như nhiều nước khác ngoài khu vực, đặc biệt là Mỹ. Đây là những nghiên cứu
quan trọng giúp tác giả khái quát bối cảnh quốc tế, khu vực CA-TBD, từ đó
phân tích sâu sắc hơn lý do nào đã khiến Mỹ và Trung Quốc điều chỉnh chiến
lược ở đây tạo nên những ảnh hưởng đến hịa bình và ổn định của các quốc gia
trong khu vực.
Ngồi ra, cịn có Sách tham khảo “Quan hệ Trung - Mỹ có gì mới” của
Nguyễn Văn Lập (2001) [104], sách “Quan hệ của Mỹ với các nước lớn ở khu
vực châu Á - Thái Bình Dương” của Vũ Dương Huân (2003) [74], đề “Quan hệ
Trung - Mỹ giai đoạn 2006 - 2010: Triển vọng và tác động” của Bộ Ngoại giao
(2010) [19], tác giả Nguyễn Thái Yên Hương (2011) với cuốn sách “Quan hệ
Mỹ - Trung hợp tác và cạnh tranh luận giải dưới góc độ cân bằng quyền lực”
[85], sách “Quan hệ Mỹ - Trung Quốc: thập nên đầu thế kỷ XXI” của Lê
Khương Thùy (2012) [186]. Các tác giả đều nêu rõ quan điểm về quan hệ Trung
- Mỹ sẽ phát triển theo hình sin: quan hệ phụ thuộc, đan xen lẫn nhau giữa hợp
tác - kiềm chế, phối hợp - cạnh tranh, bạn bè - đối thủ. Các nghiên cứu này đã đề
3
cập tới quan hệ Trung - Mỹ trong giai đoạn nghiên cứu, lợi ích của hai nước ở
CA-TBD và nhấn mạnh để bảo vệ lợi ích của mình Mỹ và Trung Quốc đều coi
trọng việc lôi kéo, tập hợp lực lượng trong khu vực, tăng cường ảnh hưởng tạo
lợi thế chiến lược nhằm chi phối khống chế các quan hệ quốc tế ởkhu vực này.
Đây là những tư liệu hữu ích để tác giả hiểu rõ hơn bản chất trong quan hệ Mỹ Trung trước những biến đổi chính trị của thế giới hiện nay.
Thêm vào đó, sách “Chiến lược đối ngoại của các nước lớn và quan hệ
với Việt Nam trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI” của Nguyễn Xuân Sơn và
Nguyễn Văn Du [160]; sách “Chính sách đối ngoại của các nước lớn” của Phạm
Minh Sơn (2010) [161] đã phân tích các giai đoạn chuyển biến và sự điều chỉnh
chiến lược và quá trình triển khai của Mỹ và Trung Quốc sau chiến tranh lạnh
trong đó có khu vực ĐNA và Việt Nam. Đây là các tư liệu hữu ích giúp tác giả
có nhận định đúng hướng trước những ý đồ và mục tiêu chiến lược của Mỹ và
Trung Quốc tại ĐNA.
3. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận phân tích những nhân tố và làm rõ những tác động, ảnh hưởng
của sự cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung tại khu vực CA-TBD từ năm 2010 đến
năm 2020, đồng thời đề xuất những đối sách nhằm bảo vệ vững chắc độc lập
dân tộc và chủ quyền quốc gia của Việt Nam trong bối cảnh gia tăng can dự của
các nước lớn.. Từ đó giúp cho Việt Nam giảm thiểu tối đa rủi ro, củng cố và
tăng cường tốt nhất các lợi ích cho mình ở khu vực và trên thế giới.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Thứ nhất, làm rõ và nổi bật những nhân tố ảnh hưởng đến cạnh tranh
chiến lược Mỹ - Trung tại khu vực CA-TBD từ năm 2010 đến năm 2020.
Thứ hai, làm rõ thực trạng cạnh tranh chiến lược của Mỹ - Trung tại khu
vực CA-TBD từ năm 2010 đến năm 2020; phân tích tác động của cạnh tranh
chiến lược của Mỹ - Trung tại CA-TBD đến địa chính trị từng khu vực trong đó
có Việt Nam.
Thứ ba, rút ra những đề xuất, đối sách với Việt Nam trước ảnh hưởng
cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung.
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là tác động của cạnh tranh chiến lược
của Mỹ - Trung đến địa chính trị khu vực CA-TBD.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Khóa luận sẽ đi sâu phân tích tác động của cạnh tranh
chiến lược Mỹ - Trung tại khu vực CA-TBD.
- Phạm vi không gian: nghiên cứu tại các nước CA-TBD, tập trung chủ yếu
vào 3 khu vực Ấn Độ Dương- Thái Bình Dương, Đơng Nam Á, Đơng Bắc Á.
- Phạm vi thời gian: tập trung nghiên cứu những diễn biến diễn ra trong
thập niên thứ 2 của thế kỷ XXI (từ 2010-2020). Xuất phát từ ba lý do sau: Một
là, giai đoạn này chứng kiến nhiều biến động mới trong quan hệ quốc tế, có thể
thấy rõ như các cuộc chuyển giao quyền lực tại các nước lớn, vấn đề khủng bố,
vấn đề Brexit, Triều Tiên,…. Hai là, trong giai đoạn này, Trung Quốc trỗi dậy
nhanh chóng, cả Mỹ và Trung Quốc đều thay đổi các chiến lược, chiến thuật
trong chính sách đối ngoại nhằm lơi kéo, tập hợp lực lượng và đẩy lùi ảnh
hưởng của nước kia ra khỏi khu vực CA-TBD. Ba là, sự ra đời của các cơ chế
hợp tác, các hiệp hội diễn ra sâu sắc hơn trong khu vực CA-TBD.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử: khóa luận án đặt trong tiến trình lịch sử cụ thể,
khơng gian, thời gian là bối cảnh chung của quan hệ Mỹ - Trung, tình hình thế
giới, khu vực từ năm 2010 đến năm 2020; theo giai đoạn phát triển nhất định;
phù hợp với logic lịch sử...
- Phương pháp phân tích địa- chính trị: khóa luận được xem xét trước hết
dưới góc độ cạnh tranh địa- chính trị, cạnh tranh quyền lực trong khơng gian địa
lý tự nhiên và địa lý nhân văn của khu vực, từ đây thấy rõ lợi ích, mục tiêu chính
trị chiến lược của Mỹ - Trung tranh giành ảnh hưởng đối với khu vực.
-
Phương pháp lơgic, nghiên cứu tình huống, so sánh hệ thống: Các
nghiên cứu sẽ phải từ những thay đổi chính sách của Mỹ và Trung Quốc tại CATBD, diễn biến, sự kiện đã và đang xảy ra để phân tích được tầm ảnh hưởng của
5
cạnh tranh này đối với khu vực và từ đó rút ra được những kinh nghiệm, những
đối sách thích hợp cho các nước trong khu vực trong công cuộc xây dựng và bảo
vệ đất nước.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: được sử dụng để thu thập và đánh
giá các nguồn tài liệu liên quan đến đề tài, bao gồm văn kiện của Đảng các khóa
gần đây, nhất là khóa XII, chủ trương chính sách của Nhà nước, các cơng trình
nghiên cứu trong và ngồi nước về các chủ đề liên quan đến đề tài.
Ngồi ra tác giả khóa luận còn sử dụng phương pháp sưu tầm tư liệu, hệ
thống, đính chính, phân loại, thống kê, phương pháp liên ngành lịch sử, quan hệ
quốc tế, chính trị quốc tế được sử dụng làm phương pháp bổ trợ.
Kết cấu của khố luận
Khóa luận gồm 3 chương:
- Chương 1: : Cơ sở lí luận và thực tiễn của tác động đến cạnh tranh
chiến lược Mỹ-Trung Quốc tới cục diện địa chính trị khu vực Châu Á- Thái
Bình Dương từ 2010-2020
- Chương 2: Thực trạng tác động của cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung
Quốc tới cục diện địa chính trị khu vực Châu Á- Thái Bình Dương từ 2010-2020
- Chương 3: Dự báo và đối sách của Việt Nam trước tác động của cạnh
tranh chiến lược Mỹ-Trung Quốc tới cục diện địa chính trị khu vực Châu ÁThái Bình Dương từ 2010-2020.
6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TÁC ĐỘNG CẠNH TRANH
CHIẾN LƯỢC MỸ - TRUNG QUỐC TỚI CỤC DIỆN ĐỊA CHÍNH TRỊ
CHÂU Á- THÁI BÌNH DƯƠNG TỪ 2010-2020
\
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Cạnh tranh chiến lược
Cạnh tranh chiến lược là sự ganh đua, đấu tranh của một nước hoặc liên
minh các nước với đối thủ của mình về phương châm, phương cách, chính
sách và mưu lược được hoạch định trong một khoảng thời gian nhất định,
nhằm thực hiện các mục tiêu đã đề ra để giành phần hơn, phần thắng về vị
thế, quyền lực, sự ảnh hưởng hay lợi ích trên tồn phương diện. Cạnh tranh
giữa các nước lớn hiện nay chi phối và làm phức tạp hơn các mối quan hệ, tạo
ra những thay đổi trong hợp tác giữa các nước, nhất là các cường quốc. Điều
này đã làm tăng tính phụ thuộc giữa các nước vào nhau nhiều hơn, kéo theo
việc tập hợp lực lượng của các cường quốc đang có những thay đổi hết sức
phức tạp, gây ra những biến chuyển địa chính trị, địa kinh tế và tác động trực
tiếp đến lợi ích của các nước khác.
Lý thuyết của Chủ nghĩa Hiện thực về cạnh tranh giữa các nước lớn
cho thấy: lợi ích là yếu tố căn bản trong quan hệ quốc tế và được đảm bảo
bằng quyền lực. Quan hệ quốc tế được mô tả như một cuộc cạnh tranh giành
quyền lực giữa các nước theo đuổi lợi ích quốc gia, xung đột là bản chất của
quan hệ quốc tế. Các nước lớn ln tìm mọi cách làm thay đổi cục diện thế
giới đồng thời tác động, gây ảnh hưởng tới các nước đang phát triển, các
nước nhỏ hơn mình, hi sinh quyền lợi của các nước nhỏ để thỏa mãn quyền
lợi của các nước lớn.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về cạnh tranh chiến lược chủ yếu
dựa trên sự vận động của đấu tranh giai cấp, sự mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng với kiến thức thượng
7
tầng. Xã hội quốc tế là một hệ thống thế giới, trong đó xung đột quốc tế, hợp tác
quốc tế, cục diện thế giới v.v. cơ bản được giải quyết bởi quan hệ giữa hai giai
cấp với nhau.
1.1.1.2.
Cục diện địa chính trị
Địa - chính trị phản ánh sự kết hợp giữa những yếu tố địa lý và chính trị
để quyết định tình trạng của một quốc gia hoặc khu vực, nhấn mạnh những tác
động của địa lý trong chính trị; chiến lược ám chỉ những giải pháp toàn diện để
đạt được mục tiêu trung tâm hoặc các tài sản quan trọng mang ý nghĩa quân sự.
Ngày nay, địa chính trị được xem như là một cơng cụ của chính sách đối
ngoại nhằm giúp hiểu được các quan hệ quốc tế trong mối quan tâm đến dự báo.
Nếu ta có thói quen đánh giá vị trí chiến lược của một quốc gia theo những tiêu
chí được xác định rõ (vị trí địa lý, diện tích, quy mơ dân số, khí hậu, địa hình,
ngun liệu và trình độ phát triển cơng nghệ), thì địa chính trị đi xa hơn và đề ra
phân tích những quan hệ quốc tế giữa các quốc gia. Từ đó ta có thể nhận diện
các tác nhân và thách thức về quyền lực bên trong một vùng đất nhất định,
chẳng hạn như dựa vào các bản đồ và thống kê. Như vậy, địa chính trị thường là
một tiền đề cho địa chiến lược.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tình hình thế giới giai đoạn 2010-2020
Bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, bối cảnh quốc tế cũng như
từng khu vực có rất nhiều biến động lớn, làm cho cục diện quốc tế thay đổi cơ
bản, nhanh chóng. Đây được coi là giai đoạn bản lề cho việc hình thành một trật
tự thế giới mới. Những sự kiện lớn diễn ra từ năm 2009 đến nay đã phác họa
một trật tự thế giới đa cực được thể hiện ngày càng rõ cùng vai trò nổi lên của
nhiều nước. Đó là những nhân tố quan trọng, tác động trực tiếp tới cục diện
quốc tế nói chung, tới quan hệ giữa hai nước Mỹ và Trung Quốc nói riêng, đặc
biệt trong bối cảnh hai nước này đang cạnh tranh chiến lược gay gắt tại khu vực
châu Á - Thái Bình Dương.
1.2.1.1. Về tình hình kinh tế
Trong thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, chứng kiến một số “điểm sáng”
của sự hội nhập, hợp tác khu vực, liên khu vực và quốc tế diễn ra sôi động với
8
nhiều hình thức, trên nhiều lĩnh vực và ở nhiều cấp độ khác nhau, được chú ý
như hợp tác trong Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) gồm Nga, Trung Quốc,
Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan và Uzbekistan năm 2014; Hiệp định Đối tác
Tồn diện và Tiến bộ xun Thái Bình Dương (CPTPP) năm 2018 là một hiệp
định mang tính lịch sử, bởi CPTPP là hiệp định thương mại quy mô lớn và được
chính giới nhiều nước quan tâm trong vịng hai thập kỷ qua... Mặc dù vậy, bức
tranh kinh tế thế giới vẫn là những đường nét và màu sắc ảm đạm.
Kinh tế thế giới vẫn đứng trước 3 mối đe dọa lớn là: khủng hoảng nợ công
ở châu Âu, kinh tế Mỹ suy giảm và kinh tế các nước thuộc nhóm các nền kinh tế
mới nổi (BRICS) - vốn là đầu tàu thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu, đều
đã không giữ được “phong độ”, tăng trưởng chậm, thậm chí sụt giảm - đây chính
là “ngịi nổ” dẫn đến suy thối kinh tế tồn cầu.
Kinh tế thế giới sau khi bắt đầu lấy lại đà tăng trưởng đạt mức 5,1% trong
năm 2010 đã nhanh chóng giảm sâu xuống cịn 3,9% vào năm 2011. Đà sụt
giảm này tiếp tục kéo dài sang hai năm tiếp theo với mức tăng trưởng rơi xuống
còn 3,2% trong 2 năm 2012 – 2013. Tăng trưởng chỉ bắt đầu có dấu hiệu phục
hồi trở lại với mức tăng nhẹ ước đạt khoảng 3,4% vào năm 2014, và đạt khoảng
3,9% vào năm 20151. Giai đoạn từ 2015 đến 2018, trước thời điểm xảy ra cuộc
chiến thương mại Mỹ - Trung, nền kinh tế thế giới đã phục hồi và tiến triển theo
chiều hướng tích cực. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, tốc độ tăng trưởng
trung bình của nền kinh tế thế giới trong giai đoạn 2015-2018 đối với nhóm các
nước có thu nhập cao, tốc độ tăng trưởng GDP đạt khoảng 1,88%, còn đối với
nhóm nước có thu nhập trung bình và thấp, tốc độ tăng trưởng trung bình đạt
khoảng 4,77%. Như vậy, có thể thấy đến thời điểm năm 2015-2018 tăng trưởng
kinh tế toàn cầu hiện vẫn đang ở mức thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng
trung bình đạt xấp xỉ 5% giai đoạn trước khủng hoảng tài chính tồn cầu.2
1
Phịng Nghiên cứu Phát triển Ngân hàng Trung Ương Viện Chiến lược Ngân hàng- “Diễn biến chính của kinh
tế thế giới giai đoạn 2011 – 2015 và những tác động đối với thị trường tài chính tiền tệ”, số 18/5/2015
2
Báo điện tử Chính phủ nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam- “Kinh tế Việt Nam 2016-2019 và định
hướng 2020”, số ra 28/1/2019
9
Cuộc khủng hoảng di cư lớn nhất ở châu Âu trong gần một thế kỷ trở lại
đây là hệ lụy của nạn khủng bố lan rộng và cuộc chiến chống Nhà nước Hồi giáo
tự xưng (IS) của các nước Mỹ, Anh cùng cộng đồng quốc tế bắt đầu từ tháng
8/2014. Dịng người di cư từ các nước Trung Đơng - Bắc Phi ồ ạt tràn vào bờ
biển Địa Trung Hải, ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế của nhiều nước châu Âu
như: Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Italy, Đức, Áo, Serbia, Hungary và Pháp...
Sự kiện nổi bật của kinh tế thế giới - Brexit. Kết quả của cuộc trưng cầu
dân ý ngày 23/6/2016 của nước Anh đã làm nên một cuộc chia tay lịch sử, tạo ra
cơn chấn động, dẫn đến hiện tượng Brexit trong EU. Ngày 29/3/2017, nước Anh
chính thức kích hoạt Điều 50, bắt đầu q trình đàm phán rời EU. Thị trường thế
giới đã trải qua cơn “sang chấn” mạnh, chỉ đứng sau năm 2008. Đồng Eurozone
đang lung lay, đồng USD và hàng loạt các đồng tiền khác trên thế giới, nhất là
châu Á đều trượt giá... Brexit không những sẽ tiếp tục tác động tiêu cực mạnh
mẽ không chỉ với nền kinh tế Anh mà còn với nhiều nền kinh tế châu Âu và kinh
tế tồn cầu.
Làn sóng bảo hộ mậu dịch đang có xu hướng gia tăng trên toàn thế giới.
Các biện pháp bảo hộ thương mại trong nhóm G20 đã tăng lên mức cao nhất
trong vòng vài năm qua, kim ngạch thương mại toàn cầu đã giảm xuống lần đầu
tiên vào năm 2016, trong 6 năm trở lại đây, dưới mức 7.000 tỉ USD.
Kinh tế thế giới cũng bị ảnh hưởng nặng nề từ những vấn đề toàn cầu. Số
liệu từ Diễn đàn các nước dễ bị tổn thương vì biến đổi khí hậu cho thấy: Mỗi
năm, biến đổi khí hậu là tác nhân khiến 40.000 người thiệt mạng, thiệt hại kinh
tế lên đến 1.200 tỷ USD, tương đương 1,6% GDP hàng năm của thế giới 3 Dự
báo đến năm 2030, thiệt hại kinh tế sẽ cịn tăng gấp đơi. Nợ doanh nghiệp ở các
nước đang phát triển tăng cao, bất ổn trên các thị trường tài chính gia tăng, thiên
tai và các bệnh dịch nguy hiểm hoành hành... vẫn là những tác nhân chính,
những mối nguy hại ảnh hưởng trực tiếp khiến kinh tế thế giới chưa vượt qua
giai đoạn trì trệ.
33
Bnews- “Biến đổi khí hậu: Kinh tế tồn cầu thêm liêu xiêu”, số 16/3/2016
10
Đặc biệt, một sự kiện quan trọng đó là cuộc Chiến tranh thương mại Mỹ Trung Quốc chính thức nổ ra từ ngày 22/3/2018 và tiếp tục diễn biến căng thẳng
cho tới thời điểm hiện tại năm 2020. Tổng thống Mỹ Donald Trump tuyên bố
đánh thuế 50 tỷ USD đối với hàng hóa Trung Quốc xuất khẩu vào Mỹ, để ngăn
chặn những gì họ cho là hành vi thương mại khơng cơng bằng và hành vi trộm
cắp tài sản trí tuệ. Từ đó đến nay, sự leo thang căng thẳng giữa hai nền kinh tế
lớn nhất thế giới đã vượt qua biên giới hai nước, tác động mạnh mẽ tới nền kinh
tế tồn cầu. Và tình hình hiện nay cho thấy, căng thẳng thương mại vẫn còn tiếp
diễn, ngày càng gay gắt và chưa có dấu hiệu sẽ dừng lại.
Dễ dàng thấy rằng, thập niên thứ 2 của thế kỷ XXI là nguyên nhân chủ
đạo khiến giới phân tích cho rằng kinh tế - tài chính tồn cầu vẫn tiếp tục bất ổn,
còn nhiều yếu tố tiềm ẩn. An ninh kinh tế tồn cầu đang chịu tác động mạnh của
dịng “xốy ngược” (chống tồn cầu hóa và bảo hộ mậu dịch) ở Mỹ và châu Âu
- những trung tâm kinh tế thế giới, khiến cho bức tranh kinh tế - tài chính tồn
cầu tiếp tục ảm đạm với nhiều biến số khó lường.
1.2.1.2.
Về tình hình chính trị
Tình hình chính trị thế giới trong thập niên thứ hai của thế kỉ XXI chứng
kiến nhiều biến động với cục diện cạnh tranh khốc liệt giữa các nước lớn. Nhìn
chung, bức tranh tồn cảnh thế giới phản ánh sự chuyển dịch sức mạnh của các
quốc gia, trong đó Mỹ và Tây Âu suy yếu tương đối, Trung Quốc vươn lên
mạnh mẽ, Nga nỗ lực khơi phục vị trí cường quốc hàng đầu của mình, đặc biệt
nổi lên những vấn đề sau:
Các cuộc bầu cử và chuyển giao quyền lực
Có thể thấy, bao trùm bầu khơng khí của tình hình thế giới từ thập niên
thứ hai của thế kỷ mới đến nay là dấu ấn của những cuộc bầu cử và những cuộc
chuyển giao quyền lực quan trọng ở nhiều nước. Đáng chú ý sự chuyển giao
quyền lực ở 3 nước lớn: Nga, Trung Quốc đều diễn ra trong năm 2012, Mỹ năm
2012 và 2016, ở Pháp và Hàn Quốc diễn ra vào năm 2012 và 2017.
11
Tại Nga: kết quả cuộc bỏ phiếu ngày 4/3/2012, ông V. Putin được bầu
làm tổng thống Nga với nhiệm kỳ 6 năm để cải cách và duy trì ổn định tình hình
đất nước;
Tại Mỹ: Tổng thống Mỹ B. Obama đắc cử nhiệm kỳ 2. Đến cuối năm
2016, nước Mỹ có sự thay đổi quyền lực khá bất ngờ. Ông Donald Trump - một
đại doanh nhân, đã trở thành chủ nhân tiếp theo của Nhà Trắng trong cuộc bầu
cử tổng thống Mỹ ngày 19/12/2016;
Tại Trung Quốc: Đại hội 18 Đảng Cộng sản Trung Quốc (11/2012) được
coi là cuộc chuyển giao thế hệ lãnh đạo lớn nhất trong 30 năm qua. Tổng bí thư
Đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình giữ vai trò lãnh đạo Trung Quốc
trong giai đoạn mới;
Tại Pháp: ngày 6/5/2012, ông Francois Hollande thuộc đảng Xã hội đắc
cử Tổng thống Pháp với khẩu hiệu “tăng trưởng”. Cánh tả trở lại chính trường
Pháp sau 17 năm vắng bóng. Ngày 7/5/2017, nước Pháp hiện đang hứa hẹn sang
một trang mới với nhiều bất ngờ mới bởi ông Emmanuel Macron - đại diện cho
Phong trào Tiến bước (En Marche) do chính ông sáng lập, đã đắc cử Tổng
thống;
Tại Nhật Bản: Đảng Dân chủ tự do (LDP) đã giành chiến thắng trong
cuộc bầu cử Hạ viện (ngày 16/12/2012), ông Shinzo Abe trở lại nhiệm kỳ hai để
giải quyết các thách thức về kinh tế và mối quan hệ với Trung Quốc;
Tại Hàn Quốc: năm 2012, Hàn Quốc có nữ tổng thống đầu tiên trong lịch
sử, bà Park Gyun Hye. Tuy nhiên, bà Park đã dính vào những bê bối tham nhũng
liên quan đến doanh nghiệp lớn và đã bị Tòa án Hiến pháp Hàn Quốc phế truất
vào ngày 10/3/2017, bà buộc phải rời khỏi cương vị khi chưa hết nhiệm kỳ. Hai
tháng sau, ngày 10/5/2017, ông Moon Jae-in, thuộc đảng Dân chủ tự do, đã đắc
cử Tổng thống, thay thế vị trí của bà Park Gyun Hye.
Tại CHDCND Triều Tiên: chỉ sau 2 ngày, ngay sau khi thông cáo về sự ra
đi của lãnh tụ Kim Jong II, ngày 19/12/2011, Kim Jong Un chính thức lên nắm
quyền lãnh đạo Nhà nước CHDCND Triều Tiên, trở thành “người kế thừa vĩ
đại”. Ngày 29/12/2011 Kim Jong Un tấn chức lên làm tư lệnh tối cao của QuẤn
12
Đội Nhân dân Triều Tiên. Chưa đầy 30 tuổi, Kim Jong Un tự tuyên bố là “Lãnh
đạo Tối cao” của CHDCND Triều Tiên và trở thành nhà lãnh đạo trẻ tuổi nhất
thế giới.
Chủ nghĩa khủng bố mới - Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS)
Những năm qua, an ninh, hòa bình thế giới bị thách thức nghiêm trọng
nhất, kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc đến nay. Bởi sau nhiều năm, chủ nghĩa
khủng bố tưởng chừng đã bị đánh quỵ, thì năm 2014 chủ nghĩa này lại có biến
thể mới, tàn bạo và nguy hiểm hơn, một tổ chức khủng bố mới đã hình thành Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS). Với tư tưởng thánh chiến cực đoan: “thế giới là
của người Hồi giáo, các tín đồ Hồi giáo phải chiến đấu để chiếm hữu toàn thế
giới”, IS thu hút được nhiều tín đồ ở các nơi trên thế giới. Điều đó tạo điều kiện
để tổ chức này không chỉ hoạt động mạnh ở Trung Đông - Bắc Phi mà còn bành
trướng sang các khu vực khác trên thế giới.
Cuộc chiến chống khủng bố đã và đang trở thành vấn đề có tính tồn cầu,
địi hỏi sự nỗ lực của rất nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế. Trong đó, sự
điều chỉnh chiến lược chống khủng bố, với những chiến dịch tập trung chống IS
ở Syria của Mỹ và Nga cùng với nhiều nước khác được coi là sự kiện chính trị quân sự nổi bật nhất.
Khủng hoảng chính trị ở Ukraine, quan hệ Nga - phương Tây rạn
nứt
Châu Âu chứng kiến sự căng thẳng trong quan hệ Nga - phương Tây
nghiêm trọng nhất kể từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay. Đó là sự kiện khủng
hoảng chính trị ở Ukraine, tạo “cú sốc” trong cạnh tranh địa - chính trị giữa Nga
với Mỹ và phương Tây. Đặc biệt, quyết định sáp nhập Crưm của Nga khiến
quan hệ Nga - Ukraine hết sức căng thẳng. Mỹ và phương Tây coi việc này là
“không thể chấp nhận được” cho nên đã liên tiếp tiến hành và không ngừng gia
tăng các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Nga với những bước ngoặt mới,
phức tạp và ngày càng căng thẳng hơn.
Cuộc khủng hoàng di cư lớn nhất ở châu Âu
13
Một làn sóng di cư bất thường, ồ ạt, quy mô lớn, từ Bắc Phi - Trung Đông
tới các nước châu Âu do các tổ chức phi chính phủ ở Mỹ và Anh tài trợ và tổ
chức thực hiện đã tạo nên cơn khủng hoảng về di cư, gây ra những nguy cơ bất
ổn về an ninh, xung đột về văn hóa và tơn giáo... càng làm cho tình hình EU
thêm căng thẳng và rơi vào tình thế “tiến thối lưỡng nan” khi những giá trị và
lợi ích châu Âu đặt ra cách đây hơn 60 năm bị lung lay.
Vấn đề biển Đơng được quốc tế hóa
Vấn đề biển Đông tiếp tục là tâm điểm tập hợp lực lượng và đấu tranh
giữa các nước lớn ở khu vực. Đặc biệt, những diễn biến trên biển Đông từ năm
2012 đến nay cho thấy tình hình hết sức phức tạp, bản chất của vấn đề tranh
chấp trên biển Đông đã thay đổi rất nhiều, đó khơng chỉ là tranh chấp chủ quyền
lãnh thổ giữa một số nước trong khu vực với Trung Quốc, mà thực sự trở thành
nơi cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn. Sau khi nhóm G7 ra tuyên bố về
biển Đông, vấn đề này đã được quốc tế hóa ở mức rất cao, có bước ngoặt lớn về
pháp lý và chính trị. Tuy nhiên, trên thực tế, tình hình vẫn khơng có nhiều thay
đổi. Trung Quốc vẫn có các hành động leo thang mới trong q trình qn sự
hóa và lấn chiếm trái phép ở biển Đơng.
1.2.2. Tình hình khu vực Châu Á- Thái Bình Dương giai đoạn 20102020
1.2.2.1. Tình hình kinh tế
Bức tranh kinh tế khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (CA-TBD) nổi lên
bốn điểm đáng chú ý sau:
Một là, tăng trưởng kinh tế của cả khu vực chỉ đạt khoảng 5,25% trong
năm 2016 4. Nguyên nhân chủ yếu là do bị tác động bởi kinh tế thế giới phục hồi
chậm hơn dự kiến, thương mại toàn cầu suy giảm và chủ nghĩa bảo hộ đang gia
tăng. Tuy nhiên, điểm tích cực được ghi nhận là nhu cầu nội tại đang và sẽ tiếp
tục trở thành động lực tăng trưởng quan trọng cho cả khu vực.
4
Vũ Khoan - “Dự báo một số nét về chiều hướng vận động của tình hình thế giới trong 5-10 năm nữa và
những vấn đề đặt ra cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc”, 15/7/2020- Tạp chí Cộng Sản
14
Hai là, kinh tế Trung Quốc đang trong thời kỳ quá độ chuyển sang giai
đoạn tăng trưởng mới với ba đặc điểm chính là tăng trưởng chậm lại, cân bằng
hơn và bền vững hơn.
Ba là, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch và xu hướng chống tồn cầu hóa đang
gia tăng rõ rệt. Đặc biệt, sau bầu cử ở Mỹ (11-2016), Tổng thống mới đắc cử
Donal Trump tuyên bố rút khỏi hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP
và đe dọa đánh thuế 45% đối với hàng hóa nhập khẩu của Trung Quốc, kêu gọi
đầu tư vào Mỹ, kêu gọi các doanh nghiệp Mỹ đang hoạt động ở nước ngoài về
nước, đồng thời sẽ gia tăng các biện pháp kiểm soát biên giới, kiểm soát nhập
cư... Điều này đang và sẽ tác động mạnh tới nhiều đối tác ở khu vực và trên thế
giới.
Bốn là, giá dầu thế giới trong vài năm gần đây cơ bản ổn định ở mức thấp.
Điều này, về cơ bản, có lợi cho nền kinh tế khu vực.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở khu vực CA-TBD vẫn đạt mức cao từ 20152018 và cho thấy đây là khu vực phát triển nhanh nhất thế giới. Một số điểm
sáng sau đây đáng để kì vọng các nền kinh tế châu Á vẫn sẽ giữ vai trò đầu tàu
của kinh tế thế giới:
Thứ nhất, trong những năm tới kinh tế Trung Quốc vẫn trên đà suy giảm
nhưng mức độ sẽ giảm dần.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế khu vực CA-TBD sẽ được tạo ra chủ yếu từ
các nền kinh tế đang tiếp tục phát triển mạnh mẽ, được hưởng lợi từ những nỗ
lực cải cách của các chính phủ trong thời gian tới.
Thứ ba, từ bài học kinh nghiệm xương máu do khủng hoảng tiền tệ khu
vực năm 1998, CA-TBD đã có các biện pháp để ngăn chặn, giảm thiểu tác động
rủi ro tài chính và tăng cường khả năng phục hồi khi bị tác động từ bên ngoài.
Sự hội nhập kinh tế khu vực ngày càng được đẩy mạnh, các thị trường kinh tế
khu vực ngày càng được gắn kết với nhau qua sự phát triển của các chuỗi giá trị
toàn cầu, các hiệp định thương mại tự do, đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng
được đẩy mạnh.
15
Thứ tư, khu vực này còn rất nhiều tiềm năng và cơ hội để có thể bắt kịp
các nước tiên tiến. Trong năm 2015, thu nhập bình quân đầu người của các quốc
gia khu vực đạt 4.796 USD so với mức thu nhập bình qn đầu người của tồn
thế giới là 10.139 USD và so với các nước thuộc khối Tổ chức Hợp tác và Phát
triển Kinh tế (OECD) là 35.768 USD.5
Thứ năm, Trong xu thế vận động của thế giới năm 2018, vị thế “trung
tâm” toàn cầu của khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục được duy trì và
phát triển. Sự gián đoạn trong chuỗi cung ứng cùng những thay đổi về sản xuất,
các nguồn lực được phân bổ lại giữa các lĩnh vực và các quốc gia tại khu vực
châu Á - Thái Bình Dương do căng thẳng thương mại Mỹ - Trung Quốc đã
khiến hàng chục triệu người bị mất việc làm và buộc phải tìm cơng việc mới.
Tăng trưởng thương mại của khu vực châu Á - Thái Bình Dương chậm lại sau
nửa đầu năm 2018. Tuy nhiên, triển vọng kết thúc đàm phán thỏa thuận thương
mại lớn ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, như Hiệp định Đối tác kinh tế
toàn diện khu vực (RCEP) giữa ASEAN và 06 đối tác gồm Australia, Trung
Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand và Hàn Quốc có thể bù đắp phần lớn
thiệt hại kinh tế do căng thẳng thương mại Mỹ - Trung Quốc gây ra.
Với sự dịch chuyển sang nền kinh tế dịch vụ, các nước mới nổi và đang
phát triển ở khu vực đang nằm trong danh sách các nền kinh tế tăng trưởng
mạnh nhất toàn cầu với mức tăng trưởng dự báo tăng cao. Các quốc gia đông
dân nhất thế giới, như Trung Quốc, Ấn Độ đang có tốc độ tăng trưởng kinh tế
nhanh nhất thế giới. Những thị trường tăng trưởng mới này là động lực cho các
xu hướng lớn nhất trong cơng nghệ, thương mại và tài chính. Trong xu thế phát
triển chung, châu Á - Thái Bình Dương hiện có vai trị và tác động tích cực cho
sự tăng trưởng chung của nền kinh tế toàn cầu. Theo Cơng ty kiểm tốn PwC,
đến năm 2050, nền kinh tế Trung Quốc sẽ có trị giá 58.000 tỷ USD, Ấn Độ là
44.000 tỷ USD, Mỹ: 34.000 tỷ USD. 6 Với lực lượng lao động lớn thứ 3 trên thế
giới, 10 nước thành viên của ASEAN được dự báo sẽ là nền kinh tế lớn thứ 4
trên thế giới.
5
6
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD)- “Báo cáo triển vọng kinh tế thế giới”, tháng 1/2016
Tạp chí Cộng sản-“ Cục diện thế giới 2018 và triển vọng 2019”, số 3/4/2019
16
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, tăng trưởng kinh tế ở khu vực châu Á Thái Bình Dương cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, như chênh lệch giàu - nghèo khá
cao, nhất là tại Trung Quốc và Ấn Độ; bẫy “thu nhập trung bình” sau một thời
gian tăng trưởng nhanh bị chững lại, hoặc ngăn cản khả năng cải thiện nâng cao
mức sống ngang bằng với các quốc gia phát triển; vấn đề cạnh tranh - ảnh hưởng
của quá trình tồn cầu hóa đến tác động của xu thế bảo hộ thương mại đang trỗi
dậy…
Với những cải cách và việc thực thi các chính sách có hiệu quả, CA-TBD
sẽ vẫn là khu vực có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới, hồn tồn có thể
tiếp tục là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu và được dự báo sẽ
vượt Tây Âu trở thành khu vực giàu thứ hai trên tồn cầu, chỉ sau Bắc Mỹ.
1.2.2.2. Tình hình chính trị
Năm 2012 có thể được gọi là “Năm châu Á - Thái Bình Dương” bởi sự
lên ngơi rõ nét của khu vực. Tổng thống Mỹ Barak Obama chính thức tuyên bố
Mỹ sẽ chuyển trọng tâm chiến lược toàn cầu từ châu Âu - Đại Tây Dương sang
CA-TBD (4/1/2012). Cho đến nay, khu vực CA-TBD vẫn đóng vai trị quan
trọng trong hoạch định chính sách của mỗi nước, vẫn sẽ là đấu trường cạnh
tranh ảnh hưởng quyết liệt giữa các cường quốc. Xu thế vừa hợp tác vừa đấu
tranh vẫn được cho là nét chính của cục diện khu vực, với hai nhân vật chính là
Mỹ và Trung Quốc, nhưng sẽ xuất hiện những sự kiện và nhân tố mới.
Châu Á - Thái Bình Dương là chiến lược xoay trục của các nước lớn
Với Mỹ, CA-TBD vẫn là khu vực để tiếp tục thúc đẩy chiến lược tái cân
bằng, tăng cường đầu tư và mở rộng căn cứ quân sự nhằm vào các quốc gia mới
nổi để duy trì ưu thế quân sự của Mỹ ở khu vực này. Mặc dù Tổng thống Trump
có ý định điều hành chính sách đối ngoại của Mỹ theo cách hồn tồn khác so
với người tiền nhiệm và đã tuyên bố Mỹ rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP), song với những gì đang diễn ra, đã khẳng định Mỹ còn gắn
chặt với CA-TBD.
Với Nga, sự điều chỉnh trong quan hệ đối tác với ASEAN là một trong
những ưu tiên trong chính sách của Nga ở CA-TBD. Bởi Nga và ASEAN có
17
quan hệ gắn kết với nhau dựa trên nền tảng lịch sử bền vững, sự gần gũi hoặc
trùng hợp về quan điểm đối với nhiều vấn đề toàn cầu và khu vực, tạo khả năng
to lớn để hai bên cùng phối hợp hoạt động trong các công việc quốc tế. Tại Hội
nghị cấp cao ASEAN - Nga, kỷ niệm 20 năm quan hệ đối tác đối thoại, được tổ
chức tại Sôchi (Nga) tháng 5-2016, hai bên đã đề ra khuôn khổ hợp tác mới để
đưa mối quan hệ đi vào chiều sâu, hướng tới quan hệ đối tác chiến lược trong
tương lai.
Với Nhật Bản, ngày 01/7/2014 là dấu mốc quan trọng trong q trình điều
chỉnh chính sách quốc phịng của Nhật Bản để trở thành một “quốc gia bình
thường”. Nhật Bản đã xây dựng Đạo luật an ninh mới có hiệu lực từ ngày 28-32016. Theo Đạo luật này, lần đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội
Nhật Bản được phép tham gia các hoạt động quân sự ở nước ngồi. Sự điều
chỉnh này sẽ có tác động tới cục diện chính trị - quân sự khu vực và thế giới.
Với Ấn Độ, “Chính sách hướng Đơng” là một trong những điều chỉnh
chính sách đối ngoại quan trọng thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh, được cơng bố
chính thức vào năm 1992, nhằm tăng cường quan hệ với các nước ở CA-TBD.
Năm 2014, chính sách “Hành động phía Đơng” đã được đưa ra thay cho “Chính
sách hướng Đơng”. Hiện nay, Ấn Độ cơng khai khẳng định lợi ích của mình ở
biển Đơng thể hiện trên cả khía cạnh kinh tế và an ninh.
Với Trung Quốc, sự điều chỉnh chiến lược của Trung Quốc liên quan tới
CA-TBD được thể hiện trong chính sách đối ngoại theo hướng tấn cơng các
nước láng giềng bằng lợi ích kinh tế và thái độ hịa hỗn hơn, triển khai chiến
lược “Một vành đai, một con đường” và sự điều chỉnh chiến lược quốc phòng
của nước này. Trong các nước đối tác, Trung Quốc tập trung vào hai đối tượng
là các nước láng giềng và các nước lớn. Với các nước láng giềng, Trung Quốc
cho rằng đang tích tụ nhiều vấn đề cần giải quyết và là một trong những lý do
chủ yếu dẫn đến sự điều chỉnh chính sách ngoại giao với các nước này. Trung
Quốc chủ trương liên thông ngoại giao láng giềng tại sáu địa bàn gồm Đông Bắc
Á, Đông Nam Á, Nam Á, Trung Á, Tây Á và Nam Thái Bình Dương; kết hợp
điều phối bốn mặt tư duy ngoại giao láng giềng giữa “đột phá trên biển” và “tích
18