Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Công tác kiểm tra của ủy ban kiểm tra huyện ủy ở tỉnh bắc giang giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.15 KB, 38 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: CÔNG TÁC KIỂM TRA GIÁM SÁT VÀ KỶ LUẬT ĐẢNG

Đề tài:
CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ỦY BAN KIỂM TRA HUYỆN ỦY
Ở TỈNH BẮC GIANG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
II. NỘI DUNG..................................................................................................4
2.1. Công tác kiểm tra của ủy ban kiểm tra huyện ủy tỉnh Bắc Giang giai đoạn
hiện nay - những vấn đề lý luận và thực tiễn...................................................4
2.2. Thực trạng công tác kiểm tra của ủy ban kiểm tra huyện ủy ở tỉnh Bắc
Giang..19
2.3 Bài học kinh nghiệm và giải pháp cho công tác kiểm tra của UBKT huyện
ủy ở tỉnh Bắc Giang.........................................................................................32
III. KẾT LUẬN..............................................................................................34
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................35


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BCH
BTV
HTCT
MTTQ
UBKT
XHCN

Ban chấp hành


Ban thường vụ
Hệ thống chính trị
Mặt trận Tổ quốc
Ủy ban kiểm tra
Xã hội chủ nghĩa


I. MỞ ĐẦU
Học thuyết Mác - Lênin về chính đảng của giai cấp cơng nhân đã khẳng
định: chính đảng ra đời là một tất yếu lịch sử, là đòi hỏi tất yếu của cuộc đấu
tranh giai cấp, cần có lực lượng lãnh đạo giai cấp thực hiện thắng lợi sứ mệnh
lịch sử thế giới của giai cấp mình. Như vậy, lãnh đạo là chức năng bao trùm
của Đảng, chức năng ấy được quy định ngay từ trong quy luật ra đời của
Đảng. Qua thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã rút ra bài học quý báu
mang tính quy luật, đó là: đã lãnh đạo thì phải có kiểm tra. Lãnh đạo mà
khơng có kiểm tra thì coi như khơng có lãnh đạo. Đây là vấn đề có tính
ngun tắc vừa là chức năng đồng thời vừa là trách nhiệm, phương pháp, là
khâu quan trọng trong quá trình lãnh đạo của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nói: “Cơng việc của Đảng và Nhà nước ngày càng nhiều. Muốn hồn thành
tốt mọi việc, thì tồn thể đảng viên và cán bộ phải chấp hành nghiêm chỉnh
đường lối và chính sách của Đảng. Và muốn như vậy, thì các cấp ủy Đảng
phải tăng cường công tác kiểm tra”[8, tr300].
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta đang đứng trước thời cơ và
thách thức mới; bốn nguy cơ đã và đang đe dọa tới sự tồn vong của Đảng và
của chế độ XHCN. Khơng có con đường nào khác, Đảng phải tự đổi mới, tự
chỉnh đốn, vươn lên ngang tầm của một Đảng cầm quyền, xây dựng đất nước
theo định hướng XHCN. Trong bối cảnh đó, cơng tác kiểm tra càng có vị trí
và tầm quan trọng. Đặc biệt từ khi đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đã có nhiều vấn đề mới phức tạp nảy sinh, vì vậy đối tượng, phạm vi,
nội dung lãnh đạo của Đảng ngày càng rộng, đa dạng và phức tạp hơn. Trong

Đảng đã xuất hiện những yếu kém, bất cập, chưa được ngăn chặn và đẩy lùi.
Tình trạng suy thối về chính trị, tư tưởng đạo đức, lối sống trong một bộ
phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan
liêu, những tiêu cực và tện nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn
tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém
1


trong quản lý, điều hành nhiều cấp, nhiều ngành giảm lòng tin của nhân dân
đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước. [2,
tr.173]
Từ những bất cập yếu kém trên, cùng với tình hình thực tiễn đặt ra địi
hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung và mỗi chi, đảng bộ, đảng viên nói
riêng phải làm tốt cơng tác kiểm tra, đặc biệt là công tác kiểm tra của UBKT
cấp huyện cần được nhận thức và thực hiện đúng. Công tác kiểm tra, của
Đảng được coi trọng, chất lượng, hiệu quả được nâng lên. Cấp ủy đảng các
cấp đã chỉ đạo thực hiện có kết qủa việc kiểm tra thực hiện nghị quyết, chỉ thị
của Đảng; các chương trình, dự án; quản lý và sử dụng đất đai, đầu tư xây
dựng cơ bản; chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm và công tác cán
bộ; xử lý nghiêm tổ chức đảng, đảng viên có sai phạm, tăng cường kỷ luật, kỷ
cương, thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị. Chức năng, nhiệm vụ thẩm
quyền, tổ chức bộ máy điều kiện họat động của ủy ban kiểm tra và cơ quan ủy
ban kiểm tra các cấp tiếp tục được làm rõ. [2, tr 164]
Bắc Giang là 1 tỉnh trung du miền núi, toàn tỉnh có 10 huyện, thành phố.
Là tỉnh nằm trên hành lang kinh tế Lạng Sơn - Hà Nội và gần khu vực kinh tế
phát triển năng động Hà Nội - Hải Phịng- Quảng Ninh, có tốc độ phát triển
kinh tế - xã hội khá nhanh, thu hút các dự án đầu tư khá cao. Các huyện,
thành phố của tỉnh là nơi trực tiếp chỉ đạo các cấp đảng bộ, chính quyền cơ sở
quản lý, giáo dục đội ngũ đảng viên. Nền kinh tế của tỉnh đang phát triển và
hội nhập, đồng thời cũng đã và đang xảy ra các hiện tượng cán bộ, đảng viên

tiêu cực, thối hóa, biến chất về phẩm chất đạo đức và phong cách làm việc,
nhất là trên lĩnh vực quản lý đất đai, xây dựng cơ sở hạ tầng, thu chi ngân
sách, quản lý xã hội. Trước tình hình đó, vai trị của UBKT Đảng các cấp mà
đặc biệt là UBKT huyện ủy và UBKT thành ủy rất quan trọng, bởi vì góp
phần ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực. Tuy vậy nhận thức của một số cấp ủy đảng,
tổ chức đảng, đảng viên hiện nay về vị trí, vai trị của cơng tác kiểm tra của
Đảng chưa thật đầy đủ. Việc thực hiện một số nhiệm vụ, quy định mới của
2


Đảng về kiểm tra còn lúng túng, hiệu qủa chưa cao. Số đảng viên bị kỷ luật
không giảm, xử lý kỷ luật có trường hợp chưa nghiêm, chưa kịp thời. UBKT
và cán bộ kiểm tra ở một số huyện chưa đủ mạnh, chưa ngang tầm với nhiệm
vụ, chưa bám sát cơ sở, địa bàn, lĩnh vực, dẫn đến để vi phạm kéo dài, làm
cho tình hình trở lên phức tạp, gây hậu quả nghiêm trọng.
Vì vậy, nếu cơng tác kiểm tra của UBKT cấp ủy cấp huyện trong tỉnh
không được coi trọng và đổi mới sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đế uy tín và sức
mạnh của Đảng bộ cấp huyện, thành phố nói riêng và Đảng bộ tỉnh nói chung,
nhiệm vụ chính trị ở địa phương vì thế cũng khó đạt được kết quả cao. Vì thế,
phải đổi mới công tác kiểm tra của UBKT huyện ủy cho theo kịp với nhiệm
vụ xây dựng Đảng các cấp của tỉnh nhà trong tình hình mới.
Với đề tài: “Cơng tác kiểm tra của ủy ban kiểm tra huyện ủy ở tỉnh Bắc
Giang giai đoạn hiện nay”. Tơi mong muốn góp phần dù là rất nhỏ bé vào
việc giải quyết nhiệm vụ vừa là cơ bản vừa cấp bách nói trên.

3


II. NỘI DUNG
2.1. Công tác kiểm tra của ủy ban kiểm tra huyện ủy tỉnh Bắc Giang giai

đoạn hiện nay - những vấn đề lý luận và thực tiễn
2.1.1. Khái niệm và vai trị của cơng tác kiểm tra đối với công tác xây dựng
Đảng
2.1.1.1. Khái niệm kiểm tra, công tác kiểm tra
*Kiểm tra
Theo từ điển Tiếng Việt: “Kiểm tra là xem xét tình hình thực tiễn, để
đánh giá, nhận xét” [7, tr 504]
Công tác kiểm tra của Đảng là một loại hoạt động của Đảng, được tiến
hành đối với tổ chức đảng và đảng viên, nhằm nắm vững tình hình; nhận xét,
đánh giá việc chấp hành các quy định, quyết định của Đảng; xác định sự đúng
đắn hay vi phạm của các hành vi liên quan đến kỷ luật kỷ cương của Đảng.
Xét về bản chất, công tác kiểm tra của Đảng là sự tác động sâu sắc có
hệ thống và có định hướng vào q trình giải quyết các nhiệm vụ chính trị,
kinh tế, xã hội và trong công tác xây dựng Đảng. Điều 30, Điều lệ Đảng khóa
XI quy định: kiểm tra là chức năng lãnh đạo của Đảng. Khác với hoạt động
khác, kiểm tra Đảng là hoạt động nội bộ Đảng nhằm hướng tới đích cuối cùng
cùng làm cho đội ngũ đảng viên của Đảng được trong sạch vững mạnh về
chất và lượng, nâng cao uy tín và sức chiến đấu của Đảng tại các đơn vị cơ sở.
Công tác kiểm tra của Đảng bao gồm chủ thể, đối tượng, nội dung, phạm vi,
trách nhiệm, quyền hạn kiểm tra. Qua kiểm tra, chỉ ra những ưu điểm để phát
huy và những thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm để khắc phục sửa chữa, chỉ ra
những nguyên nhân và các biện pháp để phòng ngừa ngăn chặn các khuyết
điểm nhằm làm cho đội ngũ đảng viên và các tổ chức cơ sở đảng ngày càng
được củng cố tốt hơn và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Chủ thể công tác kiểm tra của Đảng là các cấp ủy và tổ chức đảng có
thẩm quyền; đối tượng kiểm tra gồm các tổ chức đảng và đảng viên thuộc
4


diện quản lý; nội dung kiểm tra gồm: chủ yếu là kiểm tra theo các nội dung cụ

thể đã được xác định kiểm tra việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, chấp hành
Điều lệ Đảng, chấp hành Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm …, gắn với trách nhiệm của mỗi tổ
chức hay cá nhân, được tiến hành theo một chương trình, kế hoạch và theo
quy trình, phương pháp nhất định. Phương pháp tiến hành kiểm tra gồm: chủ
thể kiểm tra trực tiếp tiến hành, sử dụng các cơ quan chức năng như: UBKT,
các ban Xây dựng Đảng, các cơ quan chức năng có liên quan.
Vậy, cơng tác kiểm tra của UBKT cấp huyện là các hoạt động của
UBKT thực hiện chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là kiểm tra các tổ chức đảng
và đảng viên thuộc diện cấp huyện quản lý theo chức năng, nhiệm vụ được
giao, chỉ rõ những ưu khuyết điểm, vi phạm (nếu có) để các tổ chức đảng và
các đảng viên trực thuộc khắc phục, sửa chữa khuyết điểm hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao, thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị được phân công.
Từ quan niệm như trên, UBKT cấp huyện ở tỉnh Bắc Giang hoạt động
dưới sự lãnh đạo đạo của Đảng bộ các huyện trong tỉnh trực thuộc Đảng bộ
tỉnh Bắc Giang.
Chủ thể công tác kiểm tra của UBKT cấp huyện ở tỉnh Bắc Giang là,
UBKT huyện ủy.
Đối tượng kiểm tra gồm: các cấp ủy, các tổ chức đảng trực thuộc và
toàn thể đảng viên trong Đảng bộ các huyện thuộc diện quản lý.
Nội dung, đối tượng kiểm tra của UBKT cấp huyện được cụ thể như
sau:
* Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra
Nội dung kiểm tra: Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới trong việc xây dựng
phương hướng, nhiệm vụ kiểm tra; xây dựng và thực hiện chương trình kế
hoạch kiểm tra theo điều 30 và điều 32 Điều lệ Đảng; kiểm tra việc lãnh đạo,
chỉ đạo của Đảng ủy, Ban thường vụ đảng ủy cơ sở, chi ủy, chi bộ cơ sở trong
việc thực hiện công tác kiểm tra.
5



Đối tượng kiểm tra: kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra của ủy ban kiểm tra là tất cả các tổ chức đảng cấp dưới thuộc phạm
vi lãnh đạo của cấp huyện, nhưng trước hết là cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy
cấp dưới trực tiếp, các ban, văn phòng của cấp ủy, nhất là nơi chưa làm tốt
hoặc có khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra.
* Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi
phạm
Nội dung kiểm tra: kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm tiêu
chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và thực hiện nhiệm vụ đảng viên
được quy định tại Điều 1, điều 2, Điều 12, Điều lệ Đảng. UBKT cấp huyện
căn cứ vào tình hình, nhiệm vụ và u cầu cơng việc cũng như tính chất vi
phạm để tập trung kiểm tra.
Đối tượng kiểm tra: kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm đối với
mọi đảng viên trong Đảng bộ, trước hết là cấp ủy viên cùng cấp và đảng viên
là cán bộ do cấp ủy cấp huyện quản lý khi có dấu hiệu vi phạm. Nếu đảng
viên là cấp ủy viên cùng cấp nhưng là cán bộ thuộc diện cấp ủy cấp trên quản
lý, khi ủy ban kiểm tra cấp dưới phát hiện có dấu hiệu vi phạm thì báo cáo để
ủy ban kiểm tra cấp trên chủ trì và phối hợp. Đối với những cán bộ thuộc diện
cấp ủy cấp mình quản lý nhưng trước khi bổ nhiệm phải có ý kiến của các ban
có liên quan của cấp ủy cấp trên khi kiểm tra do ủy ban kiểm tra cùng cấp chủ
trì và có sự chỉ đạo, phối hợp của UBKT cấp trên.
* Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có vi phạm
Nội dung kiểm tra bao gồm những dấu hiệu vi phạm của các tổ chức
đảng cấp dưới trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Nghị quyết, Chỉ thị,
nguyên tắc tổ chức của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Cần chú
trọng kiểm tra việc cụ thể hóa các chủ trương, đường lối, quan điểm, nghị
quyết, chị thị, quy định, kế hoạch, quy chế hoạt động của tổ chức đảng được
kiểm tra. Đối tượng kiểm tra: UBKT có trách nhiệm kiểm tra mọi tổ chức
đảng thuộc phạm vi quản lý của cấp ủy cấp mình khi có dấu hiệu vi phạm,

6


nhưng trước hết kiểm tra các tổ chức đảng trực tiếp, nếu cần mới kiểm tra tổ
chức đảng cấp dưới cách nhiều cấp. Khi kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới có
dấu hiệu vi phạm, có thể kết hợp kiểm tra trước đối với những đảng viên giữ
cương vị chủ chốt của tổ chức đảng đó.
* Kiểm tra việc thi hành kỷ luật trong Đảng
Nội dung kiểm tra: kiểm tra việc thi hành kỷ luật trong Đảng đối với tổ
chức đảng cấp dưới cần xác định rõ mốc thời gian nhất định. Tập trung kiểm
tra việc thực hiện phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục thi hành
kỷ luật đối với tổ chức đảng và đảng viên vi phạm; kiểm tra việc giải quyết
khiếu nại về kỷ luật đảng, những vụ khiếu nại đã giải quyết, đang giải quyết
hay chưa giải quyết; xem xét các vụ kỷ luật đã được xử lý có dấu hiệu xử lý
khơng đúng mức, các vụ vi phạm đến mức phải xử lý nhưng không xử lý;
kiểm tra việc chấp hành các quyết định, chỉ thị, thơng báo của tổ chức đảng
cấp trên có liên quan đến việc thi hành kỷ luật và giải quyết khiếu nại kỷ luật
trong Đảng.
Đối tượng: Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới có thẩm quyền thi hành kỷ
luật theo quy định của Đảng (cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, ủy ban kiểm tra,
chi bộ…), trước hết là cấp ủy và ủy ban kiểm tra cấp dưới trực tiếp, nhất là
những nơi có tổ chức đảng hoặc nhiều đảng viên vi phạm đến mức phải xử lý
kỷ luật nhưng không xử lý hoặc xử lý không đúng mức, những nơi có nhiều
đơn thư khiếu nại về kỷ luật, những nơi xử lý nhiều tổ chức đảng hoặc đảng
viên và những nơi có dấu hiệu vi phạm trong việc thi hành kỷ luật. Khi cần
thiết, có thể kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới cách nhiều cấp.
* Giải quyết khiếu nại tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên
Nội dung kiểm tra: UBKT cấp huyện có nhiệm vụ giải quyết những tố
cáo có liên quan đến tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và thực
hiện nhiệm vụ của đảng viên được quy định tại Điều 1, Điều 2, Điều 12, Điều

lệ Đảng, liên quan đến việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
Nghị quyết, Chỉ thị, các nguyên tắc tổ chức của Đảng, trước hết là nguyên tắc
7


tập trung dân chủ và quy chế làm việc; đoàn kết nội bộ, phẩm chất đạo đức
cách mạng của cán bộ, đảng viên; chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng
và pháp luật của nhà nước, chăm lo đến quyền và lợi ích chính đáng của nhân
dân.
UBKT cấp huyện vẫn phải xem xét giải quyết, những tố cáo tổ chức
đảng và đảng viên có nội dung liên quan đến pháp luật, kinh tế… dưới góc độ
trách nhiệm của tổ chức đảng, đảng viên thuộc phạm vi quản lý của Đảng bộ.
Những nội dung tố cáo mà UBKT cấp huyện chưa đủ điều kiện xem xét, kết
luận thì kiến nghị cấp ủy cho phối hợp hay yêu cầu tổ chức đảng của cơ quan
nhà nước; cơ quan pháp luật có thẩm quyền giải quyết.
Đối tượng xem xét Với đảng viên: tập trung giải quyết các tố cáo cấp
ủy viên cùng cấp, cán bộ thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý; người bị tố cáo
có liên quan đến cơng tác nhân sự của cấp ủy mình. Đối tượng bị tố cáo là cấp
ủy viên cấp dưới, đồng thời là cán bộ thuộc diện cấp ủy cấp trên quản lý thì
UBKT cấp trên chủ trì giải quyết, có sự phối hợp của UBKT cấp dưới. Đối
tượng bị tố cáo là cán bộ do cấp ủy cấp dưới quản lý, nhưng khi được bổ
nhiệm phải có ý kiến của các ban có liên quan của cấp ủy cấp trên thì do
UBKT cấp dưới sẽ chủ trì giải quyết, nhưng phải báo cáo để có sự chỉ đạo
hoặc phối hợp của UBKT cấp trên. Đối với tố cáo đảng viên khác thì căn cứ
vào phân cấp quản lý cán bộ của cấp ủy mà chuyển UBKT cấp có thẩm quyền
xem xét, giải quyết. Với tổ chức đảng: tập trung giải quyết tố cáo các tổ chức
đảng cấp dưới trực tiếp. Nếu tố cáo tổ chức đảng cấp dưới cách nhiều cấp thì
chuyển tổ chức đảng cấp dưới có thẩm quyền xem xét giải quyết.
* Công tác giải quyết khiếu nại kỷ luật Đảng
Nội dung: UBKT chỉ xem xét, giải quyết khiếu nại về kỷ luật Đảng.

Ngồi khiếu nại về kỷ luật Đảng, cịn khiếu nại về xử lý hành chính, kết luận
lịch sử chính trị, tính tuổi Đảng, bầu cử trong Đảng, xóa tên trong danh sách
đảng viên… Do đó, khi tiếp nhận các khiếu nại khơng thuộc nội dung kỷ luật
Đảng thì chuyển các cơ quan chức năng có thẩm quyền giải quyết.
8


Đối tượng: Tất cả thư khiếu nại của tổ chức đảng và đảng viên về kỷ
luật Đảng thuộc trách nhiệm giải quyết của cấp mình, UBKT đều phải xem
xét, giải quyết.
2.1.1.2 Vai trị của cơng tác kiểm tra
Bước vào thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa có rất nhiều vấn đề
mới phức tạp nảy sinh, vì vậy đối tượng, phạm vi, nội dung lãnh đạo của
Đảng ngày càng đa dạng, phong phú và phức tạp hơn trước. Để có chủ
trương, quyết định đúng, giải pháp thực hiện tối ưu, kịp thời phát hiện sai sót,
hồn chỉnh các quyết định, phát huy những mặt tích cực và hạn chế tiêu cực
thì cơng tác kiểm tra cần phải tiến hành thường xun. Do đó, kiểm tra là một
nội dung khơng thể thiếu trong hoạt động lãnh đạo của mỗi tổ chức đảng và
từng đảng viên.
- Kiểm tra là một tất yếu khách quan, một biểu hiện nghiêm túc của
hoạt động có ý thức của mọi tổ chức và mọi con người trong xã hội.
Trước khi hành động, các tổ chức và con người đều phải suy nghĩ, xác
định rõ chủ trương, kế hoạch tiến hành và tổ chức thực hiện thắng lợi ý định
chủ trương, kế hoạch ấy trong thực tiễn. Song thực tiễn luôn luôn vận động,
biến đổi, phát triển không ngừng theo quy luật khách quan, nên ý định, chủ
trương, kế hoạch được xác định dù được nghiên cứu, tính tốn, cân nhắc kỹ
vẫn có thể có những thiếu sót sơ hở, thậm chí khơng có khả năng thực thi
hoặc sai lầm nghiêm trọng. Vì vậy, qua kiểm tra phải kịp thời rút kinh
nghiệm, bổ sung, sửa đổi những thiếu sót chưa đồng bộ, chưa phù hợp hoặc
sai lầm, lệch lạc; bảo đảm ý định chủ trương, kế hoạch hoạt động được đúng

đắn, chuẩn xác hơn, chất lượng hiệu quả đạt được tốt đẹp hơn. Do đó, hoạt
động có ý thức là hoạt động có kiểm tra, coi trọng kiểm tra và làm tốt công
tác kiểm tra.
- Kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, một bộ
phận quan trọng trong tồn bộ cơng tác xây dựng Đảng.

9


Trước đây, công tác kiểm tra của Đảng đã quan trọng, trong điều kiện
Đảng cầm quyền, công tác kiểm tra lại càng quan trọng hơn. Theo V.I.Lênin,
khi mục đích và nhiệm vụ đã được xác định, nghị quyết đã được thơng qua,
thì nhiệm vụ tổ chức thực hiện phải được đặt lên hàng đầu. “Điều chủ yếu là
chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo các sắc lệnh và mệnh lệnh (đấy là chúng
ta u mê đến ngu xuẩn) sang việc lựa chọn người và kiểm tra sự thực hiện”[6,
tr.450]. Người cho đó là vấn đề then chốt nhất và phê phán nghiêm khắc
những cơ quan, cán bộ chỉ bù đầu, bù tai vào những vấn đề vụn vặt, chìm
ngập trong cái biển giấy tờ và vũng lầy chủ nghĩa quan liêu, không hề quan
tâm đến việc lực chọn người, thiết lập chế độ trách nhiệm cá nhân đối với
công việc và kiểm tra công việc thực tế. V.I. Lênin nhấn mạnh: “Tìm người
kiểm tra cơng việc, - tất cả là ở đó” [6, tr451]. Nếu khơng làm tốt việc lựa
chọn bố trí cán bộ kiểm tra sự chấp hành “thì tất cả mọi mệnh lệnh chỉ là mớ
giấy lộn”. [6, tr 449]
Về mặt lý luận là để có căn cứ vào thực tế, vào kinh nghiệm mà biết
chắc được rằng các nghị quyết đã được thơng qua có đúng hay không và đúng
đến mức nào, cần phải sửa đổi bổ sung những gì. Về mặt thực tiễn, là để học
tập cho biết cách tuân theo các nghị quyết ấy một cách thật sự, học tập để biết
coi các nghị quyết ấy là những chỉ thị cần được áp dụng trực tiếp và ngay lập
tức đưa vào thực tế.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo

vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Công tác kiểm tra được Người nhấn mạnh
là một nội dung lãnh đạo, một khâu rất quan trọng trong quy trình lãnh đạo
của Đảng. Quy trình lãnh đạo của bất cứ một cấp ủy đảng nào đều được chia
làm ba khâu chủ yếu: ra quyết định, tổ chức thực hiện quyết định và kiểm tra
sự thực hiện. Do đó, khi đánh giá sự lãnh đạo của một cấp ủy, nhất thiết phải
căn cứ vào kết quả đánh giá ở cả ba khâu đó. Trong tác phẩm: “Sửa đổi lối
làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luận giải hết sức rõ ràng: thế nào là lãnh
đạo đúng? Lãnh đạo đúng có nghĩa là:
10


1.Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng…
2.Phải tổ chức sự thi hành cho đúng…
3.Phải tổ chức sự kiểm sốt… [8, tr 285]
Như vậy, kiểm tra khơng chỉ là khâu cuối cùng của quy trình lãnh đạo,
mà nó đan xen vào tất cả các khâu, góp phần tạo nên sự hồn thiện của cả quy
trình.
Ý nghĩa bao trùm của kiểm tra là góp phần củng cố Đảng về tư tưởng,
về tổ chức. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị tổng kết công tác kiểm tra của
Đảng (ngày 29/7/1964), Hồ Chí Minh nói: “Vì kiểm tra có tác dụng thúc đẩy
và giáo dục đảng viên và cán bộ làm tròn nhiệm vụ đối với Nhà nước, làm
gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó, mà góp phần vào việc ủng cố Đảng về
tư tưởng, về tổ chức” [9, tr 300].

Quán triệt, vận dụng sâu sắc quan điểm

của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác kiểm tra, Đảng
ta xác định: “Kiểm tra là một chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng”. Lãnh
đạo cũng có nghĩa là kiểm tra; bng lỏng việc kiểm tra thì cũng bằng khơng,
coi như khơng có lãnh đạo. Cấp ủy nào buông lỏng kiểm tra là đã để mất một

công cụ quan trọng giúp mình trong cơng tác lãnh đạo. Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần VIII của Đảng vạch rõ: “Cơng tác kiểm tra có vị trí cực kỳ
quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng. “Lãnh đạo mà khơng
kiểm tra thì coi như khơng có lãnh đạo”. Đảng đã ban hành nhiều Nghị quyết,
thông tri, chỉ thi, quyết định, quy định, chuyên đề về công tác kiểm tra của
Đảng. Kiểm tra và giữ gìn kỷ luật của Đảng là nhiệm vụ của tồn Đảng” [1,tr
150] .
- Trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
hiện nay, phải coi trọng và tăng cường công tác kiểm tra của Đảng.
Trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nhiều
thành phần, mở cửa với thế giới, hội nhập quốc tế; cán bộ, đảng viên hàng
ngày hàng giờ chịu nhiều tác động của các nhân tố phức tạp, kể cả các hoạt
động chống phá của Đảng. Vấn đề giữ vững bản chất giai cấp công nhân của
11


Đảng đang đứng trước những thách thức lớn. Một bộ phận cán bộ, đảng viên
kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất, năng lực;
thiếu tính chiến đấu, khơng ít tổ chức cơ sở đảng yếu kém, có nơi tê liệt,
phương thức lãnh đạo và sinh hoạt lúng túng, có tình trạng mất dân chủ, thiếu
kỷ luật, kỷ cương, một số nơi mất đồn kết nghiêm trọng.
Cơng cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, càng đòi hỏi vai trò lãnh đạo
của Đảng. Hơn bất cứ lúc nào, công tác xây dựng Đảng thật sự trở thành
nhiệm vụ then chốt. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, Đảng khơng
ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn, trước mắt thực hiện tốt những vấn đề cấp
bách trong công tác xây dựng Đảng do Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
lần 4 khóa XI. Muốn vậy, bên cạnh việc phải giữ vững và tăng cường bản
chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và
năng lực cán bộ, đảng viên thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ;
phải tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Một nhiệm vụ rất quan

trọng trong việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đó là đổi mới và
tăng cường công tác kiểm tra của Đảng, đặc biệt đối với các Đảng bộ các cấp.
Như vậy, Đảng ta ln đánh giá cao vai trị của cơng tác kiểm tra của Đảng.
Từ kinh nghiệm thực tiễn cho thấy: ở đâu cấp ủy coi trọng cơng tác kiểm tra
thì ở đó có kỷ cương trong Đảng được giữ vững, nội bộ Đảng đoàn kết, thống
nhất, ổn định; việc thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước được đúng đắn, ít vi phạm, đạt được nhiều thành tựu
đáng kể, mối quan hệ Đảng – dân được củng cố, lòng tin vào sự lãnh đạo của
cấp ủy được nâng lên; hoạt động của UBKT các cấp có nhiều thuận lợi, cơng
tác kiểm tra có tác dụng và hiệu quả rõ rệt, góp phần tích cực vào việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị và xây dựng và xây dựng Đảng của Đảng bộ.

12


2.1.2 Đặc điểm UBKT các huyện ủy và công tác kiểm tra của ủy ban kiểm
tra huyện ủy tỉnh Bắc Giang
2.1.2.1. Đặc điểm Ủy ban kiểm tra các huyện ủy tỉnh Bắc Giang
Tỉnh Bắc Giang được tái lập và đi vào hoạt động từ ngày 1-1-1997.
Việc tái lập tỉnh đã tạo ra những thuận lợi và khó khăn đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phương, đòi hỏi BCH Đảng bộ tỉnh cần phải lãnh đạo,
chỉ đạo sát đúng, phù hợp với điều kiện của tỉnh. Sau khi tái lập tỉnh, Ban
thường vụ tỉnh ủy đã chú trọng các mặt công tác, đặc biệt là công tác xây
dựng Đảng.
Ủy ban kiểm tra huyện ủy ở Đảng bộ tỉnh Bắc Giang được thành lập
cùng với Đảng bộ các huyện của tỉnh. Đến nay, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang có
10 UBKT huyện, thành ủy, trong đó có 9 UBKT huyện ủy; 01 UBKT thành
ủy thành phố Bắc Giang; có 04 UBKT các huyện miền núi là: Sơn Động, Lục
Ngạn, Lục Nam và Yên Thế. Thực hiện quy định của Đảng, tổ chức bộ máy
của UBKT các huyện ủy Bắc Giang đã có sự thay đổi rõ rệt và hoạt động

đúng hướng thực hiện các nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định và do cấp ủy
giao nhiệm vụ góp phần thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội tại địa phương.
Hiện tại, tổng số thành viên của 10 UBKT huyện, thành ủy tính đến hết
năm 2011 là 110 đồng chí (cả kiêm nhiệm), trong đó trình độ chun mơn
thạc sỹ 04 đồng chí chiếm 3,6%, Đại học và cao đẳng 101 đồng chí chiếm
91,9 %, trung cấp là 05 đồng chí chiếm 4,5%; cơ cấu chủ nhiệm là ủy viên
BTV cấp ủy, có từ 01 đến 02 phó chủ nhiệm. Trình độ mọi mặt của đội ngũ
cán bộ kiểm tra được nâng lên nhiều so với nhiệm kỳ trước. Song, vẫn còn
một số cán bộ làm công tác kiểm tra chưa đáp ứng với yêu cầu của nhiệm vụ
được giao về trình độ và năng lực công tác.
BTV tỉnh ủy và cấp ủy các cấp ln quan tâm kiện tồn UBKT và xây
dựng đội ngũ làm cơng tác kiểm tra của Đảng bộ có chất lượng tốt. Đội ngũ
cán bộ làm công tác kiểm tra của các huyện ủy ở Đảng bộ tỉnh Bắc Giang
13


ln có bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng vững vàng, dám đấu tranh bảo
vệ đường lối, quan điểm của Đảng; cán bộ làm công tác kiểm tra hầu hết có
phẩm chất đạo đức và khả năng hồn thành tốt nhiệm vụ được giao; nhiệt tình
trong cơng việc, có nhiều kinh nghiệm; ý thức tự giác cao luôn chấp hành
nghiêm túc mọi sự phân công của tổ chức, tận tụy với cơng việc, trung thành
với Đảng; có lối sống giản dị, lành mạnh; có uy tín cao đối với cán bộ, đảng
viên; được cấp ủy các cấp và chính quyền tin tưởng. Nhìn chung, đội ngũ cán
bộ làm cơng tác kiểm tra cơ bản được nâng lên, đã đáp ứng với u cầu của
cơng việc. Bên cạnh đó, vẫn còn một số hạn chế còn tồn tại, nhiều cán bộ làm
công tác kiểm tra hầu như chưa được đào tạo bài bản, còn bỡ ngỡ về nghiệp
vụ, một số cán bộ mới vào làm còn thiếu kinh nghiệm cho nên chưa đáp ứng
với năng lực giải quyết công việc thực tiễn.
2.1.2.2 Đặc điểm công tác kiểm tra của UBKT huyện ủy ở tỉnh Bắc Giang

Bên cạnh những điều kiện thuận lợi về điều kiện tự nhiên, văn hóa, xã
hội và con người. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, công tác xây dựng
Đảng ở tỉnh Bắc Giang luôn được chú ý và thực hiện tốt, đặc biệt là đối với
công tác kiểm tra của các UBKT các cấp. Song công tác kiểm tra của UBKT
huyện ủy ở tỉnh Bắc Giang có những đặc điểm nhất định có ảnh hưởng tới
việc thực hiện được giao, cụ thể:
Một là, chủ thể tiến hành công tác kiểm tra các huyện ủy ở tỉnh Bắc
Giang là UBKT các huyện ủy. UBKT các huyện ln được chú trọng kiện
tồn đủ về số lượng và chất lượng. Đa số cán bộ làm công tác kiểm tra ở các
UBKT huyện ủy có trình độ nghiệp vụ và kinh nghiệm trong cơng tác kiểm
tra, có bản lĩnh chính chính trị cao.
Hai là, đối tượng kiểm tra của UBKT ở các huyện ủy trong tỉnh Bắc
Giang ngày càng đa dạng và phức tạp, trình độ nhận thức và năng lực khơng
đồng đều; là tỉnh có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống, nhiều đảng viên là
người dân tộc thiểu số, trình độ mọi mặt cịn hạn chế, đời sống gặp nhiều khó
khăn, vì vậy phong tục tập quán ở nhiều nơi còn nặng nề. Đặc biệt, Bắc Giang
14


vẫn là một tỉnh nghèo, có vùng trung du, đồng bằng và vùng núi cịn nhiều
khó khăn. Các tổ chức cơ sở đảng hoạt động trên địa bàn còn gặp nhiều khó
khăn trong việc lãnh đạo chỉ đạo, nhất là ở các huyện miền núi.
Ba là, việc thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm tra của UBKT các huyện
ủy ở tỉnh Bắc Giang đặt ra rất nặng nề, được tiến hành trong điều kiện tỉnh
Bắc Giang đang có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ, các ngành nghề
phát triển rộng khắp, nguồn thu hút vấn đầu tư của các tập đồn, doanh
nghiệp vào tỉnh ngày càng nhiều, hình thành các khu cơng nghiệp hiện đại;
q trình đơ thị hóa diễn ra với tốc độ nhanh. Trong khi đó, trình độ nhận thức
và năng lực cơng tác của cán bộ, đảng viên không đồng đều, nhất là ở các tổ
chức cơ sở đảng ở vùng cao, miền núi đã ít nhiều ảnh hưởng đến công việc.

Đối với công tác xây dựng Đảng còn nhiều vấn đề bức xúc, phức tạp cần phải
giải quyết kịp thời.
2.1.2.3. Chức năng, nhiệm vụ UBKT huyện ủy ở tỉnh Bắc Giang
a. Chức năng
Từ nhiệm kỳ Đại hội lần VI đến Đại hội Đại hội IX, công tác kiểm tra
và thi hành kỷ luật được bổ sung sử đổi trong Điều lệ Đảng về nhiệm vụ,
thẩm quyền của UBKT các cấp; quy định cụ thể nhiệm vụ của cấp ủy, tổ chức
đảng đối với công tác kiểm tra, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển công
tác xây dựng Đảng, thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị trong từng giai
đoạn của thời kỳ đổi mới. Cơng tác kiểm tra, đã có những đổi mới quan trọng
cả về nhận thức và hoạt động thực tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm đề
ra phương hướng, giải pháp tăng cường công tác kiểm tra.
Từ Đại hội VIII đến nay, để khắc phục những bất cập trên, Điều 30
Điều lệ Đảng quy định cụ thể nhiệm vụ của cấp ủy, tổ chức Đảng đối với
công tác kiểm tra.
1.Kiểm tra là những chức năng lãnh đạo của Đảng. Tổ chức đảng phải
tiến hành công tác kiểm tra. Tổ chức đảng chịu sự kiểm tra của Đảng.

15


2.Các cấp ủy Đảng lãnh đạo công tác kiểm tra và tổ chức thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra của tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ Đảng, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng. Như vậy, theo quy định của
Điều lệ Đảng, UBKT các cấp do cấp ủy cùng cấp bầu ra được thành lập từ
đảng ủy cơ sở, hoạt động theo nhiệm kỳ của cấp ủy, UBKT chịu sự lãnh đạo
trực tiếp của cấp ủy. Từ nhận định trên, UBKT huyện ủy tỉnh Bắc Giang có
chức năng là cơ quan tham mưu giúp việc của cấp ủy là cơ quan chuyên trách
về kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang, thực hiện các
nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định, đồng thời thực hiện các nhiệm vụ khác

do cấp ủy giao. UBKT các huyện ở tỉnh Bắc Giang là cơ quan chuyên trách
kiểm tra đối với các tổ chức đảng cấp dưới (chi, đảng bộ) và đảng viên thuộc
đảng bộ, kiểm tra việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, Nghị
quyết, Chỉ thị của Đảng cũng như đường lối, chính sách, pháp luật Nhà nước,
thực hiện các nguyên tắc tổ chức hoạt động của Đảng về đạo đức, phẩm chất
lối sống của người đảng viên; kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên thực
hiện nhiệm vụ được giao.
b. Nhiệm vụ
Trong mỗi giai đoạn, nhiệm vụ của UBKT cấp huyện cũng có sự thay
đổi cho phù hợp.
Điều lệ Đảng khóa XI bổ sung vào khoản 2, Điều 32, quy định Ủy ban
kiểm tra các cấp kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và thi
hành kỷ luật trong Đảng. Ủy ban kiểm tra các cấp cùng với việc kiểm tra tổ
chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ giám sát trong Đảng, góp phần giúp
tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ giám sát trong Đảng, góp phần
giúp cơng tác giám sát của các tổ chức đảng và trong toàn Đảng được tiến
hành một cách đồng bộ, thường xuyên, có chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hơn.
1. Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi
phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và trong việc thực hiện
nhiệm vụ đảng viên.
16


2. Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm trong việc
chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng,
các nguyên tắc tổ chức của Đảng; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,
giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng.
3. Giám sát cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ diện cấp ủy cùng cấp quản lý
và tổ chức đảng cấp dưới về việc tực hiện chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng, nghị quyết của cấp ủy và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban

chấp hành Trung ương.
4. Xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết định
hoặc đề nghị cấp ủy thi hành kỷ luật.
5. Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải quyết khiếu
nại về kỷ luật Đảng.
6. Kiểm tra tài chính của cấp ủy cấp dưới và của cơ quan tài chính cấp
ủy cùng cấp.[5, tr52-53]
Như vậy, căn cứ vào các nhiệm vụ của UBKT các cấp, UBKT huyện
ủy ở tỉnh Bắc Giang đã cụ thể hóa thành các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của UBKT huyện ủy theo thẩm quyền của mình:
* Về thực hiện chức năng tham mưu giúp cấp ủy và thực hiện nhiệm vụ
do cấp ủy giao:
UBKT các cấp đã tham mưu giúp Ban chấp hành Đảng bộ, Ban thường
vụ huyện ủy triển khai nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết, chỉ thị, quy định các
văn bản hướng dẫn của cấp ủy và UBKT cấp trên về công tác kiểm tra và thi
hành kỷ luật Đảng. Tham mưu giúp cấp ủy ban hành các báo cáo định kỳ, đột
xuất, các văn bản lãnh đạo về cơng tác kiểm tra trong tồn Đảng bộ; xây dựng
và đôn đốc thực hiện kế hoạch kiểm tra tồn khóa, hàng năm; xây dựng kế
hoạch và tổ chức thực hiện các cuộc kiểm tra của cấp ủy theo chương trình
kiểm tra của BCH và BTV; xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị
quyết số 14- NQ/TW của BCH Trung ương Đảng về “Tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát của Đảng”; Nghị quyết TW 5 khóa X về bổ sung sửa đổi
17



×