THỰC TRẠNG MUA BÁN CÁC LOÀI NGOẠI LAI TẠI VIỆT NAM – NHỮNG
VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Tác giả 1
Tác giả 2
Tóm tắt: Hoạt động mua bán các loài ngoại lai đang ngày một phát triển rộng khắp tại Việt Nam, nhằm
thoả mãn nhu cầu nuôi làm kiểng của một bộ phận dân chúng, chủ yếu ở giới trẻ hiện nay. Tuy nhiên, sự
bùng nổ của hoạt động mua bán các loài ngoại lai đang ẩn chứa những nguy cơ đáng báo động đối với
hệ sinh thái của Việt Nam, tính mạng động vật cùng nhiều lồi động thực vật quý hiếm bị đe doạ nghiêm
trọng. Trên cơ sở phân tích những nguy cơ đối với an ninh về môi trường do hoạt động mua bán các loài
ngoại lai, bài viết đưa ra những vấn đề pháp lý cần giải quyết trong kiểm soát hoạt động mua bán các
lồi ngoại lai nói riêng và các vấn đề pháp lý về bảo vệ mơi trường nói chung tại Việt Nam.
Từ khóa: bảo vệ mơi trường, động vật hoang dã, loài ngoại lai, mối đe dọa.
Abstract: The trading of exotic species is growing widely in Vietnam, to satisfy the ornamental needs of a
segment of the population, mainly the younger generation. However, the boom in trading activities poses
alarming risks to Vietnam's ecosystem, animal lives and many rare flora and fauna species are seriously
threatened. Based on the analysis of risks to environmental security caused by the trading of alien
species, the article presents legal issues that need to be resolved in controlling the trading of alien
species in particular and legal issues on environmental protection in general in Vietnam.
Keywords: alien species, environmental protection, threats, wild animals.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong nhiều năm qua, Đảng ta đặt ra nhiều chủ trương về bảo vệ môi trường được thể hiện cụ thể
trong các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến Đại hội XIII. Điển hình như: trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, sửa đổi, bổ sung năm 2011; trong
các Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 1991 - 2000, 2001 - 2010, 2011 - 2020, 2021 - 2030;
Chỉ thị số 36-CT/TW, ngày 25-6-1998, của Bộ Chính trị “Về tăng cường công tác bảo vệ môi trường
trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị, ngày
15-11-2004, “Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước”. Và
để thực hiện được chủ trương mà Đảng đã đề ra, Nhà nước ta khơng ngừng bổ sung, cập nhật tình hình
thực tế để xây dựng Luật bảo về môi trường ngày càng hồn thiện, và nay là Luật Bảo vệ mơi trường năm
2020 đã thể hiện được sự chuyển hóa rõ rệt quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường, từ việc quy định
chung ban đầu về bảo vệ môi trường qua các lần sửa đổi, thay thế, Nhà nước đã thể chế các quan điểm
của Đảng về chủ động kiểm sốt ơ nhiễm mơi trường; tăng cường vai trị của Nhà nước, cộng đồng trong
bảo vệ mơi trường nói chung và hoạt động liên quan đến động vật hoang dã (ĐVHD) nói riêng.
Xác định rõ ràng tầm quan trọng đối với đa dạng sinh học của quốc gia và các mối đe doạ đối
với tính đa dạng sinh học quốc gia đang phải hứng chịu, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định số
35/2003/QĐ-TTg ngày 06/03/2003 giao Bộ Tài nguyên và Mơi trường (Bộ TNMT) có trách nhiệm chủ
trì soạn thảo Luật Đa dạng Sinh học. Luật Đa dạng Sinh học lần đầu tiên sẽ được soạn thảo trên cơ
sở tham vấn rộng rãi để tất cả công dân cùng các tổ chức quốc tế tham gia đóng góp ý kiến. Luật đồng
thời cũng giúp Việt Nam thực thi đầy đủ nghĩa vụ theo các cam kết quốc tế và khẳng định vị thế của Việt
Nam định một thành viên của Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN). Bản dự thảo Luật
Đa dạng Sinh học sẽ được mang đến để Quốc hội xin ý kiến vào đầu năm 2007 và bản thảo lần thứ nhất
sẽ chính thức hồn thành trong tháng Bảy năm 2006. Ghi nhận trình độ chuyên mơn của BirdLife
International đối với danh mục các lồi bị đe doạ cả ở phạm vi quốc tế (là cơ quan uỷ nhiệm chính thức
của IUCN đối với cơng tác lập danh lục đỏ các loài động vật bị đe doạ) cũng như phạm vi khu vực (bao
gồm Việt Nam và các nước khác), Vụ Môi trường của Bộ Tài nguyên và Môi trường đã đề nghị
BirdLife International thực hiện một nghiên cứu thu thập dữ liệu mẫu bao gồm các loài bị đe doạ và loài
ngoại lai phục vụ các khuyến nghị về nội dung của Luật Đa dạng Sinh học.
Trong bối cảnh đó, nhận thấy các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường hiện
nay vẫn chưa có tính thống nhất, cịn nhiều lỗ hổng cũng như bất cập và do vậy không đáp ứng được yêu
cầu quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Chính vì thế, bài viết nhằm phân tích các quy định chủ yếu của
pháp luật đối với hành vi buôn bán các loài ngoại lai và pháp luật về bảo vệ môi trường tại Việt Nam,
đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật và qua đó đề xuất các biện pháp phù hợp nhằm hoàn thiện hệ
thống những quy phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường nhằm ngăn chặn việc vận chuyển và mua
bán ĐVHD đặc biệt là các loài ngoại lai bất hợp pháp hiện đang là nguyên nhân dẫn các loài ĐVHD của
Việt Nam đến nguy cơ tuyệt chủng.
2. THỰC TRẠNG MUA BÁN CÁC LOÀI NGOẠI LẠI TẠI VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
PHÁP LÝ VỀ BẢO VỆ MƠI TRƯỜNG
2.1. Thực trạng mua bán các lồi ngoại lai tại Việt Nam
2.1.1. Tổng quan về các loài ngoại lai
Lồi ngoại lai là lồi động, thực vật mà mơi trường sinh sống bình thường của họ khơng nằm
trong khu vực địa lý của lồi đó. Chúng được đưa vào một mơi trường mới thơng qua hoạt động con
người. Lồi ngoại lai có thể nhập khẩu từ các quốc gia khác hoặc được tạo ra thông qua kỹ thuật chọn lọc.
Lồi ngoại lai thường có khả năng sinh sản nhanh chóng và thiết lập được dân số lớn trong mơi trường
mới, gây cạnh tranh với các loài bản địa. Điều này có thể dẫn đến sự thay đổi nghiêm trọng trong cấu trúc
sinh thái tự nhiên, ảnh hưởng đến sự đa dạng sinh học và làm mất cân bằng hệ sinh thái. Ở Việt Nam, các
loài ngoại lai xâm hại cũng ảnh hưởng mạnh đến các hệ thống nước ngọt và nông nghiệp gây ra những
thiệt hại nặng nề về kinh tế. Đơn cử, Ốc bươu vàng, một loài gốc Nam Mỹ được du nhập vào Việt Nam
cuối những năm 1980 đã trở thành một trong những loài gây hại nguy hiểm nhất đối với canh tác lúa và
làm thất thoát sản lượng lúa đến hàng triệu USD hàng năm.
Trong bối cảnh vơ số lồi ngoại lai xâm lấn được mua bán với mục tiêu đem lại lợi nhuận cho
con người, báo cáo của IPBES nhận thấy rằng những tác động tiêu cực của những loài xâm lấn là vô cùng
nghiêm trọng đến môi trường sống con người. Các loài ngoại lai xâm lấn là nguyên nhân hàng đầu gây ra
60% và là nguyên nhân duy nhất gây ra 16% số vụ tuyệt chủng động vật và thực vật tồn cầu được ghi
nhận, và ít nhất 218 lồi ngoại lai xâm lấn đã gây ra hơn 1.200 vụ tuyệt chủng cục bộ. Tương tự, 85% các
tác động được ghi nhận là tiêu cực đối với chất lượng đời sống của con người - Bài học từ những tác động
tiêu cực do Covid-19 đã gây ra trên toàn cầu cho thấy việc áp dụng các phương pháp quản lý thích hợp để
giảm thiểu nguy cơ lan truyền bệnh dịch lây nhiễm có nguồn gốc từ động vật trong tương lai là vô cùng
cấp thiết nhằm đảm bảo sức khoẻ con người và ổn định nền kinh tế Việt Nam.
2.2.2. Thực tiễnrạng mua bán các loài ngoại lai tạiở Việt Nam
Theo ENV, từ tháng 1 đến hết tháng 9/2023, cơ quan chức năng đã tịch thu hơn 2.000 cá thể
ĐVHD còn sống và bắt giữ các đối tượng có liên quan trong 110 vụ vi phạm. Trong số 145 vụ án về
ĐVHD được đưa ra xét xử trong giai đoạn này, hình phạt tù đã được áp dụng cho các đối tượng phạm tội
của 63 vụ án. Cũng trong thời gian này, ENV ghi nhận được tổng mức phạt hành chính được áp dụng cho
các đối tượng quảng cáo, nuôi nhốt và buôn bán ĐVHD trái phép là 13,4 tỷ đồng. Trong đó, nhiều vụ
quảng cáo và bn bán các lồi ngoại lai liên quan đến hành vi nuôi nhốt các lồi ngoại lai. Phần lớn hoạt
động quảng cáo và bn bán các loài ngoại lai diễn ra trên nhiều nền tảng mạng xã hội khác nhau, rộng
khắp như: Facebook, YouTube, Zalo, Instagram, TikTok và các kênh, hay các trang web trực tuyến khác
nhưng với số lượng ít hơn. Chỉ trong năm 2021, cả nước ghi nhận hơn 3.700 vụ việc vi phạm liên quan
động vật hoang dã. Trong đó, hành vi quảng cáo, rao bán trái phép động vật hoang dã chiếm tới 2.594 vụ
việc, tiếp theo là gần 1.000 vụ việc liên quan đến tàng trữ, bắt nhốt trái phép và hơn 180 vụ việc buôn
bán, vận chuyển trái phép các lồi động vật hoang dã, trong đó bao gồm cả các loài động vật ngoại lai.
Theo báo cáo của Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên (ENV), trong 3 tháng đầu năm 2022, đơn vị này đã
ghi nhận 808 vụ vi phạm về mua bán, vận chuyển động vật hoang dã. Trong đó, 46 vụ vận chuyển và
bn bán động vật hoang dã quy mô lớn; 588 vụ quảng cáo và bán lẻ động vật hoang dã; 164 vụ tàng trữ,
nuôi nhốt ĐVHD.
Việt Nam đang trở thành một thị trường lớn cho việc mua bán loài ngoại lai, đặc biệt là các loài
động vật như rùa, cá, chim, hươu và các loài cây cảnh. Tuy nhiên, quy định về mua bán loài ngoại lai hiện
tại chưa đủ để kiểm soát hoạt động này. Theo một báo cáo mới của Nền tảng liên chính phủ về đa dạng
sinh học và dịch vụ hệ sinh thái (IPBES), đã có hơn 37.000 loài ngoại lai được phát tán bởi nhiều hoạt
động của con người tới các khu vực và quần xã sinh vật trên khắp thế giới. Trong đó có hơn 3.500 lồi có
hại, đe dọa nghiêm trọng đến thiên nhiên và chất lượng cuộc sống của con người . Mua bán lồi ngoại lai
khơng kiểm sốt cịn gây ra các ảnh hưởng nghiêm trọng đến mơi trường. Các lồi ngoại lai có thể xâm
nhập vào các khu bảo tồn thiên nhiên, làm suy giảm đa dạng sinh học của khu vực đó và gây ra các vấn
đề về cạnh tranh cho các loài bản địa, khiến cho các loài quý hiếm bị đe dọa và dần biến mất.
=>Chuyển một số nội dung 2.2.3 lên sắp xếp không trùng lặp nội dung
=>Thực tiễn => thực tế đang diễn ra, có khó khăn, có vấn đề (về áp dụng pl, kinh nghiệm xử lý,
trình độ chun mơn, …) khác với thực trạng trong quy định của pháp luật=> giải pháp chủ yếu là thực
hiện đúng, xử lý quy định, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tuyên truyền, giáo dục, đầu tư tài
chính,…
2.2.3. Thực trạngiễn pháp luật về kiểm sốt mua bán các loài ngoại lai tại Việt Nam - vấn đề
pháp lý về bảo vệ môi trường
=> Tập trung phân tích thực trạng, bất cập trong quy định của pháp luật (chưa có quy định, có
nhưng chồng chéo, mâu thuẫn, có quy định nhưng ko áp dụng được,…)=> giải pháp ban hành quy định,
hướng dẫn quy định, sửa đổi, bổ sung điều luật,…
Hiện nay, thực trạng mua bán và gia tăng sự tiếp cận các loài ngoại lai đã gây ra những hệ quả
không mong muốn đối với môi trường. Việc phát hành hoặc tràn lan các loài ngoại lai khơng kiểm sốt có
thể gây thiệt hại lớn cho mơi trường và đe dọa sự tồn tại của các loài bản địa. Pháp luật về kiểm sốt lồi
ngoại lai hiện nay ở Việt Nam cịn rất hạn chế. Chưa có quy định đầy đủ và cụ thể về việc ki ểmếm sốt
tất cả các lồi ngoại lai mà mới chỉ có quy định về việc kiểm sốt lồi thủy sinh ngoại lai đươc quy định
tại thông tư 53/2009/TT-BNNPTNT ngày 2 tháng 8 năm 2009. Việt Nam đã có một số quy định pháp luật
về mua bán loài ngoại lai nhằm kiểm soát và hạn chế hoạt động này. Tuy nhiên, còn nhiều bất cập trong
quy định này khiến cho việc kiểm soát vẫn chưa hiệu quả. Các quy định hiện tại chưa đủ để ngăn chặn
mua bán loài ngoại lai trái phép và không cung cấp đủ các biện pháp xử lý vi phạm.
Bên cạnh những thành tựu đạt được cả trên phương diện pháp luật mà còn trong thực tiễn thi
hành, hiện vẫn tồn tại những vấn đề còn vướng mắc đối với việc triển khai trên thực tế cơng tác kiểm sốt
lồi ngoại lai tại Việt Nam. Cụ thể:
Thứ nhất, việc nhập khẩu lồi ngoại lai khơng có định hướng, kế hoạch; thiếu văn bản hướng dẫn
để xác định rủi ro khi lần đầu nhập khẩu; quá trình thông quan thiếu minh bạch dẫn đến nhập khẩu ổ ạt vì
lợi ích kinh tế. Ở thời điểm hiện tại, khái niệm ngoại lai dường như không được người dân thật sự nắm
vững dẫn tới việc bỏ qua những loài sinh vật ngoại lai cịn tồn tại. Các lồi sinh vật ngoại lai dường như
chưa được quan tâm nhiều đến nửa đầu thập niên 1990, khi dịch ốc bươu vàng bùng nổ từ đồng bằng
sông Cửu Long đến Đồng bằng Bắc. Cùng thời điểm, trào lưu nhập khẩu cá tra, chuột nhung đen, hải y về
Việt Nam diễn ra rầm rộ; với lời đồn đại đảm bảo chất lượng thịt cùng giá thành cao. Trái với đó, đầu ra
cho lồi sinh vật ngoại lai quá hẹp, do đó khả năng tăng trưởng thấp. Cục chăn nuôi trực thuộc Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn đã phải yêu cầu các địa phương khơng ni chuột nhung đen, đồng thời
kiểm sốt chặt chẽ các trang trại. Có thể thấy, phải sau khi mỗi loài ngoại lai được nhập khẩu về Việt
Nam và đã gây thiệt hại thì cơ quan chức năng mới phát hiện và xử lý. Những bài học nhãn tiền về một số
giống ngoại lai tưởng chừng như đã có tác dụng cảnh tỉnh sự thận trọng của người dân thế nhưng người
dân lại bỏ tiền tỉ đầu tư xây dựng những trang trại ni trồng những lồi ngoại lai khơng thơng qua q
trình khảo nghiệm, kiểm duyệt. Trong khi các cơ quan quản lý nhà nước còn chưa thể kiểm sốt được
ngay từ đầu, thì khơng ai dám chắc chắn rằng câu chuyện như vậy có bao giờ tái diễn hay khơng? Nói
cách khác, đã và đang có “lỗ hổng” trong khâu phịng ngừa các sinh vật ngoại lai từ chính các cơ quan
quản lý, kiểm tra và giám sát. Vậy, phải chăng pháp luật đang phải chạy bỏ theo những sự biến đổi về loài
ngoại lai?
Thứ hai, thực tế chỉ ra rằng, việc kiểm dịch sinh vật tại các cửa khẩu hiện nay vẫn quá giản đơn,
máy móc trang thiết bị quá thô sơ chưa thể phát hiện được sự xâm hại của lồi ngoại lai nên vẫn cịn "lọt
lưới" tương đối nhiều. Khó khăn này cũng xuất phát từ sự đầu tư cho phát triển kinh tế nguồn lực đầu tư
cho cơng tác bảo vệ mơi trường, trong đó có kiểm sốt lồi ngoại lai xâm hai cịn hạn chế. Xuất phát từ sự
đầu tư cho phát triển kinh tế nguồn lực đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường, trong đó có kiểm sốt lồi
ngoại lai xâm hại cịn hạn chế.
Thứ ba, cán bộ thực hiện cơng tác quản lí nhập khẩu lồi ngoại lai thường thiếu hiểu biết, bị
động, thiếu kinh nghiệm làm cho công tác kiểm sốt nhập khẩu đối với lồi ngoại lai gặp nhiều khó khăn
khi cán bộ chủ động cho phép nhập khẩu lồi ngoại lai xâm hại dù khơng hay biết chúng là loài ngoại lai
xâm hại hoặc biết nhưng do lợi ích về mặt kinh tế vẫn cố tình làm ngơ. Điều này cho thấy sự yếu kém,
thiếu hụt trong công tác kiểm sốt cũng như sự hạn chế trình độ nghiệp vụ và khả năng quản lí của cán bộ
các cấp.
Thứ tư, hoạt động quản lí giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thường thiếu đồng bộ, có sự
xung đột giữa vấn đề thẩm quyền và lợi ích. Cơng tác quản lí của hệ thống cơ quan nhà nước đối với loài
ngoại lai xâm hại mà đặc biệt là tại khâu nhập khẩu vẫn thiếu sự đồng nhất. Hiện nay giữa Bộ Nông
nghiệp phát triển nông thôn và Bộ Tài nguyên môi trường đều được phân công quản lí lồi ngoại lai.
Theo đó bộ nơng nghiệp phát triển nơng thơn được tồn quyền quyết định nhập khẩu hay khơng nhập
khẩu lồi ngoại lai; trong lúc bộ Tài ngun mơi trường được trao quyền quản lí trong nước các tải
ngun, trong đóĩ có các lồi ngoại lai. Chính sự quy định nêu trên đã tạo sự xung đột, mâu thuẫn giữa
chức trách, nhiệm vụ và lợi ích của mỗi Bộ ngành, gây nên sự không đồng nhất giữa các cơ quan nhà
nước đang đồng thời tiến hành một hoạt động quản lí.
Thứ năm, quy định đối với việc ni trồng lồi ngoại lai có khả năng xâm hại trong các khu bảo
tồn còn chưa hợp lý và tương ứng với mức độ đa dạng sinh học theo quy định về bảo tồn đa dạng sinh
học trong khu bảo tồn. Tuy nhiên theo quy định của pháp luật hiện hành có thể nhận ra, việc ni trồng và
phát triển các loài ngoại lai trong các khu bảo tồn cũng phải đưa ra các quy định giống với việc nuôi
trồng, phát triển các loài ngoại lai trong các khu vực bảo tồn, trừ khi bắt nguồn từ nhu cầu bảo về đa dạng
sinh học đây là đối tượng yêu cầu sự bảo tồn khắt khe hơn nữa. Quy định trên là phù hợp trong điều kiện
sự suy thoái về đa dạng sinh học đang trở nên trầm trọng và phức tạp, vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học
trong các khu bảo tồn cũng đang cần được quan tâm đặc biệt hơn hiện nay.
Thứ sáu, còn thiếu hụt các hướng dẫn kỹ thuật đối với quá trình tiến hành khảo nghiệm, kiểm tra
lồi ngoại lai có nguy cơ xâm hại trước khi cho phép nuôi trồng đại trà; chủ yếu mới dừng lại ở mức độ
chung chung. Chưa quy định rõ cụ thể về trình tự tiến hành khảo nghiệm, tời gian khảo nghiệm... dẫn đến
trên thực tiễn quá trình khảo nghiệm được tiến hành qua loa, sơ sài, kết quả khảo nghiệm khơng có căn cứ
chính xác, đáng tin cậy, hình thành nên mâu thuẫn, tranh chấp đối với q trình xin giấy phép ni trồng
đối với lồi ngoại lai.
Thứ bảy, cơng tác kiểm sốt sự sinh trưởng, phát triển của các loài ngoại lai xâm hại cũng còn
hạn chế. Một là, lúng túng đối với việc xử lý hành vi bn bán lồi ngoại lai xâm hại vì thiếu vắng quy
định của pháp luật. Hai là, sự chậm trễ xử lý, lúng túng trong quá trình thực hiện của cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền, của chính quyền cơ sở; khiến việc kiểm sốt sự lan truyền và phát triển lồi ngoại
lai gặp vơ vàn khó khăn.
Thứ tám, thực tiễn thi hành pháp luật về hành chính, dân sự, hình sự trong xử lý vi phạm. Mặc dù
Luật Đa dạng sinh học quy định nghiêm cấm du nhập, phát triển loài ngoại lai tuy nhiên trên thực tiễn,
nhiều loài đã được phát tán trái phép, đặc biệt là từ việc phóng sinh rùa tai đỏ. Các hành vi trái phép
không được xử lý từ phía cơ quan thi hành pháp luật mà nhiều khi từ phản ảnh của các cơ quan ngôn
luận. Pháp luật còn nhiều “lỗ hỏng” trong việc quy định cụ thể về phương thức mua bán, vận chuyển,
cũng như tàn trữ đối với các loài ngoại lại, đáng chú ý là các loài ngoại lai được mua bán tràn lan để ni
làm kiểng, thú cưng... chưa được kiểm sốt chặt chẽ.
Ngồi ra cịn những vẫn đề phát sinh về: nguồn kinh phí, trình độ con người và trang thiết bị phục
vụ kiểm sốt lồi ngoại lai cịn hạn chế. Về cơng tác phối hợp trong xử lý lồi ngoại lai xâm hại: Hiện
nay, cơ chế phối hợp giữa các Sở, ban ngành liên quan với chính quyền cơ sở trong cả nước rất yếu và
thiếu dẫn đến việc thu thập dữ liệu và xử lý vi phạm chậm trễ.
2.2.3. Cần bổ sung thêm những thực trạng quy định của pháp luật
- Xem những quy định về: Điều tra, lập danh mục lồi ngoại lai; kiểm sốt lồi ngoại lai của Uỷ
ban, Hải quan (tìm kế hoạch của uỷ ban các tỉnh sẽ có nội dung tham khảo); kiểm sốt nuôi trồng, lây lan,
phát triển; quy định công khai thông tin loài ngoại lai,.. => Chỉ ra được quy định cụ thể nào cịn bất cập,
chồng chéo, chưa có hướng dẫn.
- Bài báo chuyên ngành pháp lý, nên mình cần đào sâu thực trạng pháp luật, giải pháp. Không
viết như những bài về phương pháp nên e tập trung điều chỉnh 2.2.3 trước nha!
2.2. Một số giải pháp hoàn thiện thực trạng mua bán những loài ngoại lại tại Việt Nam Những vấn đề pháp lý về bảo vệ môi trường
=> đưa ra giải pháp phù hợp với thực trạng ở 2.1.
Trong thời đại hiện nay, vấn đề bảo vệ môi trường đang trở thành một trong những ưu tiên hàng
đầu của xã hội. Việc điều chỉnh và áp dụng các quy định pháp luật để bảo vệ môi trường càng trở nên cần
thiết hơn bao giờ hết. Đặc biệt, vấn đề bảo vệ mơi trường đối với các lồi ngoại lai đang ngày càng thu
hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Việc ra đời và áp dụng các quy định pháp luật về bảo vệ môi
trường đối với lồi ngoại lai nhằm giữ gìn và bảo tồn đa dạng sinh học của môi trường. Sự xuất hiện và
phát triển của các lồi ngoại lai có thể gây ảnh hưởng đáng kể đến đa dạng sinh học của môi trường. Các
lồi ngoại lai thường khơng có kẻ thù tự nhiên, do đó chúng có khả năng sinh sản nhanh chóng và lan
rộng, ảnh hưởng đến sinh vật bản địa và cản trở quá trình tồn tại của chúng. Điều này có thể dẫn đến sự
suy giảm đáng kể về đa dạng sinh học, và làm thay đổi cấu trúc và chức năng của các hệ sinh thái. Các
quy định pháp luật về bảo vệ đa dạng sinh học thường nhằm ngăn chặn, kiểm sốt và loại bỏ các lồi
ngoại lai có tiềm năng gây hại cho mơi trường. Có nhiều tiêu chí và quy định khác nhau được áp dụng,
nhưng mục tiêu chung của các quy định này là bảo vệ và phục hồi sự cân bằng sinh thái của mơi trường.
Nguy cơ lây truyền dịch bệnh cho các lồi sinh vật bản địa: một trong những nguy cơ lớn từ việc
mua bán loài ngoại lai là khả năng lây truyền dịch bệnh cho các loài sinh vật bản địa. Các lồi ngoại lai có
thể mang các loại vi khuẩn, vi rút, hoặc ký sinh trùng mới vào môi trường mới, gây ra các bệnh truyền
nhiễm cho các loài động vật và thực vật địa phương. Điều này có thể lan rộng và gây ảnh hưởng đến cả
môi trường tự nhiên và con người.
Phát tán bệnh truyền nhiễm từ động vật: các lồi động vật ngoại lai có thể mang theo các bệnh
truyền nhiễm và phát tán chúng vào môi trường mới. Ví dụ, một số lồi cá ngoại lai có thể mang theo các
loại vi trùng gây bệnh và lây nhiễm cho các loài cá địa phương. Loài cá ngoại lai này có thể làm suy giảm
số lượng cá địa phương và gây thiệt hại đến ngành công nghiệp thủy sản. Việc mua bán các loài động vật
ngoại lai cũng có thể tạo điều kiện cho việc phát tán các lồi cơn trùng truyền bệnh. Các lồi cơn trùng
như muỗi, ve, và kiến có thể đóng vai trị là vật chủ chính của các loại vi rút và ký sinh trùng gây bệnh.
Khi các lồi cơn trùng ngoại lai được giới thiệu vào môi trường mới, nguy cơ lây truyền bệnh tăng lên
đáng kể.
Xét về những tác động tích cực: có tính chất chọn lọc, là kết quả là sự lợi thế nghiêng về lồi có
những đặc tính thích ứng cao; qua đó kích thích các lồi bản địa có năng lực và khả năng thích nghi cao
hơn nữa, đem lại những lợi ích kinh tế đáng kể, trở thành nguồn xuất khẩu quan trọng, mang lại nguồn
thu ngoại tệ lớn và một trong những ví dụ có thể nhắc đến là: tôm thẻ chân trắng, cá tầm, cá diêu hồng...
Những tác động bất lợi: một số loài phá vỡ cân đối sinh thái môi trường sống mới, vượt ngồi khả năng
kiểm sốt của con người để gây nên những tác động tiêu cực đến môi trường và hệ sinh thái, tiêu diệt và
gây suy thối các lồi thực vật và nguồn gen, tàn phá hệ sinh thái, đe doạ đến chính sức khoẻ của con
người. Khi ấy lồi ngoại lai có thể sẽ trở thành lồi ngoại lai xâm hại. Như đã thấy ở trên, các loài sinh vật
ngoại lai xâm hại mới được đề cập một cách rải rác trong các văn bản pháp quy của Việt Nam. Do vậy,
rất cần có một khung pháp lý mới có tính tổng thể để quản lý và kiểm sốt hiệu quả các sinh vật ngoại lai
xâm hại. Ngoài ra, cần có một cơ quan được ủy quyền về mặt pháp lý chịu trách nhiệm về các vấn đề liên
quan đến các sinh vật ngoại lai xâm hại, nhất là việc đánh giá rủi ro của việc du nhập các loài ngoại lai
vào Việt Nam, lập danh sách các loài có khả năng gây hại, kiểm dịch để ngăn chặn việc du nhập các loài
xâm hại qua biên giới, và kiểm sốt các lồi ngoại lai đã xuất hiện trong lãnh thổ Việt Nam.
Do đó, cần có sự kiểm sốt chặt chẽ. Phát huy tốt được thế mạnh và ưu điểm của loài so với sinh
vật bản địa, nhằm hạn chế và ngăn chặn tối đa những tác động tiêu cực. Cần phải có biện pháp, cách thức
nhằm đảm bảo khai thác và tận dụng tốt những đặc điểm có lợi của lồi đối với mơi trường sinh thái, sự
phát triển của sinh vật bản địa, đồng thời kiểm soát chặt chẽ, phát hiện và xử lý kịp thời nhằm ngăn ngừa
những yếu tố xâm hại của chúng trong tình huống chúng biến trở thành lồi ngoại lai xâm hại. Vì vậy
cơng tác quản lý nhà nước cần được tiến hành theo tinh thần đề phòng và báo động trước nhằm sẵn sàng
xử lý những tình huống tiêu cực có thể nảy sinh trên thực tiễn. Để đảm bảo hiệu quả trong việc bảo vệ
mơi trường khỏi các lồi ngoại lai có hại, việc hồn thiện pháp luật là cần thiết. Cần có sự tăng cường
quản lý và kiểm soát việc mua bán, nhập khẩu, xuất khẩu, trữ lượng và giao dịch các loài ngoại lai. Đồng
thời, cần xem xét xây dựng các các cơ chế hạn chế và xử lý kịp thời các rủi ro môi trường liên quan để
đảm bảo an toàn cho hệ sinh thái và đa dạng sinh học.
Để giải quyết vấn đề pháp lý liên quan đến bảo vệ môi trường và việc mua bán lồi ngoại lai, các
quốc gia thơng qua các chính sách và luật pháp nhằm kiểm soát và hạn chế việc nhập khẩu và thương mại
các loài động vật và thực vật ngoại lai. Mục đích của các biện pháp này là đảm bảo rằng việc mua bán các
loài ngoại lai được thực hiện theo quy định và không gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường và đa dạng
sinh học. Các quốc gia đều có các quy định về kiểm sốt nhập khẩu và xuất khẩu các lồi ngoại lai trong
các quy định pháp lý về quản lý môi trường. Các quy định này bao gồm yêu cầu xin phép đối với việc
nhập khẩu loài ngoại lai, kiểm tra và theo dõi các loại động và thực vật ngoại lai, và xử lý hợp lý các lồi
khơng phù hợp. Việc tuân thủ các quy định pháp lý về bảo vệ môi trường là cần thiết để đảm bảo rằng
việc mua bán các lồi ngoại lai khơng gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường và đa dạng sinh học. Đây
là một phần quan trọng của quản lý môi trường và bảo vệ sự tồn tại của các loài sinh vật địa phương.
3. KẾT LUẬN
Từ lâu, vấn đề pháp lý liên quan đến việc bảo vệ môi trường trong hoạt động mua bán các loài
ngoại lai đã trở thành một vấn đề nóng hổi và địi hỏi sự chú ý đặc biệt từ phía cả cơ quan quản lý nhà
nước và cộng đồng xã hội. Theo Nghị định số 06/2019/NĐ-CP về quản lý loài ngoại lai và quy định chi
tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, các hoạt động mua bán, vận chuyển, nuôi trồng, sở hữu và
sử dụng ngoại lai phải tuân thủ nghiêm ngặt theo quy định của pháp luật, đồng thời cần phải có biện pháp
phòng ngừa, xử lý cũng như giám sát chặt chẽ để đảm bảo rằng việc kinh doanh ngoại lai không gây hậu
quả nguy hại đến môi trường, đến hệ sinh thái và đến sức khỏe của người dân.
Tuy nhiên, trên thực tế, vấn đề pháp lý vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đảm bảo hiệu quả cao trong
việc ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm liên quan đến mua bán các loài ngoại lai. Một trong những
ngun nhân chính đó là sự thiếu sót trong cơ cấu pháp luật cũng như trong cách thức thi hành pháp luật.
Nhiều trường hợp vi phạm về môi trường liên quan đến loài ngoại lai vẫn diễn ra thường xuyên mà khơng
nhận được sự xử lý nghiêm túc từ phía cơ quan chức năng.
Để khắc phục được tình trạng trên, chúng ta cần phải có những cơ chế pháp luật cụ thể, minh
bạch và mạnh mẽ hơn để đảm bảo rằng việc mua bán các lồi ngoại lai sẽ khơng gây ảnh hưởng đến sự
cân nhắc và bền vững của mơi trường. Đồng thời, cần có sự cải thiện trong công tác giám sát và xử lý vi
phạm, đảm bảo rằng những người vi phạm sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải chịu trừng phạt
nghiêm minh. Ngồi ra, việc tăng cường thơng tin, tun truyền và giáo dục cộng đồng về tác động tiêu
cực của việc bn bán ngoại lai cũng đóng vai trị quan trọng trong việc ngăn chặn hành vi mua bán các
loài ngoại lai. Chỉ khi có sự nhận thức và ủng hộ từ phía cộng đồng, chúng ta mới có thể đạt được hiệu
quả cao trong việc bảo vệ môi trường và hệ sinh thái. Nhìn chung, vấn đề pháp lý về bảo vệ môi trường
đối với hoạt động mua bán các loài ngoại lai là một vấn đề cấp thiết và địi hỏi sự chú ý đặc biệt từ phía
cả cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng. Chúng ta cần phải cùng nhau tìm kiếm giải
pháp để các hoạt động kinh doanh có thể phát triển bền vững và đồng thời đảm bảo rằng môi trường và hệ
sinh thái sẽ không bị ảnh hưởng tiêu cực.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Cổng thông tin VOV Kinh tế, Bị cấm kinh doanh, sinh vật ngoại lai vẫn được rao bán đầy chợ
mạng, truy cập ngày 2/11/2023
2. Cổng thơng tin VOV Kinh tế, Các lồi xâm lấn gây thiệt hại cho kinh tế toàn cầu 423 tỷ
USD/năm,
truy cập ngày 22/10/2023
3. Giáo trình luật mơi trường Đại học Luật Hà Nội
4. GS.TS Bùi Công Hiển (2019), Đôi điều hiểu biết về sinh vật ngoại lai Trường Đại học Khoa học
Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội (Bài đăng trên Tạp chí Khoa học & Cơng nghệ Việt Nam, Số
9 năm 2019), truy cập ngày 22/9/2023
5. Luận văn thạc sĩ luật học: Pháp luật về kiểm soát loài ngoại lai xâm hại tại Việt Nam – Phạm Thị
Mai Trang
6. Luyện Đinh (2017), Sinh vật ngoại lai ám ảnh: Vì sao bất cập từ nhận thức đến quản lý?
truy cập ngày 20/9/2023
7. Nguyễn Thu Hồi (2022), Mơi trường áp dung pháp luật về kiểm sốt lồi ngoại lai tại Việt Nam
8. Tạp chí mơi trường: Lồi ngoại lai ở nước ta hiện nay
9. ThS. Bùi Ngọc Thành (2013), nghiên cứu, điều tra mức độ ảnh hưởng của các loài ngoại lai xâm
hại tại vườn quốc gia phong nha – kẻ bàng và đề xuất giải pháp phòng ngừa, Ban Quản lý VQG
Phong Nha - Kẻ Bàng