Tải bản đầy đủ (.pdf) (208 trang)

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.42 MB, 208 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ THỊ HỒNG THẮM

TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2024


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ THỊ HỒNG THẮM

TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 9.38.01.04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. HỒ SỸ SƠN


HÀ NỘI - 2024


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan Luận án này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tơi. Các số liệu, tài liệu được sử dụng trong luận án có nguồn gốc và trích dẫn
rõ ràng.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2023

NGƯỜI CAM ĐOAN


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ....................................... 9
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước........................................................................ 9
1.2. Tình hình nghiên cứu ngồi nước.............................................................. 27
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra nghiên cứu
trong luận án ..................................................................................................... 31
1.4. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu ..... 35
Tiểu kết chương 1 .................................................................................................... 38
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN ...................................................................................................... 39
2.1. Khái niệm, đặc điểm và các dấu hiệu cấu thành của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản ......................................................................................................... 39
2.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội danh khác ........... 55

2.3. Điều chỉnh pháp luật hình sự đối với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài
sản và các yếu tố tác động ................................................................................ 68
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 91
Chương 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI LỪA ĐẢO
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH .............................................................................................. 92
3.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản ................................................................................................................ 92
3.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản tại thành phố Hồ Chí Minh ................................................................. 116
Tiểu kết chương 3 .................................................................................................. 156
Chương 4: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG CĨ
HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN ................................................................................................................. 157
4.1. Yêu cầu áp dụng có hiệu quả pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản ...................................................................................................... 157


4.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng có hiệu quả pháp luật hình sự về tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản .............................................................................. 163
Tiểu kết chương 4 .................................................................................................. 179
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 180
DANH MỤC CƠNG TRÌNH CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ................................ 183
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 184
PHỤ LỤC ................................................................................................................... 1


DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
STT


VIẾT TẮT
1

1
2
2
3
3
3
4
3
5
4
6

VIẾT ĐẦY ĐỦ

BLHS

Bộ luật hình sự

CTTP

Cấu thành tội phạm

Nxb

Nhà xuất bản

SĐ, BS


Sửa đổi, bổ sung

TAND

Tịa án nhân dân

TNHS

Trách nhiệm hình sự


DANH MỤC CÁC BẢNG THỐNG KÊ VÀ BIỂU ĐỒ
(Số liệu từ năm 2013 đến năm 2023)
1. PHỤ LỤC: BẢNG THỐNG KÊ
Bảng 3.1: Tình hình xét xử vụ án hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại thành
phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm 2023.
Bảng 3.2: Tỷ lệ số vụ án và số người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại thành
phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm 2023.
Bảng 3.3: Tỷ lệ số vụ án và số người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản so với
tổng số tội phạm và người phạm tội tại thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến
năm 2023.
Bảng 3.4: So sánh số vụ án, số người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại thành
phố Hồ Chí Minh và cả nước từ năm 2013 đến năm 2023.
Bảng 3.5: Hình phạt áp dụng đối với người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại
thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm 2023.
2. PHỤ LỤC: BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Diễn biến tình hình số vụ án và số người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản đã được xét xử tại thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm 2023.
Biểu đồ 2: Tỷ lệ về số vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã được xét xử trong tổng số

vụ án tại thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm 2023.
Biểu đồ 3: Tỷ lệ về số người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong tổng số
người phạm tội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm 2023.
Biểu đồ 4: Tỷ lệ về số vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã được xét xử tại thành phố
Hồ Chí Minh trong tổng số vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã được xét xử trên cả
nước từ năm 2013 đến năm 2023.
Biểu đồ 5: Tỷ lệ về số người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại thành phố Hồ
Chí Minh trong tổng số người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên cả nước từ
năm 2013 đến năm 2023.
Biểu đồ 6: Tỷ lệ về hình phạt đối với người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại
thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm 2023.


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của nghiên cứu đề tài
Quyền sở hữu của cá nhân, tổ chức đối với tài sản luôn được Hiến pháp và
pháp luật nước ta ghi nhận, tôn trọng, bảo đảm thực hiện và bảo vệ khi bị vi phạm.
Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu của cá nhân, tổ chức đối với tài sản bằng nhiều
phương tiện khác nhau, trong đó vai trị quan trọng thuộc về pháp luật nói chung và
pháp luật hình sự nói riêng. Các quy định về các tội xâm phạm sở hữu nói chung và
về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng, vì vậy được ghi nhận khá sớm trong lịch
sử lập pháp hình sự nước ta và ngày càng được hoàn thiện.
Mặc dù vậy, thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cho thấy vẫn cịn những khó khăn, chẳng hạn như
trong việc chứng minh ý thức chiếm đoạt tài sản của người phạm tội; xác định thời
điểm hành vi cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; xác định giá trị tài sản bị
chiếm đoạt; xác định tội danh trong trường hợp hành vi có “đan xen” với các dấu
hiệu của một số tội phạm khác mà thường dẫn đến định tội danh khơng chính xác,
thậm chí là “hình sự hóa quan hệ dân sự và ngược lại” …Đặc biệt là các tình tiết
định tội, định khung đã được Bộ luật Hình sự năm 2015 bổ sung như: “gây ảnh

hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”; “tài sản là phương tiện kiếm sống
chính của người bị hại và gia đình họ”; “lợi dụng thiên tai, dịch bệnh”; “lợi dụng
hồn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp” được áp dụng rất khác nhau trên thực
tế, không bảo đảm các yêu cầu pháp chế, công bằng, công lý, quyền con
người…của áp dụng pháp luật hình sự. Và điều đó tất nhiên ảnh hưởng đến chất
lượng của việc điều chỉnh pháp luật hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản như đã trình bày khái qt nói trên xuất phát từ nhiều ngun nhân khác
nhau, trong đó khơng thể khơng kể đến sự nhận thức thiếu thống nhất không chỉ
trong giới luật học, giới làm luật mà cả những nhà hoạt động thực tiễn; “những lỗ
hổng pháp luật” do quy định chưa thực sự rõ ràng cũng như chưa hướng dẫn thi
hành kịp thời dẫn đến các cách hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau trên thực tế.
Một điều đã được thừa nhận chung là chất lượng điều chỉnh pháp luật hình sự (quy

1


định và áp dụng quy định của pháp luật hình sự) đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, không chỉ tùy thuộc vào chất lượng của quy phạm pháp luật hình sự về tội này
mà cịn tùy thuộc vào một loạt các yếu tố khác như chất lượng giải thích, hướng
dẫn áp dụng thống nhất pháp luật hình sự; khả năng, năng lực, phẩm chất đạo đức,
kinh nghiệm áp dụng pháp luật hình sự của chủ thể áp dụng pháp luật hình sự… khi
mà những yếu tố này gắn rất chặt với từng địa bàn vốn bị quyết định bởi các đặc
điểm kinh tế - xã hội, ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật…của từng địa bàn đó.
Đối với Thành phố Hồ Chí Minh, điều đó cũng không phải là ngoại lệ.
Cũng như tại các địa phương khác, tại thành phố Hồ Chí Minh - trung tâm
kinh tế lớn của cả nước, tình hình tội phạm nói chung, tình hình tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản nói riêng ngày càng diễn biến phức tạp, nguy hiểm. Số liệu thống kê tại
bảng 3.3, Phần phụ lục cho thấy, trong 10 năm qua trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh có 1763 vụ án với 2303 bị cáo bị xét xử về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tức

trung bình mỗi năm có 176,3 vụ án với 230,3 bị cáo bị xét xử về tội này. Nếu tính
trong tổng số vụ án hình sự và tổng số bị cáo đã bị xét xử tại thành phố Hồ Chí
Minh trong 10 năm qua, số vụ án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã bị xét xử
chiếm 3,7% và số bị cáo chiếm 3%; còn so với các địa phương khác trên cả nước,
số vụ án bị xét xử về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chiếm 8,2% và số bị cáo bị xét xử
về tội này chiếm 7,9%. Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, Tòa án nhân dân
các cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh cịn tồn tại những hạn chế, thiếu sót trong định tội
danh và trong quyết định hình phạt - hai nội dung chính của áp dụng pháp luật hình sự
về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thể hiện chủ yếu ở định tội danh sai do xác định
không đúng hành vi có dấu hiệu “đan xen” với hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản [108], [72] hoặc có dấu hiệu “đan xen” với hành vi cướp giật tài sản [65], [82],
[104]; định tội danh khơng chính xác đối với chuỗi hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản
có dấu hiệu “đan xen” với hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức [120,
tr.27]; bỏ lọt người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong các vụ án có đồng phạm
[70], [71], [108, tr.19], [120, tr.35]; bỏ lọt tội phạm [120, tr.36]; “hình sự hóa quan hệ
dân sự dẫn đến truy cứu trách nhiệm hình sự người khơng có tội” [102, tr.6]; sai lầm
trong cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội khi quyết định
hình phạt, vận dụng không đúng quy định về án treo [66], [107]; áp dụng không đúng

2


tình tiết định khung tăng nặng [120, tr.25]; áp dụng khơng đúng tình tiết tăng nặng
(chung) trách nhiệm hình sự [68]…
Những hạn chế, thiếu sót trong định tội danh và trong quyết định hình phạt
trên đây chủ yếu là do có những tình tiết định tội hay định khung tăng nặng trách
nhiệm hình sự mà Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung, nhưng chưa có văn bản
hướng dẫn thi hành, bên cạnh đó một số văn bản hướng dẫn thi hành đã cũ mà chưa
có văn bản mới thay thế; án lệ về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa được xây
dựng; trình độ, khả năng, năng lực của đội ngũ cán bộ xét xử (Thẩm phán và Hội

thẩm) và của những người tiến hành tố tụng hình sự khác chưa bảo đảm; cơng tác
đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về áp dụng pháp luật chưa thật thường xuyên…
Đứng trước các yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công lý,
quyền con người, quyền cơng dân trong tư pháp hình sự; tiếp tục cải cách tư pháp,
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hội nhập quốc tế;
phịng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phịng ngừa tình hình tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản nói riêng, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, rõ ràng cần được tiếp
tục nghiên cứu trên các phương diện: lý luận, quy định pháp luật và thực tiễn áp
dụng quy định pháp luật và gắn với địa bàn cụ thể, qua đó để tiếp tục hồn thiện
pháp luật và tìm kiếm các giải pháp bảo đảm áp dụng có hiệu quả quy định của
pháp luật hình sự về tội nói trên. Với lý do này, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” để nghiên cứu làm
luận án tiến sĩ luật học ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1 . Mục đích nghiên cứu
Từ việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật hình
sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và thực tiễn áp dụng chúng tại thành phố Hồ
Chí Minh, luận án đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng có hiệu quả của các quy
định của pháp luật hình sự về tội nói trên.
2.2 . Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận án tập trung thực hiện những
nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

3


- Tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong nước và ở nước ngồi liên quan
đến đề tài, từ đó rút ra những vấn đề cần nghiên cứu trong luận án;
- Phân tích những vấn đề lý luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản;
- Phân tích nội dung của các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và

của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại thành phố Hồ Chí Minh, qua đó rút
ra những kết quả đạt được, những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của những hạn
chế, thiếu sót đó;
- Phân tích các u cầu áp dụng có hiệu quả pháp luật hình sự về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản và đề xuất những kiến nghị sửa đổi bổ sung, hoàn thiện quy định
của pháp luật hình sự, đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng có hiệu quả pháp luật
hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1 . Đối tượng nghiên cứu của luận án
Luận án nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tại thành phố
Hồ Chí Minh. Luận án lấy các quan điểm khoa học đã được nêu ra trong Khoa học
luật hình sự, quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và của một số nước trên thế
giới về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về tội này tại thành phố Hồ Chí Minh để nghiên cứu các vấn đề
thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài.
3.2 . Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đề tài luận án được nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự và tố tụng hình sự.
- Về lý luận: Luận án nghiên cứu khái niệm, đặc điểm và các dấu hiệu pháp
lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với
một số tội khác; phân tích lý luận về điều chỉnh pháp luật hình sự đối với hành vi
lừa đảo chiếm đoạt tài sản và các nhân tố bảo đảm hiệu quả của các quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam về tội nói trên.
- Về pháp luật hình sự thực định: Luận án nghiên cứu các quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Luận án cũng đề cập

4



nghiên cứu và các quy định của pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới về
tội danh này.
- Về thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự: Việc áp dụng quy
định của pháp luật hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một quá trình
được tiến hành bởi nhiều chủ thể khác nhau như các cơ quan tiến hành tố tụng hình
sự như Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tịa án và những người tiến hành tố tụng
hình sự như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân với nhiều
nội dung khác nhau như định tội danh, miễn trách nhiệm hình sự, quyết định hình
phạt, miễn hình phạt, giảm hình phạt đã tuyên, ... Tuy nhiên, trong luận án này,
nghiên cứu sinh chỉ tập trung nghiên cứu chủ thể áp dụng là Toà án nhân dân và
người tiến hành tố tụng hình sự là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân (Hội đồng xét
xử) và hai nội dung chính của áp dụng pháp luật hình sự là định tội danh và quyết
định hình phạt đối với người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Về thời gian và không gian: Các số liệu xét xử, vụ án điển hình phục vụ
cho việc nghiên cứu đề tài được nghiên cứu sinh thu thập là số liệu xét xử của Tòa
án hai cấp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 11 năm, từ năm
2013 đến hết năm 2023.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1 . Phương pháp luận của luận án
Đề tài luận án được thực hiện dựa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Quan
điểm, chủ trương, đường lối của Đảng; Chính sách, pháp luật của Nhà nước Cộng hồ
xã hội chủ nghĩa Việt Nam về tội phạm, hình phạt, phòng ngừa và đấu tranh chống tội
phạm; Cải cách tư pháp... Đề tài luận án còn được thực hiện trên cơ sở sử dụng cách tiếp
cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội, đa ngành, liên ngành luật học.
4.2 . Phương pháp nghiên cứu của luận án
Trong quá trình thực hiện đề tài luận án, nghiên cứu sinh sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Các phương pháp này được nghiên
cứu sinh sử dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu toàn bộ các chương của


5


luận án này nhằm đi sâu vào phân tích, tổng hợp các quan điểm về khái niệm và
các dấu hiệu pháp lý cũng như trách nhiệm hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, phân biệt tội này với một số tội khác; các quy định cụ thể của pháp luật hình sự
về tội này, từ đó rút ra những cái thuộc về bản chất của các hiện tượng, các quan
điểm, quy định và hoạt động thực tiễn này (Chương 2, Chương 3); cũng từ đó rút ra
các đánh giá, kết luận và kiến nghị phù hợp giữa lý luận và thực tiễn (Chương 4).
- Phương pháp thống kê: Được sử dụng trong chương 3 để qua đó phân tích
khái quát thực trạng về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và việc áp dụng các quy định
của pháp luật để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội này ở địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp này cũng được sử dụng trong việc khảo
sát, lấy ý kiến chuyên gia về cách giải quyết một số vấn đề pháp lý cụ thể cũng như
tổng hợp những khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này được nghiên cứu sinh sử dụng để
phân tích các quy định của pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam tại chương 2; nghiên cứu, phân tích tình hình tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh qua các năm (từ
năm 2013 đến năm 2022) và so sánh quy định của pháp luật hình sự Việt Nam với
pháp luật hình sự một số nước khác trên thế giới về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
tại Chương 3 để thấy được những điểm tích cực, tiến bộ cần học hỏi, tiếp thu. Bên
cạnh đó, tại Chương 4 của luận án, nghiên cứu sinh cũng sử dụng phương pháp này
để so sánh và rút ra các kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật nhằm
phù hợp với văn hóa chính trị - pháp lý của dân tộc cũng như với điều kiện thực tế
của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu án điển hình: Nghiên cứu sinh sử dụng phương
pháp này để phân tích việc áp dụng các quy định của pháp luật hình sự để xử lý
hình sự đối với hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố

Hồ Chí Minh trong các vụ án cụ thể (chương 3). Với phương pháp này, nghiên cứu
sinh xác định được những hạn chế, thiếu sót trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn nghiên cứu và nguyên nhân
của những hạn chế, thiếu sót đó. Trên cơ sở khảo sát thực tiễn, tác giả đề xuất các
giải pháp để khắc phục những nguyên nhân nói trên.

6


- Phương pháp hệ thống được nghiên cứu sinh sử dụng xun suốt tồn bộ
luận án nhằm trình bày các vấn đề, các nội dung trong luận án theo một trình tự,
một bố cục hợp lý, chặt chẽ, có sự gắn kết, kế thừa, phát triển các vấn đề, các nội
dung để đạt được mục đích, yêu cầu đã được xác định cho luận án.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, luận án góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận về việc áp dụng pháp
luật đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Thứ hai, luận án đã phân tích quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện
hành và của một số quốc gia trên thế giới về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Thứ ba, luận án đã phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với các tội danh
khác có yếu tố tương đồng trong BLHS Việt Nam.
Thứ tư, luận án đã làm rõ những vấn đề của thực tiễn áp dụng quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại thành phố Hồ
Chí Minh trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2022, qua đó chỉ ra những hạn chế,
thiếu sót và nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót đó.
Thứ năm, luận án đã phân tích các u cầu nâng cao hiệu quả của các quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và đưa ra các
giải pháp góp phần bảo đảm áp dụng có hiệu quả pháp luật hình sự về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1 . Ý nghĩa lý luận của luận án

Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần thống nhất hóa trong nhận thức lý
luận của giới luật học về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, qua đó góp phần hoàn thiện
hoạt động xây dựng và áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội nói trên.
6.2 . Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được giới hoạt động thực tiễn tham
khảo, sử dụng trong quá trình phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản. Kết quả nghiên cứu của luận án cịn có thể được tham khảo
phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập về luật hình sự tại các cơ sở đào
tạo luật học ở nước ta.

7


7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận án được cơ cấu thành 04 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Chương 2: Những vấn đề lý luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Chương 3: Quy định của pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
và thực tiễn áp dụng tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 4: Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng có hiệu quả pháp luật
hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

8


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1 Tình hình nghiên cứu trong nước
Vấn đề phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm nói chung và tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản nói riêng ln mang tính thời sự, vì vậy đã và đang được nhiều
nhà luật học nước ta quan tâm nghiên cứu. Kết quả là, đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu khoa học trong nước về hoặc có liên quan đến những vấn đề lý luận,
quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản cũng như về các giải pháp bảo đảm áp dụng có hiệu quả hoặc nâng cao
chất lượng áp dụng pháp luật hình sự đối với tội nói trên, được cơng bố. Q trình
thực hiện đề tài luận án, nghiên cứu sinh tham khảo các tài liệu trong nước ở các
cấp độ (khoa học) khác nhau để từ đó nhận diện và đánh giá những vấn đề gì đã
được nghiên cứu? nghiên cứu đến đâu? những vấn đề gì chưa được nghiên cứu? cần
nghiên cứu mới...Trên cơ sở tổng thể các cơng trình nghiên cứu được tham khảo,
nghiên cứu sinh tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong nước như sau:
1.1.1 Những cơng trình có đề cập nghiên cứu những vấn đề lý luận về tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Trước hết cần nhấn mạnh rằng, ở Việt Nam, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
được quy định tương đối sớm trong lịch sử pháp luật hình sự. Hành vi phạm tội này
bị xử lý trên thực tế cũng tương đối nhiều so với các loại hành vi phạm tội khác.
Đó cũng là một trong những lý do giải thích vì sao tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã
được các nhà luật học nước ta chú trọng nghiên cứu từ rất sớm và vì sao có khá
nhiều cơng trình khoa học về hoặc có liên quan đến tội này đã được cơng bố. Trong
số những cơng trình khoa học như vậy có thể kể đến:
- Luận án tiến sĩ “Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu” của
tác giả Nguyễn Ngọc Chí được thực hiện tại Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp
luật vào năm 2001. Cơng trình này nghiên cứu về trách nhiệm hình sự đối với các
tội xâm phạm sở hữu, trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản một cách tồn
diện, có hệ thống trên hai bình diện: tội phạm học và luật hình sự. Luận án đã nhận
xét, đánh giá về đặc điểm tình hình các tội xâm phạm sở hữu, phân tích một cách

9



có hệ thống chính sách hình sự, ngun tắc xử lý và các hình thức trách nhiệm
hình sự đối với các tội này. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của luận án rộng,
bao gồm toàn bộ các tội xâm phạm sở hữu nên dung lượng nghiên cứu về tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản tương đối hạn chế. Bên cạnh thành cơng của luận án để tác
giả có thể tham khảo thì do luận án này hồn thành cách đây đã khá lâu (từ năm
2001), nên có một số quan điểm, cách tiếp cận trong luận án đến nay đã khơng cịn
phù hợp; có những sự kiện, vấn đề mới phát sinh trên các phương diện học thuật
và thực tế từ đó đến nay cũng cần được cập nhật để phù hợp hơn.
- Luận án tiến sĩ luật học “Các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” đã được tác giả Nguyễn Văn Thanh
bảo vệ thành công vào năm 2016 tại Học viện Khoa học xã hội. Luận án đã làm rõ
những vấn đề lý luận về các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam,
như khái niệm, dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội phạm cụ thể thuộc chương
các tội xâm phạm sở hữu, phân biệt các tội phạm cụ thể thuộc chương này và phân
tích lịch sử phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm sở hữu.
Tuy nhiên, với phạm vi nghiên cứu rộng bao gồm tất cả các tội xâm phạm sở hữu
được quy định tại Chương các tội xâm phạm sở hữu của BLHS, nội dung nghiên
cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa thực sự đầy đủ và sâu sắc. Bên cạnh đó,
trong quy định của BLHS năm 2015 (SĐ, BS 2017) về tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, có khá nhiều điểm mới được sửa đổi, bổ sung, trong khi cơng trình khoa học
của tác giả Nguyễn Văn Thanh được thực hiện trên cơ sở quy định của BLHS năm
1999 (SĐ, BS 2009), vì vậy, một số nội dung sẽ cần được cập nhật để phù hợp với
quy định của BLHS hiện hành.
- Luận văn thạc sĩ luật học “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang” của tác giả Trịnh Hồng Phương, đã
bảo vệ thành công năm 2016 tại Học viện Khoa học xã hội. Trong luận văn này, tác
giả Trịnh Hồng Phương có đề cập phân tích những vấn đề lý luận và quy định của
pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bao gồm: khái niệm, các dấu
hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản với một số tội danh khác có một số dấu hiệu tương đồng. Với dung lượng của


10


một luận văn thạc sĩ luật học, các vấn đề lý luận được đề cập phân tích chưa thực sự
đầy đủ, toàn diện. Mặt khác, đề tài luận văn được nghiên cứu trên cơ sở quy định
của BLHS năm 1999 (SĐ, BS 2009) về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trong khi như
đã nhấn mạnh, quy định về tội danh này trong BLHS năm 2015 (SĐ, BS 2017) đã
có một số thay đổi nên cũng cần được bổ sung, cập nhật cho phù hợp.
- Luận văn thạc sĩ luật học “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thùy Liên, đã được tác giả này bảo vệ
thành công vào năm 2016 tại Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Trong
luận văn này, tác giả Nguyễn Thị Thùy Liên cũng đề cập phân tích các vấn đề lý
luận như khái niệm, đặc điểm, cơ sở chính trị - pháp lý của việc quy định về tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật Hình sự, các dấu hiệu pháp lý và phân biệt tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội danh khác có dấu hiệu tương đồng. Tuy
nhiên, luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Thùy Liên chưa đề cập đến
khía cạnh lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng
như chưa đề cập đến quy định của pháp luật hình sự của các nước trên thế giới về
tội danh này. Và cũng như nhiều cơng trình khoa học khác, đề tài của luận văn thạc
sĩ luật học này được thực hiện trên cơ sở quy định của BLHS năm 1999 (SĐ, BS
2009) nên có một số vấn đề chưa phù hợp với quy định của Bộ luật hình sự hiện
hành, vì vậy, cần có sự cập nhật, bổ sung.
- Luận văn thạc sĩ luật học “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản” do tác giả Vũ Thị Kim Oanh thực hiện và đã
bảo vệ thành công tại Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội năm 2022. Trong luận văn
này, tác giả Vũ Thị Kim Oanh chủ yếu phân tích lý luận và thực trạng công tác thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bởi
vậy, nội dung nghiên cứu lý luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được đề cập
tương đối hạn chế ở một mục nhỏ là nhận thức về vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Trong đó, tác giả đã phân tích khái niệm tội phạm, khái niệm lừa đảo và từ đó đưa
ra khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bên cạnh đó, luận văn cũng phân tích
các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, trong
một luận văn mà tác giả của nó chủ yếu đi sâu vào công tác thực hành quyền công

11


tố trong giai đoạn điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nên nội dung lý luận về
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa thực sự đầy đủ và sâu sắc.
- Luận văn thạc sĩ luật học “Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước” của tác
giả Lê Quang Ninh, được bảo vệ thành công vào năm 2019 tại Học viện Khoa học
xã hội. Mặc dù đề tài luận văn được nghiên cứu trên cơ sở quy định của BLHS năm
2015 (SĐ, BS 2017) về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhưng tác giả của nó chỉ tập
trung nghiên cứu một nội dung chuyên sâu là định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, nên lý luận được phân tích là khái niệm, ý nghĩa của định tội danh nói
chung; lý luận về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và cơ sở pháp lý của
định tội danh tội này theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. Vì vậy, lý luận
về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa được luận văn đề cập phân tích sâu.
- Luận văn thạc sĩ “Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp
luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tế số liệu từ địa bàn tỉnh Đắk Lắk)” do tác
giả Trương Thị Đông thực hiện, bảo vệ năm 2015 tại Trường Đại học Quốc gia Hà
Nội cũng có nội dung nghiên cứu với nhiều điểm tương đồng với cơng trình vừa
được đề cập trên đây. Tuy nhiên, cơng trình này được nghiên cứu trên cơ sở quy
định của BLHS năm 1999 (SĐ, BS 2009) về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nên một
số nội dung khơng cịn phù hợp với pháp luật hình sự hiện hành.
- Luận văn thạc sĩ “Dấu hiệu định tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo
luật hình sự Việt Nam” của tác giả Thái Xuân Trinh, được thực hiện và bảo vệ năm
2019 tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Đề tài luận văn này được

nghiên cứu trên cơ sở quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (SĐ, BS 2017) nên
đã cập nhật quy định pháp luật hiện hành một cách tương đối đầy đủ. Trong cơng
trình này tác giả tập trung nghiên cứu các dấu hiệu định tội danh của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, nên các dấu hiệu định khung tăng nặng, tức cấu thành tội phạm
tăng nặng không được đề cập nghiên cứu. Vì vậy, các vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa
được đề cập nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ.

12


Bên cạnh đó, cịn có luận án tiến sĩ luật học “Các tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh: tình hình, ngun nhân
và giải pháp phịng ngừa” của tác giả Đồn Cơng Viên, bảo vệ thành cơng năm
2018 tại Học viện Khoa học xã hội; Luận văn thạc sĩ luật học “Phòng ngừa tội
phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lĩnh vực ngân hàng trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh” của tác giả Phạm Văn Tuân, bảo vệ năm 2014 tại Trường Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Trong các cơng trình này, mặc dù nghiên cứu dưới
góc độ tội phạm học nhưng các tác giả cũng đã phân tích một số vấn đề lý luận như
khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, nội
dung lý luận này có dung lượng tương đối hạn chế, chỉ mang tính cơ bản.
Trong số những cơng trình nghiên cứu khoa học có đề cập phân tích khía
cạnh lý luận của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà nghiên cứu sinh có tham khảo để
thực hiện tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong nước, có các cuốn sách bình luận
Khoa học Bộ luật hình sự của các tác giả khác nhau, trong số đó có thể kể đến:
- Cuốn sách“Bình luận Bộ luật hình sự năm 2015” của tác giả Đinh Văn
Quế, trong đó, các tội xâm phạm sở hữu được bình luận tại Chương XVI. Mỗi một
tội danh trong chương này đều được tác giả phân tích theo các dấu hiệu thuộc bốn
yếu tố cấu thành tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng, các hình phạt
chính, các hình phạt bổ sung đối với tội phạm đó. Tác giả cuốn sách dành một dung

lượng tương đối lớn đề bình luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ngồi việc nêu
và phân tích định nghĩa về lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bốn yếu tố cấu thành tội
phạm, tác giả cịn tập trung phân tích các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản,
cấu thành tội phạm tăng nặng của tội nói trên một cách tương đối toàn diện và sâu
sắc dựa trên quy định của BLHS hiện hành.
- Cuốn sách “Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản” do
PGS.TS Cao Thị Oanh làm chủ biên được xuất bản năm 2015 tại Nxb Tư pháp.
Cơng trình này vừa khái qt về các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
vừa phân tích các quy định cụ thể về từng tội danh. Trong đó, tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản là một trong số tám tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản
được nghiên cứu. Mỗi một tội danh đều được các tác giả phân tích về dấu hiệu pháp

13


lý với bốn yếu tố cấu thành tội phạm, quy định về hình phạt theo quy định của
BLHS năm 1999 (SĐ, BS 2009). Tuy nhiên, vì nghiên cứu nhiều nội dung về nhiều
tội danh nên dung lượng nghiên cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn tương đối
hạn chế, chỉ mang tính cơ bản. Mặt khác, quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trong BLHS hình sự hiện hành đã có sự thay đổi đáng kể so với quy định của BLHS
năm 1999 (SĐ, BS 2009) nên một số nội dung khơng cịn phù hợp, cần được bổ sung.
Cuốn “Các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa
đổi bổ sung năm 2009” của tác giả Nguyễn Mai Bộ được xuất bản năm 2010 tại
Nxb Chính trị quốc gia. Đây là một cơng trình nghiên cứu khá cơng phu về các tội
xâm phạm sở hữu nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Ở Chương
1, cuốn sách đã phân tích những vấn đề lý luận chung về quyền sở hữu tài sản,
khái niệm các tội xâm phạm sở hữu, các yếu tố cấu thành của các tội xâm phạm sở
hữu. Trong phần Chương 2, tác giả đã phân tích cụ thể từng tội danh theo quy định
của BLHS năm 1999 (SĐ, BS 2009), trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Đặc biệt, trên cơ sở phân tích các yếu tố cấu thành cụ thể của từng tội trong nhóm

tội xâm phạm sở hữu, cuốn sách đã nêu ra một số vướng mắc trong thực tiễn khi
áp dụng quy định của pháp luật về một số tội danh cụ thể. Tuy nhiên, vì nghiên cứu ở
phạm vi rộng gồm tất cả các tội xâm phạm sở hữu nên nội dung nghiên cứu về tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản chưa thực sự toàn diện, đầy đủ. Mặt khác, cơng trình được
nghiên cứu trên cơ sở BLHS năm 1999 nên nhiều nội dung cần được bổ sung, sửa đổi
cho phù hợp với quy định của BLHS hiện hành. Mặc dù vậy, cơng trình cũng là tài
liệu tham khảo có giá trị để tác giả nghiên cứu lý luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trong luận án của mình.
- Ở cấp độ sách bình luận khoa học Bộ luật hình sự, ngồi cuốn sách nói trên,
cịn có thể kể đến:“Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) phần các tội phạm” của tác giả Trần Văn Luyện (cùng các tác giả khác)
do Nxb Công an nhân dân xuất bản năm 2017; “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
hiện hành (sửa đổi, bổ sung năm 2017)” do tác giả Nguyễn Đức Mai làm chủ biên,
xuất bản năm 2018 tại Nxb Chính trị quốc gia sự thật; “Bình luận khoa học Bộ luật
hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 (phần các tội phạm)” do GS. TS
Nguyễn Ngọc Hòa làm chủ biên, xuất bản tại Nxb Tư pháp năm 2017; “Bình luận
khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)” của các tác giả

14


Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng, xuất bản năm 2017 tại Nxb Thế Giới; “Bình
luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017” của tác
giả Lê Quang Thành, xuất bản tại Nxb Lao động năm 2020; …
Tất cả các giáo trình Luật hình sự của các cơ sở giáo dục Đại học và sau đại
học ở nước ta đều đề cập phân tích những vấn đề lý luận về tội phạm nói chung,
một nhóm tội, một tội cụ thể nói riêng, trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Trong số các giáo trình luật hình sự, có thể kể đến Giáo trình “Luật hình sự Việt
Nam: Phần các tội phạm”, của Học viện Khoa học xã hội, do GS.TS. Võ Khánh
Vinh làm chủ biên, xuất bản năm 2014 tại Nxb Khoa học xã hội; Giáo trình “Luật

hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm)” của Trường Đại học luật Hà Nội, xuất bản năm
2018 tại Nxb Công an nhân dân; Giáo trình “Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội
phạm - quyển 1)” của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, xuất bản năm
2015 tại Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam...
Trong các cuốn sách bình luận khoa học Bộ luật hình sự và các giáo trình
Luật hình sự, khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
được các tác giả phân tích trên cơ sở quy định của BLHS, có so sánh với các quy
định về tội tương ứng trong các BLHS trước đây và có liên hệ thực tiễn áp dụng.
Tuy nhiên, vì có phạm vi nghiên cứu rộng, nên khi phân tích khái niệm và các dấu
hiệu pháp lý của từng tội cụ thể như tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chẳng hạn, các
tác giả không đưa ra các quan điểm khoa học khác nhau cũng như khơng cập nhật
thực tiễn tình hình tội phạm và tình hình xử lý tội phạm trên thực tế, nên giá trị khoa
học chun sâu của các cơng trình khoa học đó chưa thật cao. Mặc dù vậy, những
cơng trình này là tài liệu tham khảo bổ ích cho nghiên cứu sinh khi nghiên cứu
những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Trong số những cơng trình nghiên cứu khoa học ở trong nước về hoặc có đề
cập đến khía cạnh lý luận của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà nghiên cứu sinh
tham khảo để thực hiện đề tài luận án này có các bài viết đã cơng bố trên các tạp chí
chuyên ngành luật học, trong số đó có thể kể đến như: “Bàn về yếu tố “chiếm đoạt
tài sản” trong các tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và “lừa đảo chiếm
đoạt tài sản” của tác giả Nguyễn Thị Phương Thảo đăng trên Tạp chí kiểm sát số

15


09/2012; “Các tội xâm phạm sở hữu” của tác giả Nguyễn Mai Bộ đăng trên Tạp chí
Tịa án nhân dân số 9 kỳ I tháng 5/2018; “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản – Những
vướng mắc cần khắc phục” của tác giả Triệu Thị Tút đăng trên tạp chí Tịa án
nhân dân năm 2019; “Nhận diện một số phương thức, thủ đoạn của tội phạm sử
dụng công nghệ cao” của tác giả Nguyễn Thị Xuân Thu đăng trên Tạp chí Cảnh sát

nhân dân năm 2018; “Kinh nghiệm thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các
vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản” của các tác giả Lê Thị Thùy Hương và Nguyễn
Thu Quý đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 13/2021; “Một số lưu ý khi kiểm sát việc
giải quyết vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản” của tác giả Ngơ Thùy Khánh Linh
đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 02/2021; “Thủ đoạn gây án và che giấu tội phạm của
các đối tượng lừa đảo chiếm đoạt tài sản” của các tác giả Bùi Trần Cường và Trần
Thành Vinh, đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 24/2021; “Bàn về việc xử lý hành vi sử
dụng giấy tờ, tài liệu giả để lừa đảo chiếm đoạt tài sản” của tác giả Nguyễn Đức
Hà đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 21/2021; “Xác định tình tiết định khung hình phạt
đối với các tội xâm phạm sở hữu có cấu thành hình thức” của tác giả Nguyễn Thị
Minh Trang đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 18/2021...
Trong các bài viết trên đây, các tác giả chủ yếu phân tích một số khía cạnh lý
luận của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc một số vướng mắc trong thực tiễn áp
dụng quy định pháp luật về tội danh này mà khơng nghiên cứu một cách tổng thể,
tồn diện cả lý luận lẫn thực tiễn về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Bởi tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có một số dấu hiệu được quy định trong
BLHS có tính “đan xen” với một số dấu hiệu của một số tội danh khác, nên trong
quá trình áp dụng pháp luật đã xảy ra những hạn chế, thiếu sót đáng tiếc. Vì vậy, về
mặt lý luận, việc phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội danh khác là
nhu cầu đặt ra cần được giải quyết một cách thấu đáo. Cũng vì vậy, đã có số bài viết
đề cập đến về vấn đề này. Trong số những bài viết như vậy, có thể kể đến: “Phân
biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm xâm phạm sở hữu khác” của
tác giả Triệu Thị Tút đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân năm 2019; “Về sử dụng
mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt
tài sản” của tác giả Nguyễn Quý Khuyến đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 09/2020;

16


“Phân biệt một số tội phạm có hành vi chiếm đoạt tài sản” của tác giả Đinh Văn

Quế đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 3/2021; …Kết quả nghiên cứu của các bài viết
vừa được liệt kê trên đây giúp rất nhiều cho nghiên cứu sinh trong việc nghiên cứu
đúng đắn hơn, toàn diện hơn, đầy đủ hơn, sâu sắc hơn các dấu hiệu pháp lý của tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trên cơ sở phân biệt tội này với một số tội khác có dấu
hiệu “đan xen” được quy định trong BLHS.
1.1.2 Những cơng trình nghiên cứu khía cạnh thực tiễn của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản
Trong quá trình thực hiện đề tài luận án, nghiên cứu sinh có tham khảo các
cơng trình nghiên cứu, trong đó có đề cập đến khía cạnh thực tiễn của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản thể hiện ở hai phương diện pháp luật hình sự thực định và áp
dụng pháp luật trên thực tế. Trong số những cơng trình khoa học như vậy, có thể kể
đến một số cơng trình nổi bật như sau:
- Luận án tiến sĩ luật học “Các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Văn Thanh, bảo
vệ thành công vào năm 2016 tại Học viện Khoa học xã hội. Bên cạnh phần lý luận,
luận án đã phân tích nội dung các quy định của BLHS năm 1999 (SĐ, BS 2009) về
các tội xâm phạm sở hữu, trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và thực tiễn áp
dụng các quy định đó tại Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2011 đến năm 2015, đánh
giá kết quả đạt được, chỉ ra những hạn chế, hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của
những hạn chế, thiếu sót trong quá trình áp dụng, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm
sở hữu tại thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, bởi phạm vi nghiên cứu rộng bao
gồm tất cả các tội xâm phạm sở hữu được quy định tại Chương các tội xâm phạm sở
hữu của BLHS, nên nội dung nghiên cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa
thực sự đầy đủ và sâu sắc. Đồng thời, bởi được nghiên cứu trên cơ sở quy định của
BLHS năm 1999 (SĐ, BS 2009) và các số liệu cũng như các bản án điển hình phục
vụ nghiên cứu được khảo sát, thu thập trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến năm
2015, nên kết quả nghiên cứu khía cạnh thực tiễn của các tội xâm phạm sở hữu,
trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phù hợp với giai đoạn trước khi ban hành


17


BLHS năm 2015 (SĐ, BS 2017). Mặc dù vậy, kết quả nghiên cứu khía cạnh thực
tiễn của các tội xâm phạm sở hữu, trong đó có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản giúp
rất nhiều cho nghiên cứu sinh trong việc lựa chọn cách tiếp cận nghiên cứu khái
cạnh thực tiễn của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gắn với quy định của BLHS năm
2015 (SĐ, BS 2017) và thực tiễn áp dụng tại thành phố Hồ Chí Minh trong giai
đoạn hiện nay.
- Luận văn thạc sĩ luật học “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang” của tác giả Trịnh Hồng Phương, bảo
vệ thành công năm 2016 tại Học viện Khoa học xã hội. Trong luận văn thạc sĩ luật
học này, bên cạnh những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự về tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản và thực tiễn áp dụng nó tại tỉnh Bắc Giang cũng được đề cập
phân tích, đánh giá. Từ kết quả nghiên cứu lý luận, quy định của pháp luật hình sự
và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bắc Giang từ năm 2011 đến năm 2015, luận văn đề
xuất các giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng quy định của pháp luật hình sự về
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, với một địa phương có số lượng vụ án lừa
đảo chiếm đoạt tài sản khơng nhiều như Bắc Giang thì những hành vi, thủ đoạn
phạm tội cũng như thực trạng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội
này chưa thực sự có tính điển hình, đặc trưng. Mặt khác, cơng trình được nghiên
cứu trên cơ sở quy định của BLHS năm 1999 (SĐ, BS 2009) về tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, trong khi hiện nay quy định của BLHS năm 2015 (SĐ, BS 2017) về tội
danh này đã có một số thay đổi và thực trạng áp dụng pháp luật tất nhiên cũng đã có
sự thay đổi nên cũng cần được bổ sung, cập nhật cho phù hợp.
- Luận văn thạc sĩ “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thùy Liên được thực hiện năm 2016 tại Trường
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Cơng trình này đã phân tích nội dung của
quy định của BLHS năm 1999 (SĐ, BS 2009) về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và
thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội danh này ở Việt Nam từ năm 2010 đến năm

2014, từ đó đưa ra một số kiến nghị hồn thiện pháp luật hình sự đối với quy định
về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bởi số liệu cũng như các bản án điển hình được
khảo sát, thu thập trên phạm vi cả nước, nên thực tiễn áp dụng pháp luật mang tính

18


×