Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

Đề cương HP: Đại cương VH Dân gian (HNUE)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.02 KB, 59 trang )

KHUNG ÔN TẬP:
MÔN ĐẠI CƯƠNG VĂN HỌC
DÂN GIAN K71
1. Khái quát Văn học dân gian Việt Nam
Khái niệm công cụ, đặc trưng Văn học dân gian
Văn học dân gian
1. Tính nguyên hợp
2. Tính truyền
3. Tính tập thể
miệng
Tính nguyên hợp của Truyền miệng là Văn học dân
văn học dân gian biểu phương thức sáng gian là sáng tác
hiện ở sự hòa lẫn tác và lưu truyền của nhân dân,
những hình thức của văn học dân nhưng không phải
khác nhau của ý gian. Văn học tất cả nhân dân
thức xã hội trong truyền miệng ra đều là tác giả của
các thể loại của nó. đời từ thời dân văn học dân gian.
Có thể nói rằng, văn tộc chưa có chữ Cần chú ý vai trò
học dân gian là bộ viết. Tuy nhiên, của cá nhân và
bách khoa toàn thư khi dân tộc đã có quan hệ giữa cá
của nhân dân. Tính chữ viết và văn nhân với tập thể
nguyên hợp về nôi học viết, thì văn trong quá trình
dung của văn học dân học truyền miệng sáng tác, biểu
gian phản ánh tình vẫn tiếp tục phát diễn, thưởng thức
trạng nguyên hợp về triển, một mặt do tác phẩm văn học
ý thức xã hôi thời đại đa số nhân dân dân gian.
nguyên thuỷ, khi mà khơng có điều kiện BC q trình
các lĩnh vực sản xuất học hành để hưởng sáng tác tập thể.
tinh thần chưa được thụ thành tựu của Ban đầu, sáng tác
chun mơn hố. văn học viết ; mặt một tác phẩm
Trong các xã hội thời khác, do văn học VHDG do một cá


kỳ sau, mặc dù các viết không thể hiện nhân theo hình
lãnh vực sản xuất tinh được đầy đủ tư thức diễn xưỡng
thần đã có sự chuyên tưởng, tình cảm, tập thể. Khi câu
mơn hố nhưng văn nguyện vong, thị chuyện đó đáp
học dân gian vẫn cịn hiếu và tập quán ứng, thỏa mãn nhu
mang tính nguyên sinh hoạt nghệ cầu tập thể, câu
hợp về nội dung . Bởi thuật của nhân dân. chuyện ấy được
vì đại bộ phận nhân Bởi có tính truyền tập thể sàng lọc,
dân, tác giả văn học miệng nên văn học chọn
lọc
trở
dân gian , khơng có dân gian thường thành tài sản của
điều kiện tham gia ngắn gọn, dễ nhớ tập thể. Cuối
vào các lĩnh vực sản và thường có tính cùng, mỗi cá

4. Tính dị bản
Dị bản là những
VB khác bản
chính đầu tiên,
thường
được
dùng để tham
khảo trong khi
nghiên
cứu,
khảo sát tác
phẩm văn học,
hoặc bị xuất
bản. Dị bản thì
có rất nhiều bản,

là bản sao chép
của người nghe
hoặc nói khi
truyền
miệng
hoặc là cố ý
chỉnh sửa.
Dị bản là hệ
quả của q
trình tập thể tính
truyền
miệng,
nhưng
việc nhận thức
về nguyen nhân
và biểu hiện của
tính dị bản trước
nay giữa các nhà
NC vẫn có sự
khác biệt.
Dị bản khá hổ
biến
trong


xuất tinh thần khác
nên họ thể hiện
những kinh nghiệm ,
tri thức , tư tưởng
tình cảm của mình

trong văn học dân
gian , một loại nghệ
thuật khơng chun.
Loại
hình
nghệ
thuật:
- Bản chất VHDG
vừa là văn học và
vừa là văn hóa.
- Từ lí thuyết văn
bản học và thi pháp
học, VHDG là một
loại của nghệ thuật
ngôn từ.
- Từ lí thuyết
folklore, VHDG là
một thành tố của
văn nghệ dân gian,
một hiện tượng của
văn hóa dân gian
được sáng tạo một
cách thẩm mĩ, mang
thuộc tính văn hóa, có
biểu hiện giá trị văn
hóa.
- Biểu hiện cụ thể
của tính ngun
hợptính biểu diễn.
Văn học dân gian có

ba dạng tồn taị: tồn
tại ẩn (tồn tại trong
trí nhớ của tác giả
dân gian) , tồn taị cố
định ( tồn taị bằng
văn tự ), tồn taị hiện
( tồn taị thông qua
diễn xướng). Tồn taị
bằng diễn xướng là
dạng tồn taị đích
thực của văn học
dân gian . Tuy
nhiên ,khơng thể phủ

dị bản.
Tính
truyền
miệng của văn
học dân gian gắn
liền với quá trình
diễn xướng dân
gian một cách sinh
động và hào hứng.
Có 4 cách thức
truyền miệng: kể,
hát, diễn, nói. Đó
là biểu hiện đặc
trưng mĩ học DG
và là thể sống
VHDG.

Ta có thể thấy
nghệ thuật biểu
diễn Chèo làm
sống động những
sự việc, lời nói của
nhân vật trên kịch
bản trở nên sống
động mang lại cảm
xúc thăng hoa cho
người thưởng thức.
Như vậy, có thể
nói truyền miệng
là phương thức
tồn
tại
của
VHDG.

nhân tiếp nhận,
tái hiện, tái tạo
thành những dị
bản khác nhau và
được lưu truyền
trong
DG.
Tính tập thể thể
hiện chủ yếu
trong q trình
sử
dụng

tác
phẩm.
Vấn đề quan trọng
ở chỗ nó được mọi
người biểu diễn,
thưởng thức hay
khơng, nó đã đạt
mức thành tựu hay
khơng. Trong q
trình đó, tập thể
nhân dân tham
gia vào công việc
đồng sáng tạo tác
phẩm
Quan hệ giữa
truyền thống và
ứng tác là hệ quả
của mối quan hệ
giữa các nhân và
tập thể. Truyền
thống văn học
dân gian một mặt
là giúp nghệ nhân
dân gian ứng tác(
sáng tác mộ cách
chớp nhoáng mà
khơng có sự chuẩn
bị trước) dễ dàng,
một mặt qui định
khn khổ cho

việc sáng tác.
Ứng tác đến lượt
nó sẽ cung cấp
những đơn vị làm
giàu cho truyền

VHDG, nó biểu
hiện tính mở
của VHDG như
thay đổi từ hoặc
cụm từ, thêm từ,
mở rộng ND và
hình thức tác
phẩm, thay đổi
một số chi tiết
trong tác phẩm,

VHDG là tài sản
của CĐ được
chính ND sửa
đổi, tái hiện hiện
và tái tạo để phù
hợp với đặc
trưng của từng
CĐ, từng địa
phương ( đặc
biệt trong thể
loại ca dao, tục
ngữ). Như vậy,
dị bản là

Tác dụng:
- Tham gia và hỗ
trợ nghiên cứu
đặc trưng văn
hóa khác nhau
của
các
địa
phương,
của
từng dân tộc ấy.
- Nghiên cứu
tiến trình phát
triển của đời
sống tinh thần
của dân tộc ta,
sự phát triển
hiện đại trong
cách cảm thụ
văn học, giáo
dục của con
người.


nhận hai dạng tồn
tại kia; bởi vì như
vậy sẽ dẫn tới phủ
nhận khoa học về
văn học dân gian và
công việc giảng dạy

văn học dân gian
trong nhà trường. Trở
lại vấn đề chính trong
biểu
diễn,
các
phương tiện nghệ
thuật của tác phẩm
văn học dân gian
mới có điều kiện kết
hợp với nhau tạo
nên hiệu quả thẩm
mỹ tổng hợp. Sự kết
hợp nầy một mặt là
biểu hiện của tính
nguyên hợp, một
mặt là lẽ tồn taị của
tính nguyên hợp.
Đặc điểm văn bản Văn học dân gian
1. Tính cố định

thống.
Tính tập thể giúp
nghệ sĩ dân gian
dễ dàng ứng tác
khi biểu diễn, tức
là thay đổi giọng
điệu, nét mặt, lời
kể, các chi tiết của
câu chuyện để phù

hợp với bối cảnh
nhưng người nghệ
sĩ vẫn bảo lưu cốt
truyện gốc, tuân
thủ theo nguyen
tắc sáng tác dị bản
VHDG.

- Việc sưu tầm dị
bản cũng giúp
VHDG tồn tại,
có một đặc trưng
riêng khác VH
viết, sự lưu
truyền
VHDG
được tiếp cận tới
mọi tầng lớp
trong XH hiện
nay.

- Dựa vào người ghi chép, tạo nên các định dạng, khuôn mẫu:
Ở đầu nguồn sáng tạo, nó được XD bằng ngơn ngữ của lời nói dựa trên cơ sở các bộ
công thức truyền thống theo nguyên tắc có tính lặp lại (mẫu gốc, motip, biểu tượng,
…) theo quy luật nhất định. Như trong TCT, ta thấy có cùng một motip là khi các
nhân vật chính (nhân vật bất hạnh trong XH) gặp khó khăn sẽ được các nhân vật thần
tiên (ông Bụt, thần tiên,…) xuất hiện giúp đỡ hay dẫn lối. TCT có cùng một kiểu
truyện như trong truyện người mang lốt vật. Nhân vật ban đầu mang lốt vật xấu xí sau
khi vượt qua thử thách sẽ trút bỏ lốt xấu xí ấy, trở thành người xinh đẹp cuối cùng họ
được cưới người mình yêu và sống hạnh phúc suốt đời.

Trong đó, các tầng nghĩa biểu hiện các giá trị tư tưởng thẩm mĩ dân gia được chế định
bởi tính truyền thống dân gian. Các ý nghĩa truyền thống chỉ phát sáng trong các ngữ
cảnh XH có tính quy phạm ổn định trường tồn dưới dạng các mã thẩm mĩ, mã ngơn
ngữ, mã văn hóa.
2. Tính dị bản
- Hệ quả của tính truyền miệng, mỗi một thời đại sẽ có 1 dị bản khác
nhau:
Một tác phẩm VHDG được lưu truyên từ địa phương này đến địa
phương khác nhau, được người nghệ nhân kể lại hay biểu diễn trong


những ngữ cảnh XH khác nhau và tất nhiên nó được ghi chép văn
bản hóa ở những khơng - thời gian khác nhau bởi những nhà sưu
tầm khác nhau. Kết quả là tác phẩm VHDG ấy đã hiện tồn bằng một
liên văn bản, gồm 1 tác phẩm gốc, các bản trung gian và bản mới.
- Khác với vấn đề tam sao thất bản do sự nhầm ẫn của trí nhớ,
những biến đổi của VHDG như một sự chỉnh lý để gia tăng hiệu quả
thẩm mỹ và phản ánh sự vận động mạnh mẽ của ý thức dân tộc. Đó
là một quá trình diễn ra liên tục, thường xuyên trong đs sinh hoạt
văn hóa dân gian đề làm đầy, làm mới ở mỗi thời đại khác nhau.
- Nói đến tính dị bản VHDG, ta phải kể đến ca dao, tục ngữ. Từ xưa
đến nay, ca dao tục ngữ luôn gắn liền với đời sống sinh hoạt của
nhân dân được truyền miệng từ người này sang người khác, từ thế
hệ trước sang thế hệ sau nên câu chữ có sự thay đổi là thường tình.
Dạy con từ thuở cịn thơ
Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về
Câu đầu thì hiểu được. Bởi ơng bà mình cũng có câu “Uốn cây từ
thuở cịn non/Dạy con từ thuở con còn ngây thơ”. Dạy con cái phải
dạy ngay từ khi còn nhỏ, những bài học đầu đời ln là những bài
học có giá trị sâu sắc đối với trẻ. Nhưng còn câu sau? Tại sao lại là

bơ vơ? À, có lẽ họ muốn nói khi người vợ mới về nhà chồng, còn lạ
nước lạ cái, cịn bơ vơ chưa có “đồng minh” nên nói gì cũng phải
nghe, dạy gì cũng phải học (khơng dám cãi). Nhưng có người lại
khơng đồng ý với từ bơ vơ mà họ sửa thành ban sơ. Họ cho rằng,
ban sơ là ban đầu, là lúc cô gái mới về nhà chồng, dùng ban sơ dễ
hiểu hơn. Dùng bơ vơ nghe tội nghiệp quá! Thế là lại có thêm một dị
bản:
Dạy con từ thuở còn thơ
Dạy vợ từ thuở ban sơ mới về
- Tính bình đẳng
3. Khơng xác định khơng gian thời gian.
Văn bản VHDG không xác định không gian - thời gian cụ thể bởi đặc
trưng lưu truyền của VHDG. VHDG phương thức lưu truyền chủ yếu
bằng truyền miệng khác với văn học viết được lưu truyền và bảo lưu
bằng văn bản. Nét đặc trưng làm nên sự hấp dẫn văn học dân gian
chính là phương thức lưu truyền và bảo lưu là truyền miệng, đặc biệt
là biểu diễn sân khấu dân gian. Đối với những thể loại VHDG như ca
dao, tục ngữ, truyền thuyết hay truyện cổ tích được lưu truyền từ


người này sang người khác, từ tộc người này sang tộc người khác.
Những thể loại VHDG có tính nghệ thuật biểu diễn cao như chèo,
tuồng,..thường do những người nghệ nhân biểu diễn, họ hình thành
một làng nghề và truyền nghề cho con cháu từ thế hệ này sang thế
hệ khác. Chính vì phương thức lưu truyền và bảo lưu chủ yếu trong
không gian tập thể quần chúng ND nên khi những tác phẩm VHDG
được tập hợp để bảo tồn bằng văn bản, các nhà nghiên cứu không
thể xác định không - thời gian cụ thể. Tác phẩm ấy được sáng tác
thời gian nào, được biểu diễn trong không gian như thế nào; các nhà
nghiên cứu chỉ có thể suy luận ra khoảng không gian, thời gian tác

phẩm ấy ra đời dựa trên đặc điểm văn hóa, thẩm mĩ thời đại ấy.
4. Tính phi cá thể
- Khơng phải là một văn bản mang dấu ấn cá nhân. Mang tính cả
một xã hội, thể hiện trong lựa chọn từ ngữ.
- Không phải là một văn bản mang dấu ấn cá nhân. Mang tính cả
một xã hội, thể hiện trong lựa chọn từ ngữ:
VHDG có tính tập thể. Văn học dân gian là sáng tác của nhân dân,
BC quá trình sáng tác tập thể.
Ban đầu, sáng tác một tác phẩm VHDG do một cá nhân theo hình
thức diễn xưỡng tập thể. Khi câu chuyện đó đáp ứng, thỏa mãn nhu
cầu tập thể, câu chuyện ấy được tập thể sàng lọc, chọn lọc trở thành
tài sản của tập thể. Cuối cùng, mỗi cá nhân tiếp nhận, tái hiện, tái
tạo thành những dị bản khác nhau và được lưu truyền trong DG.
Trong quá trình sáng tác, tập thể nhân dân tham gia vào công việc
đồng sáng tạo tác phẩm
Quan hệ giữa truyền thống và ứng tác là hệ quả của mối quan hệ
giữa các nhân và tập thể. Truyền thống văn học dân gian một mặt là
giúp nghệ nhân dân gian ứng tác( sáng tác mộ cách chớp nhống
mà khơng có sự chuẩn bị trước) dễ dàng, một mặt qui định khuôn
khổ cho việc sáng tác. Ứng tác đến lượt nó sẽ cung cấp những đơn
vị làm giàu cho truyền thống.
- Tuy văn bản không có tính cá thể, nhưng trong diễn xướng lại có
tính cá thể
Không phải tất cả nhân dân đều là tác giả của văn học dân gian,
trong nghệ thuật diễn xướng có tính cá thể của người nghệ nhân.
Mỗi người nghệ nhân biểu diễn tác phẩm VHDG ở bất kì thể loại nào
cũng có nét cá nhân trong đó, đó chính là sự ứng tác. Cách người
nghệ nhân truyền đạt tác phẩm VHDG cho khán giả thưởng thức qua



từng giọng điệu, nét mặt, cử chỉ khi biểu diễn. Mỗi người nghệ nhân
có phong cách kể truyện hay biểu diễn sân khấu khác nhau truyền
đạt nội dung tới cho khán giả
Dẫn chứng: Khán giả biết đến “Lưu Bình - Dương Lễ”, một trong ba
vở chèo kinh điển của nghệ thuật chèo Việt Nam, nhưng không phải
ai cũng biết người vào vai Lưu Bình và đã tạo nên tên tuổi của vai
diễn này trong suốt 25 năm nay là NSƯT Phú Kiên. Những biểu cảm
tinh tế, giọng hát trầm bổng lơi cuốn của NSƯT Phú Kiên trong trích
đoạn “Lưu Bình chuốc rượu đòi hợp cẩn với Châu Long”.Theo nghệ
sỹ Phú Kiên, để diễn được vai Lưu Bình, diễn viên phải có hình thể,
giọng hát, diễn xuất cũng như thơng thuộc vũ đạo. Có hình thể đẹp
đã là một lợi thế nhưng diễn làm sao để truyền tải những chuyển
biến trong tâm tư, tình cảm nhân vật qua từng màn, từng đoạn lại là
một chuyện khác.
Note: tuy văn bản khơng có tính cá thể, nhưng trong diễn xướng lại
có tính cá thể
Note: trình bày và lấy ví dụ minh họa
Vai trị thể loại trong nghiên cứu Văn học dân gian
*Khái niệm thể loại
- Cấp độ thể loại hình thành VHDG. VHDG khơng hình thành được tác
phẩm mà hình thành ở cấp độ thể loại.
- Nội dung của VHDG là nội dung của thể loại.
- Bối cảnh ra đời (thời đại nào? Sản xuất, điều kiện kinh tế, tổ chức
nhà nước).
- Chức năng thể loại: thể loại đó đáp ứng nhu cầu gì? (truyền thuyết:
thơng qua truyện kể lịch sử để giáo dục lịch sử, truyện cổ tích: giáo
huấn đạo lý).
- Đặc trưng của thể loại (VD: Truyền thuyết gắn bó mật thiết với tín
ngưỡng xã hội, truyện cổ tích …).
- Giá trị: nội dung tư tưởng, ca ngợi con người, sản phẩm sáng tạo

của địa phương, nhân tài hào kiệt, giang sơn gấm vóc.
- Diễn xướng: Phương thức diễn xướng được biểu đạt đa dạng. (kể,
hát, nói, diễn), phân loại dựa trên phương thức diễn xướng.
- Thể loại là tập hợp tác phẩm có chung yếu tố thi pháp để tạo ra nó.
VD: truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ, thần thoại, …
- Phân chia thể loại dựa trên các nguyên tắc nào.


2. Vai trò thể loại
- Văn học dân gian được hình thành ở cấp độ thể loại.
+ VHDG khơng tạo lập đơn lẻ, đó là q trình sáng tạo lâu dài. Và
khi có đầy đủ các điều kiện về : xã hội, lịch sử, văn hóa thì lúc đó thể
loại ra đời (chuỗi tác phẩm).
VD: truyện cổ tính ra đời khi xã hội có những mâu thuẫn. VD2: Cổ
tích Tấm cám có ở rất nhiều nơi, ra đời dựa trên sự ra đời sự sung
đột của con chung và con riêng.
+ Mỗi một thể loại sẽ có đời sống, khơng gian và phương thức diễn
xướng. Khi nghiên cứu tác phẩm cần đặt nó trong thể loại.
Khác với văn học viết trong đó phân ngành văn học sử nói chung
đều có cơ sở chắc chắc để mơ tả các q trình từ thời kỳ, giai đoạn,
chủ nghĩa, trường phái, trào lưu đến tác giả tác phẩm ở những tọa
độ lịch sử xác định, lịch sử văn học dân gian chỉ được mơ tả bằng
tiến trình phát triển của các thể loại – lịch sử trên cơ sở cho rằng “từ
thời viễn cổ, văn học đã có sự gắn bó khăng khít và đặc thù với lịch
sử” (M.Gorki). Do đó, sự hình thành lưu chuyển và biến đổi của các
hiện tượng văn học dân gian về mặt lịch sử của nó nhìn chung khơng
có nhảy vọt, mà vừa có tính chất rộng lớn liên tục, vừa chậm chạp
trầm lắng. Quá trình phát triển các thể loại văn học dân gian Việt
Nam cũng đã cho thấy chỉ có thể quan sát được nó trên một đại
lượng đo thời gian rất lớn. Trên đại thể, xét trên bình diện thời gian

văn hóa mỗi thể loại đều có q trình nảy sinh và phát triển, nở rộ
và suy tàn. Mặt khác, xét trên bình diện khơng gian văn hóa lại thấy
đó cịn là sự đan dệt phức tạp nhiều quá trình hoặc nối tiếp nhau,
hoặc xen kẽ nhau trong trạng thái song hành giữa các thể loại cùng
tồn tại và phát triển ở những mức độ khác nhau. Con người thời cổ
đại sống trong, sống cùng, sống với cái môi trường tự nhiên và xã
hội buổi đầu mà ngày nay chúng ta gọi là hình thái kinh tế xã hội
nguyên thủy. Họ phải đối diện với rất nhiều thách thức của thực tại
và không ai khác, chính họ phải đáp ứng. Đối diện với cái nhỏ bé,
mong manh hữu hạn của con người là cái khổng lồ vô hạn vĩnh viễn
của trời đất núi sông khiến người ta sùng bái. Kịp đến khi bước vào
ngưỡng cửa của văn minh thì chính cái tự nhiên câm lặng, dữ dội, bí
hiểm, mênh mơng đầy bất trắc thuở ấy đã thúc đẩy trí tuệ của con
người phải phỏng đốn và hình dung, tưởng tượng và tái hiện,… Đó
chính là nguồn gốc văn hóa của thần thoại. Con người bước vào thời
đại đồng thau và sắt sớm. Đó cũng là thời điểm quá trình chế ngự và
thắng đoạt tự nhiên của các nhóm xã hội có giới hạn buổi đầu đã
đem lại cho con người những niềm hân hoan tột cùng sau khi họ


vượt qua được vài ba thách thức đầu tiên. Sử thi cổ sơ có cảm hứng
cội nguồn từ khát vọng thần thoại được thăng hoa một cách có ý
thức. Kế đến là những cuộc chiến tranh bộ lạc diễn ra thường xuyên.
Sử thi anh hùng và truyền thuyết ra đời, cuốn theo những mảnh vỡ
của “thần thoại một đi không trở lại”. Một hình thái kinh tế – xã hội
mới được thay thế với ba thiết chế: Gia đình, chế độ tư hữu và nhà
nước. Lý tưởng dân chủ thị tộc cũ xung đột gay gắt với hệ tư tưởng
mới. Sự tự nhận thức về số phận con người “bao giờ đến được ngày
xưa” được trình bày lại một cách thần kỳ trong những giấc mơ cổ
tích. Các thành tựu nghiên cứu văn học dân gian trước nay đã khẳng

định: Thần thoại ra đời và chỉ phồn phịnh trong thời đại thần thoại.
Sử thi dân gian chỉ ra đời và tỏa sáng trong thời đại sử thi. Theo đó,
thời đại anh hùng và ý thức dân tộc trưởng thành đẻ ra và nối dài
truyền thuyết lịch sử. Thế nên nếu chúng ta “xét riêng sự phát triển
của dòng tự sự dân gian, chúng ta sẽ thấy thái độ chọn lựa đối với
thực tế trải qua con đường tự sự phản ánh khái quát những quá trình
lịch sử cơ bản đến chỗ đi sâu dần vào quá trình lịch sử cụ thể riêng
biệt. Ở những thể loại ra đời sau của tự sự lịch sử dân gian, lịch sử
đã phân hóa ra thành những biến cố, hơn nữa đã khúc xạ thành
những số phận cá nhân. Những biến cố và số phận các cá nhân này
đã được lựa chọn theo quan điểm của sự phản ánh và sự đánh giá
những quan hệ xã hội” (1). Nếu chúng ta xem xét sự phát triển của
dịng trữ tình dân gian, sẽ thấy khơng tránh khỏi ở đấy có sự đan
xen chồng lấn phức tạp giữa các nhóm thể loại, bởi sự quên lãng và
đứt mạch không thể phục nguyên của ngôn ngữ lời nói vần và thơ ca
dân gian đã thất truyền. Thế nhưng nếu căn cứ vào thành tựu của
các khoa học liên ngành để tiến hành phân tích và luận giải trên một
khối lượng tài liệu lớn về các câu hát, bài hát dân gian hiện đã sưu
tập được thì có khả năng những đặc điểm có tính quy luật của các
quá trình phát triển nội tại trong thế giới nghệ thuật ca dao cũng sẽ
trở nên rành mạch, sáng tỏ. Như vậy, hiển nhiên trong khoa học về
văn học dân gian vấn đề thể loại trở thành tâm điểm của mọi vấn
đề.
Vai trò thể loại trong khoa học văn học dân gian còn cần phải
được xác định ở cấp độ sâu xét trên các đặc điểm về thi pháp thể
loại. Tính đặc thù này đã biểu hiện trực tiếp trong việc xác định các
tiêu chí phân loại thể loại văn học dân gian. Trong đó, nếu xét văn
học dân gian từ góc độ là một loại của nghệ thuật ngơn từ, sẽ nhận
ra rằng ở bộ phận này chỉ có sự khác biệt về thi pháp thể loại, nói
rộng ra là phong cách thể loại. Đối với văn học viết, giữa các tác

phẩm có cùng đề tài, chủ đề cùng thuộc về một thể loại và giả định
còn cùng được sáng tạo trong cùng một thời gian không gian xác


định nhưng nếu là sản phẩm của những tác giả khác nhau, chúng
vẫn có sự khác biệt độc đáo về cấu trúc thẩm mỹ, về bút pháp và
giọng điệu,… Ngược lại ở văn học dân gian, sự khu biệt giữa các tác
phẩm trong cùng một thể loại xét trên các góc độ tương đồng như
thế hầu như lại thấy rất mờ nhạt. Với truyện cổ tích thần kỳ, tất cả
đều tương đồng về hình thức cấu tạo cốt truyện, về phong cách biểu
hiện, về nghệ thuật sắp đặt các tình huống, về cách thức mơ hình
hóa cấu trúc loại người mang tính quan niệm. Với bài ca trữ tình dân
gian, mỗi mẫu đề tương ứng với một hệ thống của cơng thức truyền
thống có giá trị sử dụng như một ngân hàng phương tiện và chất liệu
nghệ thuật dùng chung. Với chèo sân đình, các đài từ dù là ứng tác
cũng phải tuôn theo cả một hệ thống các quy tắc của nghệ thuật
trình diễn có tính chuẩn mực ước lệ đến từng chi tiết, đối với từng
kiểu loại nhân vật. Phương thức sáng tác tập thể – truyền miệng của
văn học dân gian đã quyết định phong cách thể loại của các tác
phẩm văn học dân gian. Không mang cá tính sáng tạo, văn học dân
gian khơng có phong cách cá nhân khơng có thi pháp tác gia như
văn học hiện đại. Không phải là sản phẩm nghệ thuật của một tác
giả mà thân thế và sự nghiệp của người viết dù muốn hay khơng vẫn
có mối quan hệ trực tiếp với một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, văn học
dân gian khơng có phong cách thời đại, khơng có thi pháp thời kỳ,
giai đoạn như văn học trung đại. Thừa nhận tính lịch sử của thể loại
văn học dân gian, sẽ thấy ở mỗi thể loại đều có sự ổn định bền vững
điển hình về phương pháp lịch sử bởi nó được sáng tạo theo ngun
tắc có tính lặp lại. Và chính đặc điểm này đã tạo nên sự khác biệt
giữa hai hệ thống: Thi pháp văn học viết và thi pháp văn học dân

gian. Điểm khác biệt là ở nguyên tắc tư tưởng thẩm mỹ. Nếu thi
pháp văn học viết là thi pháp văn bản cố định và là kết quả sáng tạo
bằng kỹ thuật của tác giả cá thể, là thi pháp của cá tính nghệ sĩ
được thực hiện theo nguyên tắc lựa chọn điển hình hóa thì thi pháp
văn học dân gian lại là sự tổng hịa của các yếu tố hình thức đặc
trưng bằng sự vận động thường xuyên theo nguyên tắc lựa chọn
khái quát hóa mà sự khái quát này chỉ được thừa nhận trong tính
truyền thống thẩm mỹ thuộc về một dân tộc. Nếu thi pháp văn học
viết nhấn mạnh yêu cầu cách tân trong sự sáng tạo của cá tính nghệ
sĩ, chỉ chấp nhận “cái riêng biệt”, “cái mới lạ” độc đáo theo xu
hướng vượt ra khỏi cái gọi là ký ức thể loại, cái mơ hình chung thì thi
pháp văn học dân gian lại chấp nhận “cái quen thuộc” “cái lặp lại”
đã trở thành sở hữu chung, đi vào kí ức chung của mỗi thành viên
trong cộng đồng, và hơn thế nó đã trở thành kỷ niệm riêng của cả
một dân tộc. Hệ luận của vấn đề khác biệt thứ hai này là chính nó đã
tạo nên các giá trị đặc sắc và bền vững trong phẩm chất thẩm mỹ


của hệ thống thi pháp thể loại văn học dân gian: Tác phẩm văn học
dân gian mỗi lần được diễn xướng trong một ngữ cảnh xã hội nhất
định và trong một phong cách nghệ nhân cụ thể đều được xem là
một lần tái sáng tạo. Và sự lặp lại đó chính là sự gặp lại, sự nhận ra,
sự trở về với cái đẹp thuần khiết vốn đã được tích hợp trong trường
liên tưởng ngữ nghĩa của một dân tộc, Và “đó chính là ngun nhân
tạo nên một số lượng lớn tác phẩm cải biên của cùng một số cốt
truyện trong văn học trung cổ ở phương Đông và phương Tây. Ở đây
dễ dàng chấp nhận thấy rằng những cốt truyện mới thường được
hình thành trong truyền thống văn học dân gian và từ đó được các
nhà văn vay mượn” (B.L.Riptin). Càng gần về thời kỳ hiện đại, sự
cảm nhận và sử dụng như một “sự trở về” như thế trong văn học

viết càng trở nên tinh tế, sâu sắc hơn. Trong một số trường hợp, sự
vận động sáng tạo lại các giá trị tinh hoa truyền thống văn học dân
gian của các tài năng sáng tạo lớn trong lịch sử văn học Việt Nam đã
khiến cho tác phẩm của họ chẳng những vào được sâu trong lòng
người đọc Việt Nam, mà còn đứng được trong văn học nhân loại ở
một vị trí riêng độc đáo.
Thế nên vấn đề khơng phải như trước nay có những người quan
niệm cơng thức truyền thống – tức là những yếu tố ổn định điển hình
có tính lặp lại – chẳng qua cũng chỉ là biểu hiện của một loại văn
chương của tầng lớp văn hóa thấp của cái thời chưa có chữ viết, chỉ
là một cách thức để người ta dễ nhớ, dễ truyền. Trong xã hội hiện
đại, một nhà folklore học hàng đầu của Mỹ hiện nay là A.Dundes
trong cơng trình Ai là người sáng tác văn học dân gian đã cho rằng:
Quan niệm người sáng tác văn học dân gian là người mù chữ trong
một xã hội có chữ viết là một quan niệm cũ khơng cịn phù hợp. Đó
là một quan điểm đã lỗi thời của các nhà folklore học châu u thế kỷ
XIX. Sau khi dẫn chứng hàng loạt những mẩu chuyện dân gian
đương đại Mỹ, ông viết đại ý: Người sáng tác văn học dân gian trong
những trường hợp này đều là những người biết chữ,… không một ai
là người sáng tác dân gian trong những ví dụ này là nông dân hoặc
người ở tầng lớp thấp. Nhiều người chắc chắc là những người thành
thị và thuộc tầng lớp trung lưu. Cần phải nói rõ như vậy nếu người
nào đó quan tâm có những phân biệt như vậy hoặc áp dụng cách gọi
như vậy. Thực tế có người sáng tác dân gian thành thị và cũng có
những người sáng tác dân gian nơng thơn. A.Dundes cịn bàn đến
các sáng tác folklore trong mối quan hệ với các phương tiện truyền
thông hiện đại. Theo ông, các công nghệ hiện đại như điện thoại,
radio, tivi,… chỉ làm tăng thêm tốc dộ lưu truyền mà khơng hề làm
biến mất văn hóa, văn học dân gian hiện đại. Trong các ví dụ về văn
học dân gian đương đại Mỹ của A.Dundes vẫn chứa đầy những yếu



tố lặp lại. Sự lặp lại đó rõ ràng là một nghịch lý về nguyên tắc thẩm
mỹ folklore khi so sánh với văn chương viết, song chính nó mới là
đặc điểm của nguyên tắc tư tưởng, thẩm mỹ folklore, tạo nên những
giá trị đặc thù của mỹ học folklore, lặp lại mà không nhàm chán,
quen thuộc mà vẫn hấp dẫn. Và chính q trình sáng tạo và tái sáng
tạo của thi pháp văn học dân gian theo nguyên tắc có tính lặp lại
như thế đã tạo nên những hình thức cấu trúc thẩm mỹ ổn định bền
vững trong từng kết cấu thẩm mỹ đặc trưng thể loại. Thế nên trong
khoa học văn học dân gian, các nhà nghiên cứu chuyên ngành đều
nhất trí khẳng định: Thể loại văn học dân gian là một kết cấu nghệ
thuật có tính lịch sử. Do đó, nếu nghiên cứu tiến trình phát triển của
văn học dân gian người ta phải tìm hiểu vấn đề lịch sử, thể loại, thì
việc nghiên cứu một tác phẩm văn học dân gian địi hỏi phải đặt nó
vào trong một thể loại lịch sử.

2. Tự sự dân gian
Định hướng tìm hiểu
1. Đặc trưng thể loại

- Khái niệm về thể loại.
- Bối cảnh ra đời (thời đại nào? Sản xuất, điều kiện kinh tế, tổ chức
nhà nước)
- Chức năng thể loại: thể loại đó đáp ứng nhu cầu gì? (truyền thuyết:
thông qua truyện kể lịch sử để giáo dục lịch sử, truyện cổ tích: giáo
huấn đạo lý)
- Đặc trưng của thể loại (VD: Truyền thuyết gắn bó mật thiết với tín
ngưỡng xã hội, truyện cổ tích …)
- Giá trị: nội dung tư tưởng, ca ngợi con người, sản phẩm sáng tạo

của địa phương, nhân tài hào kiệt, giang sơn gấm vóc.
- Diễn xướng: Phương thức diễn xướng được biểu đạt đa dạng. (kể,
hát, nói, diễn), phân loại dựa trên phương thức diễn xướng.
2. Đặc điểm thi pháp

Khái niệm thi pháp: tập hợp các yếu tố về mặt hình thức nghệ thuật
để tổ chức nên tác phẩm đó.
- Thi pháp của một trường phái: VD lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực,
chủ nghĩa tượng trưng.
- Đề cập đến phương diện:
+ Kết cấu. (tập trung)


+ Nhân vật. (tập trung)
+ Ngôn ngữ.
VD: Kết cấu ca dao là đối đáp: một vế, 2 vế. Nhân vật: hát than và
hát thương. Ngôn ngữ: ……
Đặc trưng thể loại, đặc điểm thi pháp thể loại Truyền thuyết
1. Đặc trưng thể loại
1. Thuật ngữ, khái niệm và định nghĩa

Khái niệm truyền thuyết: truyền thuyết là những câu chuyện được truyền miệng
trong dân gian giải thích các phong tục, tập quán hoặc kể về các nhân vật lịch sử.
Trong truyền thuyết thường gặp yếu tố phóng đại, kì ảo, thần kỳ. Kết thúc truyện
truyền thuyết thường là kết thúc mở.
2. Bối cảnh ra đời

Truyền thuyết Việt Nam ra đời và phát triển trong thời đại anh
hùng Việt Nam, thời đại mà những yếu tố xã hội – lịch sử của nó
mang đặc trưng chung của thời đại anh hùng trong lịch sử nhân loại:

Đó là thời kỳ con người bứt ra khỏi đời sống dã man, bước vào
chế độ văn minh đầu tiên. Thời kỳ được đánh dấu bằng những
chiến công lao động và những biến đổi xã hội sâu sắc, nên còn được
gọi là thời kỳ của “thanh kiếm sắt, cái cày và cái rìu bằng sắt”. Ở
Việt Nam, nó được đánh dấu bằng sự kết thúc của thời kì tiền sử,
sự khởi đầu của thời kì sơ sử, với sự hình thành của nhà nước
Văn Lang đầu tiên, thuộc thời kì văn hố kim khí mà đỉnh cao
là văn hố Đơng Sơn.
+ Việc sử dụng cơng cụ kim loại được coi như một cuộc cách
mạng kỹ thuật. Đồ đồng cực kỳ phong phú về số lượng, đa dạng về
loại hình, thể hiện trình độ cao về kỹ thuật chế tác và năng khiếu
thẩm mỹ dồi dào của chủ nhân nó như những chiếc rìu, lưỡi cày
đồng, xẻng, cuốc đồng, dao gặt… Công cụ sản xuất vô cùng
phong phú và tiến bộ đã dẫn đến thành quả lao động được nâng
cao, đời sống con người được cải thiện. Bên cạnh nhu cầu ăn, ở,
người ta đã có nhu cầu thẩm mĩ, khơng chỉ là ăn no mặc ấm mà
cịn là ăn ngon, mặc đẹp, và sinh hoạt tiện lợi. Con người đã phần
nào khám phá một số bí ẩn của thiên nhiên để phục vụ cộng
đồng: sản xuất một số cây trồng theo mùa vụ, tìm ra một số giống
cây quý, nhiều giống lúa nước và chế biến một số món ăn từ gạo…
+ Nhu cầu mở rộng thêm các vùng định cư và sản xuất, khai
thác thêm các thị trường mới để trao đổi sản phẩm, khám phá
đất hoang… ngày càng dâng cao trong cộng đồng. Chiến tranh
giữa các bộ tộc xảy ra liên miên nhằm xâm lấn đất đai, mở rộng
địa bàn, thơn tính lẫn nhau (dẫn đến sự hình thành nhà nước đầu


tiên). Các bộ lạc có xu hướng: hoặc là thâu tóm lẫn nhau hoặc đồn
kết để chống lại các bộ lạc lớn mạnh khác.
+ Hồn cảnh đó đã tạo nên một Khơng khí hào hùng cho thời đại

mà Ăngnghen nhận xét là: “thời đại mà mỗi thành viên nam giới của
bộ lạc đến tuổi thành niên đều là những chiến binh…”. Các thành
viên trong cộng đồng có điều kiện bộc lộ phẩm chất anh hùng của
mình, ý thức về lịch sử, dân tộc, chủ quyền lãnh thổ được nuôi
dưỡng. Xuất hiện các cá nhân anh hùng và tập thể anh hùng.
Và truyền thuyết ra đời nhằm tôn vinh sức mạnh, phẩm chất
người anh hùng của mình, cộng đồng của mình.
Tóm lại: Thời đại truyền thuyết: Đó là bước tiến vọt từ đồ đá sang
đồ đồng sắt, từ hái lượm săn bắt sang trồng trọt lúa nước và
định cư nông nghiệp, từ lối sống thô sơ đến sự ra đời của “nghề
khéo” và “của ngon vật lạ”, từ mẫu hệ sang phụ quyền, từ bộ lạc
sang liên minh bộ tộc và nhà nước phơi thai, tóm lại từ dã man sang
văn minh, ở trên vùng châu thổ sông Hồng [1]. Và nếu như thần
thoại ra đời từ nhu cầu nhận thức của người nguyên thuỷ thì truyền
thuyết ra đời từ nhu cầu tôn vinh, nhu cầu được tự hào về
những chiến công vĩ đại cả về làm ăn, cả về chiến đấu của con
người thời đại anh hùng.
3. Chức năng của thể loại truyền thuyết

Thể hiện ở 3 mặt cơ bản:
- Về mặt lịch sử: Truyền thuyết là cơ sở cho các nhà sử học
tham khảo về các giai đoạn lịch sử dân tộc.
Nếu như thần thoại lấy thế giới tự nhiên làm đối tượng nhận thức, lý
giải; nếu như truyện cổ tích chọn đời sống xã hội để phản ánh,... thì
truyền thuyết lại hướng về các sự kiện, các biến cố có liên
quan đến lịch sử của cộng đồng. Dân tộc nào, đất nước nào, làng
quê nào cũng có một quá trình hình thành, biến đổi và phát triển
(hoặc tàn lụi). Trong những thời điểm quan trọng, những cái mốc
son, những biến cố mang ý nghĩa sống còn của một cộng đồng
thường xuyên xuất hiện những nhân vật kiệt xuất. Việc làm của họ,

hành động của họ có tác động lớn đến cuộc sống của cả cộng đồng,
và của cả một giai đoạn lịch sử. Nhiều nhân vật lịch sử khi còn sống
và đặc biệt khi họ đã mất trở thành một biểu tượng đẹp của quê
hương, đất nước. Người Việt Nam, xưa cũng như nay, với truyền
thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây” thường
lập đền miếu để thờ phụng họ. Nhân vật lịch sử được nhân dân các
làng quê, phường phố thiêng liêng hóa và suy tơn thành thần thánh,
bốn mùa hương khói. Bậc đạo cao, đức trọng, tài năng kiệt xuất như


Vua Hùng, Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi,
Quang Trung thuở xưa và Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện nay mãi mãi sẽ
sống trong lịng dân tộc qua sự tôn vinh bằng đền miếu, bằng các
ngày kỷ niệm, các lễ hội lớn được tổ chức hàng năm. Chung quanh
các sự kiện lịch sử lớn, các nhân vật lịch sử đầy hào quang thế nào
cũng có những câu chuyện kể về sự kiện đó hoặc kể về tài năng, về
đức độ, về sự cống hiến của các anh hùng, các danh nhân cho dân,
cho nước. Theo con đường sáng tác và lưu truyền dân gian, các
truyện kể ấy sẽ lưu truyền từ đời này qua đời khác, từ Bắc vô Nam
hoặc từ Nam ra Bắc, từ đồng bằng lên miền núi và ngược lại...
Như vậy, các sự kiện lịch sử, các nhân vật lịch sử chính là cảm
hứng, là đề tài, là chất liệu để làm nên các truyền thuyết.
Nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trong một bài viết về các Vua
Hùng đã nêu một ý kiến khá xác đáng: “Truyền thuyết dân gian
thường có một cái lõi là sự thực lịch sử, mà nhân dân qua nhiều thế
hệ đã lý tưởng hóa gửi gắm vào đó tâm tình thiết tha của mình cùng
với thơ và mộng ...” (Báo Nhân dân ngày 29/4/1969).
- Về mặt ý thức xã hội: Truyền thuyết giáo dục lòng yêu
nước, tinh thần dân tộc.
Phản ảnh các sự kiện lịch sử một cách trung thực cũng là một

sự thể hiện cảm quan và thái độ của quần chúng nhân dân
đối với những biến cố, những sự kiện, những con người ... có
liên quan, có tác động lớn đến đời sống của cộng đồng. Qua
từng tình tiết, từng cách mở đầu hoặc kết thúc mỗi truyền thuyết,
chúng ta đều thấy thái độ khen chê, biểu dương, ca ngợi, hay phê
phán, lên án,... của người sáng tác đối với các nhân vật lịch sử một
cách khá minh bạch, rõ ràng.
Xin được lấy truyền thuyết An Dương Vương (Sách Lĩnh Nam chích
quái lấy tựa đề là “Truyện Rùa Vàng”) làm ví dụ. Truyện này có 3
nhân vật chính: An Dương Vương, Mỵ Châu và Trọng Thủy. Nhà vua
là nhân vật chính. Ơng là người có cơng dựng nước Âu Lạc, xây
thành Cổ Loa, chế ra nỏ thần và chỉ huy quân dân Âu Lạc đánh
thắng Triệu Đà trong lần đầu đội quân này kéo đến xâm lăng. Nhưng
ông cũng là người mắc nhiều sai lầm nghiêm trọng trong việc giữ
nước, dẫn đến họa “Cơ đồ đắm biển sâu”. Như vậy, ơng là người vẫn
có cơng, lại vừa có tội đối với dân, với nước. Ơng phải tự nhận lấy cái
chết. Song tác giả dân gian lại cho Thần Kim Quy xuất hiện cầm
sừng tê 7 tấc rẽ nước đưa nhà vua về với biển xanh. Việc An Dương
Vương phải chém con gái yêu của mình cũng là nỗi đau không nhỏ
và là sự tự trừng phạt mình của chính ơng. Song nhân dân vẫn ln


trân trọng những đóng góp to lớn của nhà vua cho lịch sử, cho dân
tộc nên lập đền thờ ông (ở Hà Nội, ở Nghệ An) và tạo nên một chi
tiết nghệ thuật đẹp đẽ, để hình bóng vua Thục còn mãi với biển trời.
Với Mỵ Châu và Trọng Thủy, thái độ và cách ứng xử của quần chúng
nhân dân cũng đầy tinh thần nhân ái. Cả hai người đều có tội với đất
nước Âu Lạc. Họ có những việc làm không thể chấp nhận được. Mỵ
Châu không ý thức mình là ai khi đưa nỏ thần cho Trọng Thủy xem
và rắc lơng ngỗng chỉ đường cho chồng tìm mình trong cơn binh lửa.

Trọng Thủy thì tiếp tay cho Triệu Đà xâm chiếm Âu Lạc. Nhưng cả 2
người trước lúc chết đều đã có “sự phản tỉnh”. Mỵ Châu bị người lừa
chứ khơng có “ý thức hại cha”, Trọng Thủy cịn có chút liêm sỉ về
hành động của mình ... Hình ảnh “ngọc trai giếng nước” là phần vĩ
thanh của câu chuyện và khơng nằm trong phần “chính truyện”,
nhưng nó là sự thể hiện một tấm lòng đầy nhân ái của người đời sau
đối với bi kịch của một đôi trai tài, gái sắc. “Ngọc trai giếng nước”,
theo thiển ý của chúng tôi, không phải là “bài ca ngợi ca tình u
chung thủy” như có người đã viết trên Tạp chí “Nghiên cứu Văn học”
cách đây gần 50 năm, mà chỉ là một sự thể tất của quần chúng nhân
dân giành cho những người có tội song đã biết nhận ra lỗi lầm của
bản thân.
- Về mặt văn học nghệ thuật: Truyền thuyết là nguồn cảm
hứng cho nhà văn, nhà thơ sáng tác.
Truyền thuyết là thể loại khái quát được lịch sử của dân tộc, đồng
thời giáo dục con người hướng đến cái thiện, cái tốt nên đó là nguồn
cảm hứng xuyên suốt cho các tác giả dân gian sáng tạo. Nhiều cuốn
truyền thuyết ghi lại hình ảnh của dân tộc đạt đến giá trị cao.
Tuy nhiên, là một thể loại văn học, truyền thuyết cũng bị chi
phối bởi các nguyên tắc, các phương pháp của việc sáng tác
nên trong nội dung tác phẩm, sự thực lịch sử trong truyền
thuyết được “cấu tạo lại, tái hiện lại” thông qua cảm quan
lịch sử của các tác giả dân gian. Nhiều tình tiết trong tác phẩm
đã được tô vẽ thêm theo khuynh hướng “lý tưởng hóa” để tơn vinh
các nhân vật lịch sử. Chẳng hạn Thánh Gióng, trong sự thực lịch sử
có thể chỉ là một chiến binh, một người chỉ huy dũng cảm, lập công
lớn và hy sinh ở chiến trường, nhưng khi trở thành một nhân vật
truyền thuyết, thì người anh hùng làng Phù Đổng đã hoàn toàn là
một con người khác với nhiều chi tiết hết sức kỳ lạ. Hay như Hai Bà
Trưng, trong sự thực lịch sử, sau khi bị bại trận trước sức mạnh của

đội quân thiện chiến Mã Viện đã nhảy xuống dòng Hát Giang tự vẫn.
Cịn ở truyền thuyết, Hai Bà lại có một cái kết cục hoàn toàn đẹp đẽ:


Hai Bà cưỡi voi bay về trời bất tử cùng gió mây, non nước,... Nhiều
năm sau, khi hạ giới gặp cơn hạn hán, dân các làng xã lập đàn cầu
đảo, hai bà lại xuống trần tạo mây mưa, giúp dân có nước cấy cầy,
ăn uống,...
4. Đặc trưng của truyền thuyết

- Truyền thuyết thuộc thể loại truyện dân gian, tồn tại nhờ
phương thức truyền miệng là chính.
Ra đời từ thời kì chưa có chữ viết, nên truyền thuyết cũng như các
thể loại văn học
khác, từ địa phương này sang địa phương khác...
Vì tồn tại nhờ phương thức truyền miệng nên truyền thuyết thường
gắn với lễ hội và phong tục thờ cúng của dân tộc. Ở nước ta,
các truyền thuyết thời vua Hùng dựng nước bao giờ cũng được kể lại,
hoặc dựng thành những trò diễn dân gian lễ hội (ngày nay được sân
khấu hóa), được lưu giữ và truyền bá ở đền, miếu, núi, sông, ao hồ...
để nhân dân thờ cúng. Ví dụ truyền thuyết Thánh Gióng gắn với khu
di tích Sóc Sơn; truyền thuyết An Dương Vương gắn với cụm di tích
đền Cổ Loa...
- Truyền thuyết kể về nhân vật lịch sử và sự kiện có liên hệ
với lịch sử.
Trong truyền thuyết, những danh từ riêng chỉ tên người, tên
đất, tên thời kì lịch sử rất được coi trọng (như An Dương Vương,
Lạc Long Quân, Hai Bà Trưng, Lê Lợi ...) vì những tên này gắn liền
với những con người thật, vùng đất thật. Đặc điểm này góp
phần vào việc dựng lại khơng khí lịch sử, tăng tính xác thực

của truyện, thực hiện chức năng cơ bản của thể loại.
Tuy lấy lịch sử làm đề tài nhưng truyền thuyết không phải là
lịch sử. Lịch sử phản ánh chính xác sự kiện, nhân vật. Cịn truyền
thuyết lựa chọn một cách có nghệ thuật các sự kiện, nhân vật để lay
động tình cảm và niềm tin của người nghe đối với các sự kiện đó.
- Truyền thuyết có sử dụng các yếu tố tưởng tượng, hư cấu.
Tuy lấy sự kiện và nhân vật lịch sử làm đề tài, nhưng truyền thuyết
vẫn sử dụng những yếu tố hư cấu trên nền lịch sử có tính xác
thực đó.
Những chi tiết như mẹ Âu Cơ sinh bọc trăm trứng nở trăm con,
Thánh Gióng lớn nhanh như thổi, một mình đánh tan giặc Ân rồi bay
về trời, hay chi tiết nỏ thần bách phát bách trúng của An Dương
Vương... đều là những chi tiết kì ảo, hư cấu.


Chi tiết hư cấu kì ảo vừa tạo nên sức hấp dẫn của truyền
thuyết, vừa là cách để nhân dân ta thần thánh hóa hình
tượng, phi thướng hóa chiến cơng, năng lực của của những bậc
anh hùng mà nhân dân yêu mến, ngưỡng vọng.
- Truyền thuyết thường thể hiện thái độ, đánh giá nhân dân
về nhân vật, các sự kiện lịch sử có thật.
Theo truyền thuyết, nhân dân muốn ca ngợi cơng lao của An Dương
Vương trong q trình xây thành, chế nỏ nên đã sáng tạo những chi
tiết kể về sự quyết tâm của nhà vua trong sự nghiệp này. Sự quyết
tâm đó cảm động đến cả thần linh và nhà vua được Rùa Vàng giúp
đỡ.
Ngay cả khi An Dương Vương thất trận, phải nhảy xuống biển tự tử,
nhân dân muốn tưởng nhớ công lao của ông, đã để ông cầm sừng tê
rẽ nước về sống tại thủy cung, trường sinh bất tử cùng các vị thần.
2. Đặc điểm thi pháp

2.1 Hình thức cấu tạo cốt truyện

- Để nhận ra được đặc trưng của hình thức cấu tạo cốt truyện truyền
thuyết, ta cần đặt nó trong mối quan hệ so sánh giữa thần thoại,
truyện cố tích và truyền thuyết
Thần thoại
Cấu tạo cốt truyện
cịn đơn giản ở
trình độ sơ khai
của nghệ thuật
nguyên thủy

Truyện cổ tích
Thể loại phát triển
đến đỉnh cao của
loại hình tự sự dân
gian như là một loại
của nghệ thuật ngơn
từ hư cấu kì ảo có
chủ thâm trên cả 2
phương diện nội
dung và nghệ thuật,
có hình thức kết
cấu cốt truyện rất
ổn định theo đặc
trưng kiểu truyện
thuộc những tiểu
loại khác nhau và
có tính phổ qt
nhân loại.


Truyền thuyết
Tiếp chân thần thoại,
nhưng lại đi theo
một hướng khác biệt
căn bản về cảm
hứng sáng tạo và
chức năng sinh
hoạt. Truyền thuyết
có mối quan hệ đặc
biệt tự nhiên và
sâu sắc với phong
tục tín ngưỡng và
lễ hội dân gian.
Thể loại hướng người
nghe lên cõi thiêng
bằng cách tạo được
niềm tin trong đời
sống tâm linh, vừa
tỉnh táo đặt ra và
lý giải những vấn
đề thường là trọng
đại có liên quan


đến lịch sử của cả
cộng đồng.
Cốt truyện được kể lại một cách trọn vẹn trong một kết cấu chuỗi
gồm những mẫu chuyện có thể hư ảo thần kì hay đời thường thế tục
nhưng đã được sắp xếp lại theo một trình tự thời gian cụ thể

trong một khơng gian xác định, gồm 3 chặng lớn kể về 1 nhân
vật:
- Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm khác thường của nhân vật
- Những hành trạng và chiến công khác thường của nhân vật
- Nhân vật hóa thân hiển linh âm phù.
=> Kể theo chặng là vì trong mỗi chặng có những cách kể khác
nhau theo chế định của tính vùng, tính địa phương và theo chủ
quan của người kể.
Trên thực tế, có những truyền thuyết tồn tại ở dạng khuyết thuếy,
đặc biệt có những truyền thuyết dường như là một truyện ngắn
truyền kì trung đại.
2.2 Nghệ thuật xây dựng nhân vật

- Đặc điểm nổi bật của nhân vật truyền thuyết là sự kết hợp kì lạ
giữa những nét đời thường thế tục với những nét kì ảo phi
thường. Thi pháp xây dựng nhân vật có sự kế thừa từ thi pháp thần
thoại, có sự ảnh hưởng của thi pháp cổ tích trong một số chi tiết nào
đó như đã được hư cấu kì áo có chủ tâm.
- Sự khác nhau về mức độ ảnh hưởng chia ra làm 2 kiểu nhân vật
trong 2 thể loại truyền thuyết:
Truyền thuyết thời kì dựng
Truyền thuyết lịch sử
nước
- Chủ yếu là nhữg hình
- Nhân vật có nguyên mẫu
tượng lịch sử - hư cấu,
lịch sử.
có nguồn gốc từ nguyên
mẫu huyền thoại.
- Cảm quan lịch sử đã đem

- Việc phản ánh những vấn
lại cho những nhân vật này
đề thuộc về lịch sử hay sử
một phẩm chất mới, là
dụng lại các chi tiết, sự
những con người mang
kiện lịch sử có thật vào
sức mạnh của thần linh,
việc xây dựng hình tượng
rất kì lạ, khác thường
nhân vật đều phải được
nhưng không hề xa
hiểu như một biện pháp
cách.
nghệ thuật, được chi
phối bởi quá quy luật
của quá trình sáng tạo


nghệ thuật.
- Dấu ấn của thi pháp thần
- Chi tiết, hình ảnh nhân vật
thoại vẫn cịn rất đậm
giàu tính hiện thực đời
nổi. Nhân vật có nguồn
thường. Để tơn vinh các
gốc bản thể từ tự nhiên,
nhân vật anh hùng, gắn
có đời sống gắn liền với
nhân vật với yếu tố kì diệu,

thiên nhiên hơn là con
yếu tố này chỉ là kết quả
người.
của sự hư cấu kì ảo có chủ
tâm được vay mượn trong
thế giới cổ tích.
- Điểm tương đồng phổ qt nói chung trong nghệ thuật xây dựng
nhân vật được thể hiện trong 3 chặng diễn biến với 3 loại motip.
Chặng
Chặng thứ
nhất

Chặng thứ
hai

Chặng thứ
ba

Thể hiện
Kể về hoàn cảnh
xuất hiện nhân
vật ở dạng đầy
đủ: thụ thai thần
kì, sinh nở thần kì,
điểm kì lạ nhân vật.
Kể về hành trạng
và sự nghiệp
hiểm hách của
nhân vật: chiến
cơng phi thường,…

Kể về "sự hóa
thân" và "sự hiển
linh". Motip hóa
thân trở thành kết
thúc chung, biểu
hiện đặc điểm hư
cấu lịch sử của thể
loại.

Ý nghĩa
Hàm ý diễn tả người anh dùng của nhân
dân thì phải có nguồn gốc giao hịa
giữa con người với tự nhiên và tất
nhiên ý tưởng này hoàn tồn là sản
phẩm của trí tưởng tượng dân gian.
Đây là lý do tồn tại của tiểu thuyết, lý
giải của nhân dân về sức mạnh và
khả năng khác thường của nhân
vật,… Ý nghĩa biểu tượng nhuần
thấm tinh thần và bản sắc dân tộc.
Đây là những tình tiết đã đạt đến giá trị
tuyệt đối về chức năng tư tưởng thẩm
mĩ đặc trưng thể loại. Phản ánh nhận
thức nhân dân về sự hi sinh, biểu
hiện lòng khát vọng của nhân dân
về sự bất tử của anh hùng, đem vào
tín ngưỡng bản địa những nghĩa mới để
củng cố niềm tin của nhân dân vào một
nguồn sức mạnh thật ở cõi thiêng. Hình
tượng thấm vào đời sống phong

tục, nhiều nơi hóa thành lễ hội lịch
sử của đời sống dân gian.

Đặc trưng thể loại, đặc điểm thi pháp thể loại Truyện cổ tích
1. Thuật ngữ, khái niệm và định nghĩa
1.1 Khái niệm

Truyện cổ tích là một thể loại văn học được tự sự dân gian sáng tác
có xu thế hư cấu, bao gồm cổ tích thần kỳ, cổ tích thế sự, cổ tích
phiêu lưu và cổ tích lồi vật Đây là loại truyện ngắn, chủ yếu kể về
các nhân vật dân gian hư cấu, như tiên, yêu tinh, thần tiên, quỷ,


người lùn, người khổng lồ, người cá, hay thần giữ của, và thường là
có phép thuật, hay bùa mê. Truyện cổ tích có thể được phân biệt với
truyện dân gian thần thoại khác như truyền thuyết (thường liên quan
đến niềm tin vào tính xác thực của các sự kiện được mô tả) cũng như
các câu chuyện về bài học đạo đức, bao gồm truyện ngụ ngôn về
động vật.
1. Thuật ngữ, khái niệm và định nghĩa

Truyện cổ tích là một thể loại văn học được tự sự dân gian sáng tác
có xu thế hư cấu, bao gồm cổ tích thần kỳ, cổ tích thế sự, cổ tích
phiêu lưu và cổ tích loài vật Đây là loại truyện ngắn, chủ yếu kể về
các nhân vật dân gian hư cấu, như tiên, yêu tinh, thần tiên, quỷ,
người lùn, người khổng lồ, người cá, hay thần giữ của, và thường là
có phép thuật, hay bùa mê. Truyện cổ tích có thể được phân biệt với
truyện dân gian thần thoại khác như truyền thuyết (thường liên quan
đến niềm tin vào tính xác thực của các sự kiện được mô tả) cũng như
các câu chuyện về bài học đạo đức, bao gồm truyện ngụ ngôn về

động vật.
2. Bối cảnh ra đời thể loại

Truyện cổ tích ra đời khi chế độ công xã nguyên thủy tan rã và được
thay thế bằng gia đình riêng lẻ, trong long XH có sự phân chia giai
cấp một cách sâu sắc. Sự phân chia giai cấp mới, tầng lớp mới làm
mất sự bình đẳng giữa người và người của chế độ cơng xã nguyen
thủy ở XH cũ. Từ đó, XH xuất hiện những mâu thuẫn, xung đột giữa
người giàu – kẻ nghèo, ông chủ - đầy tớ, con chung – con riêng, mẹ
kế - con chồng,…Sự chuyển biến của đời sống XH với mơ hình XH
đơn lẻ đã dẫn đến những nạn nhân mới: người mồ cơi, đàn bà góa,
người đi làm ở, làm thuê,…cùng với những mâu thuẫn, xung đột
trong XH vì sự tác động của những luật lệ, hình thức XH mới ràng
buộc họ vào trong một mới quan hệ đối nghịch. Họ phân vân giữa
cái cũ và cái mới, cuộc đấu tranh của cái cũ trong long XH mới dẫn
đến những bi kịch mới (bi kịch hôn nhân gia đình, tạp hơn, hơn nhân
một vợ một chồng, bạo lực gia đình, quan hệ thừa kế,…). Đó là thời
điểm TCT ra đời như một hình thức nghệ thuật thỏa mãn nhu cầu,
nguyện vọng của ND nhằm lí giải các vấn đề XH theo xu hướng bảo
vệ , bênh vực kẻ yếu, nạn nhân của XH trước những thay đổi lớn lao
của đời sống. TCT ở mỗi thời kì, dân gian lại tái tạo, tạo nên nhiều dị
bản mang chi tiết của thời đại ấy theo nhu cầu của con người ở



×