BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ MINH TRÂM
ĐỊNH TỘI DANH TRONG ĐỒNG PHẠM –
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐỊNH TỘI DANH TRONG ĐỒNG PHẠM –
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành: Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự
Mã số: 60380104
Người hướng dẫn khoa học: Ts. Trần Thị Quang Vinh
Học viên: Nguyễn Thị Minh Trâm
Lớp cao học Luật: Khóa 19
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin chân thành cảm ơn Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, q thầy,
cơ và đặc biệt sự hướng dẫn tận tình của Tiến sĩ Trần Thị Quang Vinh đã tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi hồn thành cơng trình nghiên cứu này.
Tơi xin cam đoan đề tài “Định tội danh trong đồng phạm – Lý luận và thực
tiễn” là đề tài nghiên cứu của cá nhân tôi và dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Trần
Thị Quang Vinh. Tôi cam đoan danh dự về công trình nghiên cứu này.
Tác giả
Nguyễn Thị Minh Trâm
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
- BLHS: Bộ luật hình sự.
- BLTTHS: Bộ Luật tố tụng hình sự
- CTTP: Cấu thành tội phạm.
- TNHS: Trách nhiệm hình sự.
MỤC LỤC
Phần mở đầu ........................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH
TRONG ĐỒNG PHẠM ......................................................................................... 5
1.1. Những vấn đề lý luận chung về đồng phạm.................................................. 5
1.1.1. Khái niệm đồng phạm và các dấu hiệu pháp lý của đồng phạm ............... 5
1.1.2. Các loại người trong đồng phạm ............................................................... 10
1.1.3. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm ....................... 22
1.1.4. Phân biệt hành vi đồng phạm và các hành vi liên quan đến tội phạm mà cấu
thành tội phạm độc lập ................................................................................................. 26
1.2. Những vấn đề lý luận về định tội danh trong đồng phạm ........................... 28
1.2.1. Khái niệm về định tội danh trong đồng phạm .......................................... 28
1.2.2. Phân loại định tội danh .............................................................................. 32
1.2.3. Các bước thực hiện hoạt động định tội danh trong đồng phạm ................. 34
Kết luận chƣơng 1 ........................................................................................................... 37
CHƢƠNG 2. THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH TRONG VỤ ÁN ĐỒNG PHẠM
VÀ VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ......................................................... 38
2.1. Thực tiễn định tội danh trong vụ án đồng phạm ........................................ 38
2.1.1. Thực tiễn xác định các dấu hiệu khách quan và dấu hiệu chủ quan .......... 38
2.1.2. Thực tiễn xác định vai trò của những người đồng phạm và hành vi vượt
quá của người đồng phạm .................................................................................... 44
2.1.3. Thực tiễn định tội danh hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội..57
2.1.4. Thực tiễn định tội danh hành vi liên quan đến tội phạm mà cấu thành tội
phạm độc lập ........................................................................................................ 61
2.1.5. Tổng kết một số vướng mắc, bất cập trong thực tiễn hoạt động định tội
danh trong đồng phạm và những tồn tại, hạn chế của Bộ luật hình sự hiện
hành……………………………………………………………………………...65
2.2. Vấn đề hồn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
định tội danh trong đồng phạm ............................................................................ 68
2.2.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 liên quan đến hoạt
động định tội danh trong đồng phạm ................................................................... 68
2.2.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh trong đồng
phạm..................................................................................................................... 71
Kết luận chƣơng 2 .................................................................................................. 75
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành công
cuộc cải cách tư pháp nhằm mục đích hồn thiện một cách cơ bản, tồn diện hệ thống
pháp luật Việt Nam trong đó pháp luật hình sự. Bên cạnh những lợi ích tích cực do
hoạt động cải cách tư pháp mang lại là tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, hội
nhập quốc tế, chất lượng hoạt động tư pháp được cải thiện một cách đáng kể…thì nó
cũng bộc lộ những nhược điểm khơng nhỏ, đó chính là tình hình tội phạm gia tăng và
được thực hiện một cách tinh vi hơn gây hậu quả nguy hiểm đáng kể cho xã hội.
Trong các hình thức thực hiện tội phạm gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội thì đồng
phạm là hình thức thực hiện tội phạm phổ biến nhất hiện nay, vì bản chất của hình
thức đồng phạm là sự tham gia cùng cố ý thực hiện tội phạm của nhiều người nên hậu
quả phạm tội mà đồng phạm gây ra thông thường rất lớn cho xã hội. Chính vì vậy,
mục đích phịng ngừa tội phạm được thực hiện dưới hình thức là đồng phạm là việc
làm cần thiết và cấp bách được Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
Hiện nay, cơ sở pháp lý của đồng phạm được quy định tại Điều 20 của BLHS
năm 1999 nhưng quy định này chỉ mang tính chất chung chung, khơng tồn diện và
bao qt hết được các vấn đề liên quan đến đồng phạm, đặc biệt là vấn đề liên quan
đến hoạt động định tội danh trong đồng phạm, chẳng hạn như: các dấu hiệu để xác
định một vụ án có đồng phạm hay khơng có đồng phạm, cách định tội danh trong
một vụ án có đồng phạm được thực hiện như thế nào, cách xác định các loại người
trong đồng phạm, cách xác định các hành vi liên quan đến tội phạm mà cấu thành
tội độc lập hoặc vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm,
định tội danh đối với hành vi vượt quá của những người đồng phạm,…Vì vậy, xét
thấy rằng cần phải có biện pháp để khắc phục những hạn chế nêu trên đảm bảo cho
hoạt động định tội danh trong đồng phạm đạt hiệu quả cao.
Bên cạnh đó, vì tính chất đa dạng và phức tạp khi thực hiện hành vi phạm tội
bằng hình thức đồng phạm và do chế định đồng phạm có mối liên hệ sâu sắc với các
chế định pháp luật khác như: chế định tội phạm, chế định miễn trách nhiệm hình sự,
chế định về các giai đoạn thực hiện tội phạm,… nên thực tiễn hoạt động tố tụng đã
gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc dẫn đến nhiều sai sót khi áp dụng pháp luật
trong trường hợp tội phạm thực hiện bằng hình thức đồng phạm, đặc biệt là vấn đề
định tội danh trong đồng phạm. Và một trong những giai đoạn cơ bản, quan trọng,
2
ảnh hưởng lớn đến việc xác định trách nhiệm hình sự của những người trong đồng
phạm là giai đoạn định tội danh. Thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử cho
thấy rằng cơ quan tiến hành tố tụng gặp rất nhiều vướng mắc dẫn đến nhiều sai sót
khi tiến hành định tội danh đối với tội phạm thực hiện bằng hình thức đồng phạm.
Về mặt lý luận, định tội danh là một hoạt động pháp luật nhằm xác định sự phù hợp
của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với dấu hiệu được mô tả trong
cấu thành tội phạm, từ đó xác định sự thật khách quan của vụ án, lựa chọn đúng quy
phạm pháp luật hình sự phù hợp cho hành vi nguy hiểm đó. Trường hợp thực hiện
tội phạm đơn lẻ, việc định tội danh đã rất phức tạp và được thực hiện qua nhiều tiến
trình. Vì vậy việc định tội danh trong trường hợp đồng phạm lại càng khó khăn,
phức tạp hơn nhiều.
Chính vì các lý do nêu trên, tác giả nhận thấy rằng việc tìm hiểu lý luận và
thực tiễn của định tội danh trong đồng phạm để đưa ra một cách nhìn có hệ thống,
tồn diện về vấn đề định tội danh trong đồng phạm và đưa ra một số kiến nghị giải
pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế định đồng phạm, là rất cần thiết. Đó
chính là lý do tác giả chọn đề tài: “Định tội danh trong đồng phạm – Lý luận và
thực tiễn” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, vấn đề đồng phạm đã và đang được sự quan tâm rất nhiều của nhiều
các nhà nghiên cứu thông qua các cơng trình nghiên cứu luận án, luận văn, tạp
chí…Về sách, luận văn thì hiện nay có cuốn sách “Đồng phạm trong luật hình sự
Việt Nam” – Tiến sĩ Trần Quang Tiệp, năm 2007 và luận văn thạc sĩ luật học về đề
tài “Các loại người đồng phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Khắc Toàn, năm 2013. Trong hai tài liệu trên, các tác giả mơ tả phân tích
làm rõ các vấn đề liên quan đến đồng phạm như khái niệm đồng phạm, dấu hiệu của
đồng phạm, các loại người trong đồng phạm, hình thức đồng phạm,…một cách tổng
quan nhưng chưa bàn về vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động định tội danh
trong đồng phạm, có nghĩa là chưa làm rõ được các vấn đề định tội danh trong đồng
phạm cần phải có những bước được tiến hành như thế nào, cơ sở của việc định tội
danh, các trường hợp định tội danh trong đồng phạm hoặc thực tiễn định tội danh
gặp những vướng mắc, khó khăn và bất cập gì.
Về tạp chí cũng có nhiều bài viết liên quan đến đồng phạm như “Hoàn thiện
quy định về cơ sở trách nhiệm hình sự đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm
3
tội chưa đạt và đồng phạm” – Phạm Mạnh Hùng – Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
số 2/2003, “Đồng phạm và một số vấn đề về thực tiễn xét xử” - Đồn Văn Hường –
Tạp chí Tịa án nhân dân số 4/2003, “Chế định đồng phạm trong Luật hình sự nhìn
từ góc độ so sánh pháp luật hình sự một số nước trên thế giới” – Hồ Sỹ Sơn – Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật năm 2013,… Nội dung của các bài tạp chí này cũng
giống như các cơng trình luận văn, sách chỉ nghiên cứu một cách khái quát các vấn
đề liên quan đến đồng phạm hoặc nghiên cứu chuyên sâu về các vấn đề liên quan
đến đồng phạm như khái niệm đồng phạm, các giai đoạn thực hiện tội phạm trong
đồng phạm,.. mà chưa có một cơng trình nghiên cứu chun sâu vấn đề định tội
danh trong đồng phạm cũng như tìm hiểu những vướng mắc, sai sót trong q trình
định tội danh trong đồng phạm từ thực tiễn cơ quan tiến hành tố tụng.
Vì vậy, thông qua đề tài “Định tội danh trong đồng phạm – Lý luận và thực
tiễn”, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu chuyên sâu vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt
động định tội danh trong đồng phạm, từ đó đưa ra cách nhìn hệ thống hơn, tồn diện
hơn đối với hoạt động định tội danh trong đồng phạm; góp phần giải quyết những
vướng mắc, khắc phục những sai sót chế định đồng phạm được quy định trong
BLHS.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là trên cơ sở phát hiện những bất cập của những quy
định pháp luật về đồng phạm và những vướng mắc, khó khăn mà cơ quan tiến hành
tố tụng gặp phải trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án đồng phạm nhằm đưa
ra một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về đồng phạm và đề xuất
các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động định tội danh trong đồng
phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm đáp ứng yêu cầu cần thiết trong việc
áp dụng pháp luật trong thời gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Phân tích những vấn đề lý luận và pháp lý về đồng phạm.
- Phân tích những vấn đề lý luận về định tội danh trong đồng phạm.
- Nghiên cứu thực trạng xét xử các vụ án đồng phạm; những sai sót, vướng
mắc thường gặp của cơ quan tiến hành tố tụng.
4
- Đề xuất các kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về đồng phạm và
các giải pháp thực hiện nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động định tội
danh trong đồng phạm.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề định tội danh trong đồng
phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam và pháp luật một số nước trên thế
giới.
- Về không gian: luận văn khảo sát thực trạng áp dụng định tội danh trong
đồng phạm trên địa bàn TP Hồ Chí Minh và một số địa phương khác.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách hình sự và
cải cách tư pháp. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể như
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh để phân tích
các quy định của pháp luật hiện hành về đồng phạm và đánh giá thực tiễn áp dụng
các quy định này.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm hai
chương:
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH
TRONG ĐỒNG PHẠM
Chƣơng 2. THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH TRONG VỤ ÁN ĐỒNG
PHẠM VÀ VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
5
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH TRONG
ĐỒNG PHẠM
1.1. Những vấn đề lý luận chung về đồng phạm.
1.1.1. Khái niệm đồng phạm và các dấu hiệu pháp lý của đồng phạm.
Tội phạm có thể do một người thực hiện nhưng cũng có thể do nhiều người
cùng thực hiện tội phạm. Trong trường hợp tội phạm do một người thực hiện – khoa
học pháp lý hình sự gọi là phạm tội đơn lẻ, trường hợp tội phạm do nhiều người
cùng thực hiện có thể có đồng phạm hoặc cũng có thể là trường hợp những người
thực hiện tội phạm đã hành động trong sự độc lập hoàn tồn với nhau. Như vậy,
trong trường hợp, có nhiều người cùng tham gia thực hiện tội phạm là đồng phạm
thì có sự phân cơng vai trị, thống nhất ý chí giữa những người tham gia thực hiện
tội phạm nên đồng phạm thường có tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn so với
trường hợp phạm tội đơn lẻ. Do đó, vì mục đích phịng ngừa tội phạm và xác định
đúng TNHS của những người tham gia thực hiện tội phạm trong đồng phạm nên
“Đồng phạm” đã được quy định tại Điều 20 BLHS năm 1999.
Đồng phạm là một khái niệm pháp lý nói lên quy mơ phạm tội, được thể hiện
trong vụ án có nhiều người tham gia1.
Theo từ điển Luật học thì “Đồng phạm là trường hợp phạm tội đặc biệt so với
trường hợp phạm tội riêng lẻ”2
Theo từ điển Tiếng Việt “Đồng” có nghĩa là cùng nhau và không thể khác
được. “Phạm” được hiểu là xâm phạm đến cái cần được tôn trọng. “Đồng phạm”
được hiểu là cùng phạm tội.
Tại khoản 1 Điều 20 BLHS năm 1999 đã đưa ra khái niệm đồng phạm như
sau: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội
phạm”. Trong khoa học pháp lý hình sự Việt Nam, đồng phạm cũng là một hình
thức phạm tội nhưng là hình thức phạm tội đặc biệt so với hình thức phạm tội đơn lẻ
nên cũng có những dấu hiệu riêng biệt khác nhau so với các hình thức phạm tội
khác, đó là các dấu hiệu khách quan và dấu hiệu chủ quan trong đồng phạm. Và
định nghĩa trên đã nêu đầy đủ các dấu hiệu pháp lý riêng biệt của hình thức phạm
tội do nhiều người cùng thực hiện. Vì vậy, trong một vụ án hình sự có nhiều người
1
Trần Quang Tiệp (2007), Đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam, NXB. Tư Pháp, Hà Nội, tr.9
Bộ tư pháp – Viện khoa học pháp lý (1998), Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách khoa – NXB Tư pháp,
tr.269
2
6
cùng tham gia thực hiện tội phạm có được xem là một vụ án có đồng phạm hay
khơng thì cần xem xét các dấu hiệu khách quan và dấu hiệu chủ quan trong vụ án
hình sự đó, như sau:
Dấu hiệu khách quan của đồng phạm
Dấu hiệu khách quan của một vụ án đồng phạm là những dấu hiệu thể hiện ra
bên ngồi khi một vụ án hình sự xảy ra, bao gồm bốn dấu hiệu cơ bản là: dấu hiệu
số lượng người tham gia thực hiện tội phạm, dấu hiệu hành vi khách quan, dấu hiệu
hậu quả phạm tội chung và dấu hiệu mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan
và hậu quả phạm tội chung.
Dấu hiệu số lượng người tham gia trong vụ án đồng phạm: được quy định tại
khoản 1 Điều 20 BLHS năm 1999 là phải có ít nhất từ hai người trở lên tham gia
thực hiện tội phạm và mỗi người có đủ điều kiện chủ thể của tội phạm. Nếu trong
phạm tội đơn lẻ thì chỉ có một người thực hiện tội phạm thì trong đồng phạm phải
có ít nhất từ hai người trở lên cùng thực hiện tội phạm. Và những người này phải đủ
điều kiện là chủ thể tội phạm, tức là có đủ độ tuổi chịu TNHS theo quy định tại
Điều 12 BLHS năm 1999 và không rơi vào trường hợp khơng có năng lực chịu
TNHS theo quy định tại Điều 13 BLHS năm 1999. Trong trường hợp có hai người
trở lên cùng thực hiện một tội phạm, mà trong đó chỉ có một người đủ độ tuổi chịu
TNHS và có năng lực chịu TNHS thì cũng khơng xem là đồng phạm, mà chỉ là
trường hợp phạm tội đơn lẻ.
BLHS quy định đồng phạm phải từ hai người trở lên vì trên thực tế hầu hết các
trường hợp phạm tội xảy ra gây nguy hại lớn cho xã hội là những trường hợp có từ
nhiều người cùng tham gia thực hiện tội phạm. Khi phạm tội riêng lẻ không ít người
có tâm lý sợ hãi, thiếu quyết tâm, gặp khó khăn trở ngại khơng ít người phạm tội
một mình dễ dàng thay đổi ý kiến và có thể ngừng lại không thực hiện hành vi phạm
tội nữa. Nhưng khi hoạt động tập thể, người phạm tội thường có tâm lý dựa vào sức
mạnh tập thể nên liều lĩnh hơn, quyết tâm phạm tội cao hơn nên dẫn đến hậu quả
nguy hiểm cho xã hội cũng nghiêm trọng hơn. Vì vậy, đồng phạm được đặt ra phải
từ hai người trở lên cùng thực hiện hành vi phạm tội.
Đồng phạm quy định phải có ít nhất hai người trở lên cùng thực hiện tội phạm.
Hai người trở lên ở đây là những người có hành vi nguy hiểm cho xã hội đến một
mức độ nhất định nào đó. Khi có nhiều người tham gia tội phạm không phải mọi
trường hợp mọi người đều tham gia mức độ hành vi là giống nhau, có người tham
7
gia ít, có người tham gia nhiều, có người hành vi của họ tác động và góp phần quyết
định đến hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra, có những người mà hành vi của họ
tác động nhỏ nhặt, khơng đáng kể đến hậu quả thì vấn đề đồng phạm chưa cần phải
đặt ra. Chính vì vậy, khi đặt ra vấn đề đồng phạm, chúng ta cần phải xem xét một
cách toàn diện các dấu hiệu khách quan và dấu hiệu chủ quan của hành vi phạm tội.
Dấu hiệu hành vi khách quan trong đồng phạm: thì những người tham gia
thực hiện tội phạm trong đồng phạm phải có hoạt động phạm tội chung, nghĩa là
hành vi của mỗi người đồng phạm được thực hiện trong sự liên kết, thống nhất với
nhau và hành vi của người này là điều kiện hỗ trợ, bổ sung, là điều kiện cho hành vi
của người đồng phạm khác làm cho hoạt động phạm tội chung có hiệu quả và nguy
hiểm cao hơn. Trong quá trình cùng thực hiện một tội phạm, tùy vào các trường hợp
khác nhau mà mỗi người đồng phạm có thể tham gia thực hiện ít nhất một trong bốn
loại hành vi sau:
- Hành vi trực tiếp thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP, người thực hiện
hành vi này được gọi là người thực hành
- Hành vi tổ chức việc thực hiện tội phạm (tức là tổ chức để thực hiện các
hành vi được mô tả trong CTTP), người có hành vi này được gọi là người tổ
chức.
- Hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm (tức là hành vi xúi giục
người khác thực hiện các hành vi được mơ tả trong CTTP), người có hành vi
này được gọi là người xúi giục
- Hành vi giúp sức người khác thực hiện tội phạm (tức là hành vi giúp người
khác thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP), người có hành vi này được
xem là người giúp sức.
Mỗi người phạm tội trong đồng phạm có thể thực hiện một hay nhiều hành vi
được mô tả như trên. Trong trường hợp đồng phạm giản đơn (đồng phạm khơng có
phân cơng vai trị giữa những người tham gia thực hiện tội phạm) thì tất cả người
đồng phạm đều thực hiện một loại hành vi là hành vi trực tiếp thực hiện tội phạm.
Trong trường hợp đồng phạm phức tạp (đồng phạm có sự phân cơng vai trị
giữa những người tham gia thực hiện tội phạm), mỗi người trong đồng phạm thực
hiện một loại hành vi khác nhau: hành vi thực hành, hành vi tổ chức, hành vi giúp
sức, hành vi xúi giục. Tức là, chỉ có một hoặc một số người trực tiếp thực hiện tội
phạm, còn những người khác không trực tiếp thực hiện tội phạm mà chỉ có hành vi
8
tác động đến người khác để người này trực tiếp thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, dù
trực tiếp hay gián tiếp thực hiện tội phạm thì những người đồng phạm đều phải
tham gia thực hiện một tội phạm có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm được mô
tả trong Bộ luật hình sự. Khi tham gia thực hiện tội phạm thì thời điểm họ tham gia
thực hiện tội phạm có thể tham gia ngay từ đầu, nhưng cũng có thể tham gia khi tội
phạm đã xảy ra nhưng chưa kết thúc. Việc xác định thời điểm tham gia thực hiện tội
phạm của những người đồng phạm là trước, đồng thời và sau khi tội phạm kết thúc
có ý nghĩa xác định hành vi của họ có đồng phạm hay khơng có đồng phạm trong
vụ án đó. Nếu hành vi của một người liên quan đến việc thực hiện tội phạm không
thuộc một trong bốn loại hành vi trên thì khơng thể xem là người đồng phạm mà chỉ
xem là phạm tội đơn lẻ nếu có CTTP quy định về hành vi này.
Dấu hiệu hậu quả chung: nghĩa là hậu quả trong đồng phạm phải là hậu quả
chung của tất cả những người đồng phạm mang lại, là kết quả do hoạt động chung
của những người tham gia trong vụ án đồng phạm tạo nên. Trong quá trình thực
hiện tội phạm, một trong những người đồng phạm gây ra hậu quả riêng thì người đó
tự chịu TNHS về hậu quả riêng mà mình gây ra.
Dấu hiệu mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả chung:
nghĩa là hành vi của những người đồng phạm phải có mối quan hệ nhân quả với hậu
quả phạm tội chung. Trong trường hợp, đồng phạm khơng có sự phân cơng vai trị,
tức là tất cả người đồng phạm đều trực tiếp thực hiện tội phạm và hành vi của
những người này đều là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả phạm tội chung thì
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của người đồng phạm này và hậu quả phạm tội
chung được gọi là mối quan hệ nhân quả kép trực tiếp. Trường hợp đồng phạm có
sự phân cơng vai trị, tức là có cả người thực hành, người tổ chức, người giúp sức,
người xúi giục thì chỉ có hành vi của người thực hành là nguyên nhân trực tiếp gây
ra hậu quả phạm tội chung, còn hành vi của những người đồng phạm cịn lại khơng
phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả phạm tội chung mà thông qua hành vi
của người thực hành để gây ra hậu quả chung. Khi đó mối quan hệ giữa hành vi của
những người đồng phạm và hậu quả phạm tội chung được gọi là mối quan hệ nhân
quả gián tiếp.
Như vậy, khi xác định các dấu hiệu khách quan trong một vụ án đồng phạm thì
phải dựa vào bốn dấu hiệu khách quan: dấu hiệu số lượng người tham gia trong vụ
án, dấu hiệu hành vi khách quan, dấu hiệu hậu quả phạm tội chung và dấu hiệu về
9
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả phạm tội chung. Tuy
nhiên chỉ có dấu hiệu số lượng người tham gia thực hiện tội phạm và dấu hiệu hành
vi khách quan là hai dấu hiệu bắt buộc trong mọi vụ án đồng phạm; dấu hiệu hậu
quả phạm tội chung và dấu hiệu mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và
hậu quả phạm tội chung chỉ là dấu hiệu bắt buộc trong trường hợp tội phạm được
thực hiện là tội phạm có cấu thành vật chất.
Dấu hiệu chủ quan của đồng phạm
Các dấu hiệu chủ quan trong một vụ án đồng phạm là những dấu hiệu diễn ra
bên trong khi thực hiện hành vi phạm tội, bao gồm dấu hiệu lỗi, dấu hiệu mục đích
phạm tội và dấu hiệu động cơ phạm tội.
Dấu hiệu lỗi trong đồng phạm: là lỗi “cùng cố ý”. Lỗi “cùng cố ý” được hiểu
là mỗi người đồng phạm cố ý đối với chính hành vi nguy hiểm cho xã hội mà mình
đã thực hiện, biết và mong muốn sự cùng cố ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội của những người đồng phạm khác. Để xác định lỗi “cùng cố ý” trong đồng
phạm, cần phải xem xét ở hai phương diện lí trí và ý chí của những người đồng
phạm như sau:
Về mặt lí trí của những người đồng phạm thì đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội mà họ đã thực hiện thì mỗi người đồng phạm đều biết hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội và biết người khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng với
mình. Và đối với hậu quả phạm tội thì mỗi người đồng phạm đều thấy trước hậu
quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình gây ra và thấy trước hậu quả chung
của tội phạm mà họ gây ra. Như vậy, trong một vụ án hình sự mà người có hành vi
nguy hiểm cho xã hội chỉ biết mình có hành vi nguy hiểm cho xã hội mà khơng biết
người khác đang có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng với mình thì khơng thỏa
mãn dấu hiệu “cùng cố ý”, do đó khơng phải là đồng phạm, mà chỉ là trường hợp
phạm tội đơn lẻ.
Trong đồng phạm, thông thường mối quan hệ giữa những người đồng phạm có
mối quan hệ quen biết, tiếp xúc với nhau từ trước khi tham gia thực hiện tội phạm.
Tuy nhiên, đây không phải là dấu hiệu bắt buộc khi định tội danh trong một vụ án
đồng phạm vì trong một số trường hợp do yêu cầu trong hoạt động tội phạm nên
những người đồng phạm không nhất thiết phải quen biết nhau mà chỉ cần biết mình
đang hoạt động chung với người khác và những người này đều có hành vi nguy
hiểm cho xã hội, thì cũng bị xem là đồng phạm
10
Về mặt ý chí thì những người tham gia thực hiện tội phạm trong đồng phạm
cùng mong muốn có hoạt động phạm tội chung với nhau và cùng mong muốn hoặc
cùng có ý thức để mặc cho hậu quả phạm tội chung xảy ra. Như vậy, hình thức lỗi
trong đồng phạm thông thường là lỗi cố ý trực tiếp nhưng trong một số trường hợp
cũng có thể có lỗi cố ý gián tiếp. Như vậy, trong trường hợp một vụ án hình sự có từ
hai người trở lên cùng tham gia thực hiện tội phạm nhưng với lỗi vô ý thì khơng có
đồng phạm vì giữa họ khơng cùng mong muốn có hoạt động phạm tội chung và
cũng khơng có ý thức để mặc cho hậu quả phạm tội xảy ra.
Dấu hiệu mục đích phạm tội
Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra
phải đạt được khi thực hiện một tội phạm. Trong quá trình cùng thực hiện một tội
phạm, mục đích của những người tham gia thực hiện tội phạm trong vụ án đồng
phạm có thể là khác nhau. Do đó dấu hiệu cùng mục đích phạm tội chỉ là dấu hiệu
bắt buộc trong trường hợp cấu thành tội phạm quy định dấu hiệu mục đích là dấu
hiệu định tội. Trong trường hợp này, những người đồng phạm phải có dấu hiệu
“cùng mục đích phạm tội”, tức là những người đồng phạm khi thực hiện tội phạm
đều có mục đích phạm tội giống nhau hoặc giữa những người đồng phạm biết rõ và
tiếp nhận mục đích của nhau thì cũng thỏa mãn dấu hiệu cùng mục đích phạm tội.
Trường hợp cấu thành tội phạm không quy định dấu hiệu mục đích là dấu hiệu bắt
buộc thì những người đồng phạm khơng bắt buộc phải có dấu hiệu cùng mục đích
phạm tội.
Dấu hiệu động cơ phạm tội:
Cũng tương tự như dấu hiệu mục đích phạm tội thì dấu hiệu động cơ phạm tội
trong một vụ án đồng phạm chỉ là dấu hiệu bắt buộc nếu cấu thành tội phạm quy
định dấu hiệu động cơ phạm tội là dấu hiệu bắt buộc khi định tội danh. Trong
trường hợp này nếu giữa những người đồng phạm cố ý cùng thực hiện một tội phạm
khơng có cùng động cơ phạm tội thì cũng khơng xem là đồng phạm.
1.1.2. Các loại người trong đồng phạm.
Trong một vụ án đồng phạm, tùy thuộc vào quy mô của việc thực hiện tội
phạm mà những người tham gia thực hiện tội phạm có vai trị, tính chất và mức độ
thực hiện hành vi là khác nhau. Hiện nay, tại khoản 2 Điều 20 BLHS năm 1999 quy
định có bốn loại người trong đồng phạm: người thực hành, người tổ chức, người xúi
giục và người giúp sức.
11
1.1.2.1 Người thực hành
Theo từ điển Luật học: “Người thực hành là người đã trực tiếp thực hiện tội
phạm. Họ có thể tự mình thực hiện hành vi được mơ tả trong cấu thành tội phạm
hoặc chỉ có hành động (cố ý) tác động đến người khác để người này thực hiện hành
vi được miêu tả trong cấu thành tội phạm. Nhưng bản thân những người bị tác động
đã thực hiện hành vi đó khơng phải chịu trách nhiệm hình sự cùng với người đã tác
động họ”3
Theo khoản 2 Điều 20 BLHS năm 1999 quy định: “Người thực hành là người
trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội”
Trong khoa học luật hình sự và thực tiễn, người trực tiếp thực hiện tội phạm
bao gồm hai dạng hành vi như sau:
Dạng hành vi thứ nhất: người thực hành là người tự mình thực hiện hành vi
khách quan được mơ tả trong cấu thành tội phạm. Trong trường hợp này có thể có
một người thực hành hoặc nhiều người thực hành. Trực tiếp thực hiện hành vi
khách quan được mô tả trong CTTP có thể thực hiện hết tất cả các hành vi khách
quan được mô tả trong CTTP hoặc thực hiện một phần các hành vi khách quan được
mô tả trong CTTP. Trong quá trình tự mình thực hiện hành vi khách quan, người
thực hành có thể sử dụng cơng cụ, phương tiện phạm tội hoặc không sử dụng công
cụ, phương tiện phạm tội. Trong trường hợp đồng phạm có một người thực hành thì
hành vi của người này phải thỏa mãn hết các dấu hiệu của CTTP, trường hợp có
nhiều người cùng thực hành thì tổng hợp tất cả các hành vi của những người thực
hành này phải thỏa mãn hết các dấu hiệu của CTTP, khi đó tội phạm được xem là
hoàn thành.
Dạng hành vi thứ hai: người thực hành không trực tiếp thực hiện hành vi
khách quan được mô tả trong CTTP nhưng tại tác động, sử dụng hoặc lợi dụng
người khác để chính người này thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong
CTTP và gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Nếu xét về hình thức thì người bị
tác động hoặc lợi dụng đã trực tiếp thực hiện hành vi khách quan được mơ tả trong
CTTP. Nhưng nếu xét về bản chất thì người tác động đã xem người bị tác động như
một cơng cụ, phương tiện phạm tội để thay mình trực tiếp thực hiện hành vi khách
quan được mô tả trong CTTP nên hậu quả gây ra cho xã hội là do chính hành vi tác
động, lợi dụng của người đã tác động gây ra, người bị tác động khơng có lỗi nên họ
3
Bộ tư pháp – Viện khoa học pháp lý (1998), tlđd (số 2), tr.270
12
không phải chịu TNHS với người tác động. Người bị tác động hoặc bị lợi dụng
trong trường hợp này tuy trực tiếp thực hiện tội phạm nhưng không chịu TNHS nếu
thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Người bị tác động hoặc bị lợi dụng là người khơng có năng lực chịu trách
nhiệm hình sự, tức là khơng đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay khơng đủ khả
năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Do đó, khi người này trực tiếp
thực hiện hành vi khách quan và gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội thì khơng
phải chịu trách nhiệm hình sự vì người này khơng có lỗi khi hậu quả xảy ra.
- Người tác động lợi dụng sự sai lầm của người khác về những tình tiết khách
quan của vụ án hoặc người đó khơng có lỗi để gây hậu quả nguy hiểm cho xã
hội
- Người tác động đã cưỡng bức, uy hiếp tinh thần của người khác để người bị tác
động thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Vì khi thực hiện hành vi nguy
hiểm này, người bị tác động khơng điều khiển được ý chí theo ý mình nên họ
khơng có lỗi khi gây ra hậu quả cho xã hội.
- Người tác động đã ra mệnh lệnh cho người dưới quyền để người này thực hiện
hành vi không hợp pháp mà bản thân người này khơng biết được tính chất
khơng hợp pháp của mệnh lệnh và khơng có nghĩa vụ phải biết tính khơng hợp
pháp của mệnh lệnh đó, nên khơng phải chịu trách nhiệm hình sự.
Trong bốn trường hợp nêu trên, người bị tác động khi gây ra hậu quả nguy
hiểm cho xã hội đều là người không có lỗi hoặc chỉ có lỗi vơ ý. Mặc dù, về mặt
khách quan người bị tác động đã trực tiếp thực hiện hành vi khách quan được mô tả
trong CTTP nhưng về mặt chủ quan họ khơng có lỗi hoặc có lỗi vơ ý nên khơng đáp
ứng được dấu hiệu chủ quan của đồng phạm. Trường hợp này, họ không phạm tội
hoặc nếu có phạm tội thì chỉ là lỗi vô ý nên người bị tác động không phải là đồng
phạm với người tác động, lợi dụng họ thực hiện hành vi khách quan và gây ra hậu
quả nguy hiểm cho xã hội.
Tuy nhiên, trong trường hợp CTTP đòi hỏi chủ thể tội phạm phải là chủ thể
đặc biệt thì người thực hành hoặc những người đồng thực hành phải thỏa mãn dấu
hiệu của chủ thể đặc biệt, các loại người đồng phạm khác như người tổ chức, người
giúp sức, người xúi giục thì khơng cần phải thỏa mãn dấu hiệu này, ví dụ như: tội
hiếp dâm (Điều 111 BLHS năm 1999), tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt
tài sản (Điều 280 BLHS năm 1999)…
13
Trong một vụ án đồng phạm thì có thể có một người thực hành hoặc có nhiều
người thực hành. Trường hợp vụ án đồng phạm có một người thực hành thì hành vi
của người này phải thỏa mãn hết các dấu hiệu bắt buộc trong CTTP. Trường hợp vụ
án đồng phạm có nhiều người thực hành và mỗi người thực hành thực hiện một
phần hành vi khách quan được mô tả trong CTTP thì tổng hợp tất cả những hành vi
của những người thực hành này phải thỏa mãn hết các dấu hiệu bắt buộc trong
CTTP, khi đó tội phạm được coi là tội phạm hoàn thành. Đây là điểm khác biệt so
với trường hợp phạm tội riêng lẻ, vì hành vi của người thực hành trong phạm tội
riêng lẻ phải thỏa mãn hết các dấu hiệu của CTTP thì được xem là tội phạm hoàn
thành.
Trong một vụ án đồng phạm thì hành vi của người thực hành giữ vai trị trung
tâm trong một vụ án đồng phạm và có một vai trò quan trọng nhất so với những
người đồng phạm cịn lại, bởi vì khi giải quyết trách nhiệm hình sự của những
người đồng phạm trong vụ án đồng phạm như hoạt động định tội danh trong đồng
phạm, xác định giai đoạn phạm tội, đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội, …đều căn cứ vào hành vi của người thực hành. Ngoài ra, hành vi
của người thực hành chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả phạm tội chung,
còn hành vi của người tổ chức, người giúp sức, người xúi giục chỉ gây thiệt hại cho
xã hội thông qua hành vi của người thực hành.
Định tội danh dựa vào vai trò của người đồng phạm đặc biệt dựa vào vai trò
của người thực hành đóng rất vai trị quan trọng và quyết định đến vấn đề định tội
danh. Vì hành vi của người tổ chức, người xúi giục hoặc người giúp sức không trực
tiếp thực hiện hành vi khách quan mà chỉ có hành vi tác động đến người thực hành
để người thực hành thay mặt nhóm đồng phạm thực hiện hành vi khách quan được
mô tả trong CTTP. Tội danh được thực hiện của người tổ chức, người xúi giục và
người giúp sức phụ thuộc vào hành vi khách quan mà người thực hành đã thực hiện,
cách xác định tội danh của người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức đều dựa
vào hành vi của người thực hành. Xuất phát từ nguyên tắc “Những người đồng
phạm phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm”, nên những người đồng
phạm đều phải chịu TNHS về cùng một tội danh, nghĩa là người thực hành, người tổ
chức, người xúi giục và người giúp sức đều bị truy tố, xét xử về cùng một tội danh.
Thực tiễn cho thấy không phải mọi trường hợp những người thực hành đều
thực hiện đúng và đầy đủ các hành vi đã được thỏa thuận trước khi thực hiện tội
14
phạm mà trên thực tế những người thực hành có thể thực hiện hành vi vượt quá yêu
cầu của những người đồng phạm khác, khoa học luật hình sự gọi là hành vi vượt
quá của người thực hành. Hành vi vượt quá của người thực hành là việc người thực
hành tự ý thực hiện hành vi phạm tội mà những người đồng phạm khác không mong
muốn, hành vi của người thực hành mà những đồng phạm khác khơng có ý định
thực hiện.
Xuất phát từ nguyên nhân khi người thực hành thực hiện hành vi vượt ra ngoài ý
định phạm tội chung thì giữa người thực hành và những người đồng phạm khác không
tồn tại mối quan hệ “cố ý cùng tham gia thực hiện” hành vi vượt quá đó. Những người
đồng phạm khác không được biết về hành vi vượt quá và cũng không mong muốn hành
vi vượt quá xảy ra. Hành vi phạm tội của những người đồng phạm khác khơng có mối
quan hệ nhân quả với hành vi vượt q đó. Vì vậy những người đồng phạm khác không
phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá của người thực hành. Hành vi vượt quá của
người thực hành là hành vi vượt ra ngoài ý định chung của những người đồng phạm.
Hành vi đó có thể cấu thành một tội phạm khác hoặc cấu thành tình tiết định khung
tăng nặng TNHS. Hành vi vượt quá của người thực hành được thể hiện ở hai mức độ:
Vượt quá về tính chất của hành vi: Người thực hành đã thực hiện một hành vi
khác ngoài dự kiến ban đầu giữa họ với những người đồng phạm khác. Hành vi thực tế
đã thực hiện có tính chất nguy hiểm cho xã hội cao hơn hành vi dự kiến ban đầu nhóm
đồng phạm thực hiện. Hành vi vượt quá về chất không cùng loại với hành vi mà nhóm
đồng phạm dự kiến thực hiện.
Vượt quá về mức độ thực hiện hành vi: Người thực hành thực hiện hành vi phạm
tội theo như thỏa thuận ban đầu giữa họ với những người đồng phạm khác, nhưng mức
độ thực hiện hành vi phạm tội đó có tính chất nguy hiểm cao hơn. Hành vi vượt quá
trong trường hợp này có thể cấu thành tội phạm khác nhưng cùng tính chất với hành vi
phạm tội chung của những người đồng phạm.
Tuy nhiên, trong trường hợp những người đồng phạm khác để cho người thực
hành hoàn tồn tự do hành động để đạt được mục đích của tội phạm và những đồng
phạm khác cũng có ý định thực hiện hoặc có ý thức chấp nhận hành vi của người thực
hành thì khi đó hành vi của người thực hành không được coi là “vượt quá” và tất cả
những người đồng phạm phải chịu TNHS chung với người thực hành về hành vi này.
Trường hợp người thực hành có sự nhầm lẫn về khách thể của tội phạm thì những
người đồng phạm khác chỉ phải chịu TNHS về tội phạm này ở giai đoạn phạm tội chưa
15
đạt chứ khơng phải tội phạm hồn thành, tức là nếu có sự sai lầm của người thực hành
thì khơng có hành vi vượt quá4.
Thực tiễn xét xử cho thấy để xác định một hành vi của người thực hành hoặc
những đồng phạm khác có phải là hành vi vượt q hay khơng gặp rất nhiều khó khăn
xuất phát từ ngun nhân chính là rất khó xác định ranh giới để phân biệt hành vi vượt
quá hay hành vi không vượt quá. Như phân tích trên, để xác định hành vi thực hiện là
vượt q hay khơng vượt q thì phải xác định được các đồng phạm khác có cùng cố ý
hoặc cùng mong muốn thực hiện hành vi đó hay không. Điều này nghĩa rằng, ranh giới
để phân biệt hành vi vượt quá hay hành vi không vượt quá phụ thuộc vào việc làm rõ
nhận thức và mong muốn bên trong của người đồng phạm, tức là phụ thuộc vào việc
xác định lỗi trong dấu hiệu chủ quan của hành vi được thực hiện. Nếu lỗi trong dấu
hiệu chủ quan của hành vi đó là “cùng cố ý” thực hiện hành vi thì hành vi này được
xem là hành vi vượt quá và ngược lại, nếu lỗi trong dấu hiệu chủ quan của hành vi đó
là “ khơng cùng cố ý” thực hiện hành vi thì hành vi này không được xem là hành vi
vượt quá của người đồng phạm.
Chính vì vậy, để xác định và phân định rõ hành vi vượt quá và hành vi không
phải vượt quá của người đồng phạm thì yêu cầu chủ thể định tội danh phải có cái nhìn
tổng quan, sâu sắc, phân tích và làm rõ các tình tiết liên quan của vụ án đặc biệt là dấu
hiệu lỗi trong dấu hiệu chủ quan của hành vi thực hiện nhằm đảm bảo hoạt động định
tội danh đối với hành vi này đạt hiệu quả cao, hạn chế trường hợp những người đồng
phạm còn lại phải chịu TNHS chung về hành vi vượt quá của người đồng phạm có
hành vi này. Điều này đảm bảo phù hợp nội dung nguyên tắc “Phân hóa TNHS của
từng người đồng phạm”. Nguyên tắc này thể hiện những người đồng phạm phải
chịu TNHS chung về hành vi mà ý thức trong khuôn khổ những người đồng phạm
nhận thức được và mong muốn thực hiện hành vi đó, những người đồng phạm
không phải chịu TNHS về hành vi vượt quá của những người đồng phạm khác,
hành vi vượt quá của người thực hành. Trong trường hợp hành vi của người tổ chức,
người xúi giục, người giúp sức đã thực hiện hành vi tổ chức, hành vi xúi giục và
hành vi giúp sức nhưng người thực hành chưa thực hiện tội phạm thì họ vẫn phải
chịu TNHS và chịu TNHS ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
1.1.2.2 Người tổ chức
4
Kiều Đình Thụ (1998), Tìm hiểu Luật hình sự Việt Nam, NXB. Đồng Nai, tr.194
16
Theo từ điển Luật học: “Người tổ chức là người đồng phạm giữ vai trò đặc
biệt trong các vụ án đồng phạm, thể hiện ở vai trò liên kết các cá nhân để hình
thành nhóm phạm tội hoặc điều khiển hoạt động của nhóm phạm tội”5
Theo khoản 2 Điều 20 BLHS năm 1999 quy định: “Người tổ chức là người
chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm”.
Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cho thấy hoạt động của người tổ
chức diễn ra hết sức phức tạp và đa dạng. Chính vì vậy, BLHS hiện hành đã xác
định hoạt động của người tổ chức bao gồm các hoạt động của người chủ mưu,
người cầm đầu, người chỉ huy việc thực hiện tội phạm
Theo Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung của Đại học Luật TP Hồ
Chí Minh thì:
Người chủ mưu là người chủ động về mặt tinh thần gây ra tội phạm, có sáng
kiến thành lập các băng, nhóm tội phạm; đề xuất âm mưu và vạch ra phương
hướng, đường lối hoạt động chung của nhóm đồng phạm; kích động, thúc đẩy đồng
bọn phạm tội
Người cầm đầu là người đứng ra thành lập các nhóm đồng phạm; hoặc tham
gia soạn thảo kế hoạch, phương hướng hoạt động chính của nhóm đồng phạm;
phân cơng, giao trách nhiệm cho đồng bọn và đôn đốc, điều khiển mọi hoạt động
của nhóm đồng phạm
Người cầm đầu có thể khơng phải là người sáng lập ra nhóm đồng phạm, họ
tham gia khi nhóm đồng phạm đã hồn thành, nhưng được đồng bọn tín nhiệm nên
được cử vào bộ phận của nhóm đồng phạm.
Người chỉ huy là người trực tiếp điều khiển hoạt động của nhóm đồng phạm
có vũ trang hoặc bán vũ trang.6
Theo quan điểm của TS. Trần Quang Tiệp thì:
“Người chủ mưu là người chủ động về mặt tinh thần gây ra tội phạm, vạch ra
âm mưu, phương hướng hoạt động. Người chủ mưu có thể trực tiếp đứng ra cầm
đầu, điều khiển hoạt động của băng, nhóm tội phạm, nhưng cũng có thể đứng ngồi
băng, nhóm tội phạm đó.
5
Bộ Tư pháp – Viện khoa học pháp lý (1998), tlđd (số 2), tr.269
Đại học luật TP Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – phần chung, NXB Hồng Đức –
Hội Luật gia Việt Nam, tr.208
6
17
Người cầm đầu là người đứng ra thành lập các băng, nhóm phạm tội hoặc tuy
khơng đứng ra thành lập nhóm nhưng có sự tham gia vào việc soạn thảo, vạch kế
hoạch, phân công, giao trách nhiệm, đôn đốc đồng bọn thực hiện tội phạm
Người chỉ huy là người trực tiếp điều khiển hoạt động của các băng, nhóm tội
phạm có vũ trang hoặc bán vũ trang”7.
Như vậy hoạt động của người tổ chức có thể tồn tại một trong ba dạng là chủ
mưu, cầm đầu, chỉ huy hoặc kết hợp giữa chủ mưu và cầm đầu, chủ mưu và chỉ huy,
cầm đầu và chỉ huy hoặc cũng có thể kết hợp cả ba dạng chủ mưu, cầm đầu và chỉ
huy.
Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cho thấy người tổ chức có ba loại
hoạt động như sau:
- Hoạt động thành lập băng, nhóm tội phạm, tổ chức tội phạm
- Hoạt động tập hợp, lôi kéo người vào băng, nhóm tội phạm, tổ chức tội phạm
đã được thành lập hoặc điều khiển, điều hòa, phối hợp hoạt động phạm tội
của đồng bọn
- Tổ chức thực hiện một tội phạm cụ thể.
Như vậy, để xem là người tổ chức trong vụ đồng phạm thì người này chỉ cần
có hành vi thỏa mãn một trong ba hoạt động nêu trên.
Trong một vụ án đồng phạm thì người tổ chức là người giữ vai trò nguy hiểm
nhất trong tất cả người đồng phạm, vì người tổ chức là người sáng lập ra nhóm
đồng phạm, là người vạch ra các kế hoạch hoạt động cho nhóm đồng phạm cho nên
trong một vụ án nếu khơng có người tổ chức thì tội phạm khó có thể xảy ra. Bên
cạnh đó, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội phụ thuộc
rất nhiều vào hiệu quả hoạt động của người tổ chức, hoạt động của người tổ chức
hiệu quả cao thì tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cao
hơn so với trường hợp bình thường.
1.1.2.3 Người xúi giục
Theo từ điển Luật học: “Người xúi giục là người đồng phạm có hành vi tác
động đến nhận thức và ý chí của người khác, khiến người này phạm tội”8
Theo từ điển Tiếng Việt: “Xúi giục là xui và thúc đẩy người khác làm việc sai
trái với dụng ý xấu”9
7
Trần Quang Tiệp (2007), tlđd (số 1), tr.85
Bộ Tư pháp – Viện khoa học pháp lý (1998), tlđd (số 2), tr.269
9
Viện Khoa học xã hội Việt Nam – Viện Ngôn ngữ học (1992), Từ điển Tiếng Việt, NXB. Tư pháp, tr.1138
8
18
Khoản 2 Điều 20 BLHS năm 1999 quy định: “Người xúi giục là người kích
động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm”
Như vậy, xúi giục là hành vi tác động đến tư tưởng người khác làm xuất hiện ý
định phạm tội và thúc đẩy người này thực hiện hành vi phạm tội đó. Hành vi xúi
giục người khác thực hiện tội phạm được biểu hiện rất đa dạng bằng nhiều phương
thức như kích động, mua chuộc, lơi kéo, dụ dỗ, cưỡng ép, đe dọa,…Nhưng khái
quát bao gồm hai phương thức là thuyết phục và bắt buộc.
Phương thức thuyết phục tức là người xúi giục dùng các lý lẽ hay các lợi ích
vật chất để tạo niềm tin cho người khác để người này tin theo mà thực hiện tội
phạm.
Phương thức bắt buộc tức là người xúi giục dùng những biện pháp, thủ
đoạn,…để buộc người khác phải chấp nhận thực hiện tội phạm như đe dọa, khống
chế,…
Việc người xúi giục lựa chọn phương thức thuyết phục hay phương thức bắt
buộc phụ thuộc vào bản chất của người xúi giục và mối quan hệ giữa người xúi giục
và người bị xúi giục. Hành vi của người xúi giục và hành vi của người bị xúi giục
phải có mối quan hệ nhân quả với nhau. Nghĩa là, hành vi xúi giục là nguyên nhân
của hành vi thực hiện tội phạm của người bị xúi giục; còn hành vi phạm tội của
người bị xúi giục là kết quả và mục đích của người xúi giục.
Vì vậy trong quá trình định tội danh trong một vụ án hình sự thì một hành vi
được coi là hành vi xúi giục trong vụ án đồng phạm phải thỏa mãn các điều kiện
sau:
Một là, hành vi xúi giục phải trực tiếp nhằm một con người cụ thể. Có thể xúi
giục một người hoặc một số người nhưng phải là con người cụ thể có đủ điều kiện
là chủ thể của tội phạm, có nghĩa là người này có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình
sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi xúi giục không nhằm vào con người
cụ thể như hô hào, kêu gọi,…không hướng tới những con người xác định thì khơng
phải là hành vi xúi giục
Hai là, hành vi xúi giục phải nhằm gây ra việc thực hiện một tội phạm nhất
định. Nếu chỉ có hành vi gieo rắc, truyền bá, phổ biến những tư tưởng xấu cho một
người hoặc một số người và khiến người này thực hiện tội phạm thì cũng khơng
xem là người xúi giục trong đồng phạm mà chỉ có thể cấu thành tội phạm độc lập
(nếu có).
19
Ba là, về mặt chủ quan, người xúi giục phải có ý định rõ ràng thúc đẩy người
khác phạm tội. Nếu một người chỉ có hành vi làm ảnh hưởng đến việc phạm tội của
người khác nhưng khơng có ý định thúc đẩy người này thực hiện tội phạm thì cũng
khơng xem là người xúi giục.
Hành vi xúi giục có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội là khác nhau, phụ
thuộc vào mối quan hệ giữa người xúi giục và người bị xúi giục. Chẳng hạn như,
nếu người xúi giục lợi dụng chức vụ, quyền hạn, tôn giáo, tín ngưỡng, sự nhẹ dạ của
những người vị thành niên để xúi giục, thúc đẩy họ thực hiện hành vi phạm tội thì
hành vi của người xúi giục trong trường hợp này có tính nguy hiểm cho xã hội cao.
Trong quá trình nghiên cứu hành vi của người xúi giục, cần phân biệt giữa
hành vi của người xúi giục với hành vi của người thực hành và hành vi của người tổ
chức ở dạng là người chủ mưu.
Phân biệt hành vi giữa người xúi giục và người thực hành: Đối với dạng hành
vi người thực hành trực tiếp thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu
thành tội phạm thì người xúi giục khơng tự mình thực hiện hành vi khách quan. Đối
với dạng người thực hành sử dụng người khác thực hiện hành vi khách quan được
mô tả trong cấu thành tội phạm và người này không phải chịu trách nhiệm hình sự,
người bị sử dụng trong trường hợp này không đủ điều kiện là chủ thể của tội phạm;
còn hành vi của người xúi giục cũng sử dụng người khác để thực hiện tội phạm
nhưng người bị xúi giục phải đủ điều kiện chủ thể của tội phạm và phải chịu trách
nhiệm hình sự. Ngồi ra, xét về mặt hình thức thực hiện hành vi thì hành vi của
người thực hành được thực hiện dưới dạng hành động phạm tội và khơng hành động
phạm tội, cịn hình thức thực hiện hành vi của người xúi giục chỉ là hành động
phạm tội.
Phân biệt giữa hành vi của người xúi giục và người tổ chức ở dạng người chủ
mưu. Người xúi giục và người tổ chức đều có hành vi rủ rê, lôi kéo người
khác…tham gia vào băng, nhóm tội phạm nhưng hành vi của người tổ chức có tính
nguy hiểm cao hơn hành vi của người xúi giục vì người tổ chức có hành vi sáng lập
ra nhóm đồng phạm, vạch ra phương hướng hoạt động cho nhóm đồng phạm; cịn
hành vi của người xúi giục thì khơng có những hành vi này.
Xét tổng quan trong một vụ đồng phạm thì hành vi của người xúi giục có tính
nguy hiểm ít hơn hành vi của người tổ chức và trong một số trường hợp hành vi của