BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
TRƢƠNG THỊ MỸ HẠNH
CHUYỂN GIAO QUYỀN YÊU CẦU THỰC HIỆN
NGHĨA VỤ DÂN SỰ THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ
VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Mã số 60380103
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: Tiến sĩ NGUYỄN THỊ BÍCH NGỌC
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu thực sự của cá nhân,
đƣợc thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Bích Ngọc. Các
kết luận nghiên cứu đƣợc trình bày trong luận văn này trung thực, có tính kế thừa
một số quan điểm khoa học và chƣa từng đƣợc công bố dƣới bất kỳ hình thức nào.
Tơi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Tác giả luận văn
TRƢƠNG THỊ MỸ HẠNH
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
BLDS 1995
Bộ luật Dân sự số 44-L/CTN ngày 28/10/1995
(Bộ luật Dân sự 1995)
BLDS 2005
Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 ngày
14/6/2005 (Bộ luật Dân sự 2005)
Bộ luật hàng hải số 40/2005/QH11 ngày
14/6/2005
Bộ luật Tố tụng Dân sự số 24/2004/QH11 ngày
15 tháng 6 năm 2004 & Bộ luật Tố tụng Dân sự
số 65/2011/QH12 ngày 29 tháng 3 năm 2011
sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố
tụng Dân sự năm 2004
Luật kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10
ngày 09/10/2000
Luật số 61/2010/QH12 ngày 24/11/2010 Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh
bảo hiểm năm 2000
Luật thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 ngày
14/11/2008
Luật thi hành án dân sự số 64/2014/QH13 ngày
25/11/2014 Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật thi hành án dân sự năm 2008
Tịa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh
Bộ luật hàng hải 2005
Bộ luật Tố tụng Dân sự
Luật kinh doanh bảo hiểm 2000
Luật kinh doanh bảo hiểm 2010
Luật thi hành án dân sự 2008
Luật thi hành án dân sự 2014
TAND
TP. HCM
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................1
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHUYỂN GIAO QUYỀN
YÊU CẦU THỰC HIỆN NGHĨA VỤ DÂN SỰ .............................................20
1.1. Khái niệm quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự và chuyển giao
quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự..........................................................20
1.1.1.
Khái niệm quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự ...........................20
1.1.2.
Khái niệm chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự .......23
1.2.
Chủ thể chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự ...........26
1.2.1.
Chủ thể chuyển giao quyền yêu cầu theo thỏa thuận ...........................27
1.2.2.
Chủ thể chuyển giao quyền yêu cầu theo pháp luật .............................33
1.3.
sự
Đối tƣợng của quan hệ chuyển giao quyền yêu cầu hiện nghĩa vụ dân
.....................................................................................................................37
1.3.1.
Đối tượng của chuyển giao quyền yêu cầu theo thỏa thuận.................37
1.3.2.
Đối tượng của chuyển giao quyền yêu cầu theo pháp luật ...................40
1.4. Hình thức, phạm vi và nội dung chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện
nghĩa vụ dân sự ....................................................................................................43
1.4.1.
Hình thức chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự .......43
1.4.2. Phạm vi và nội dung chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ
dân sự ...............................................................................................................45
1.5. Biện pháp bảo đảm trong quan hệ chuyển giao quyền yêu cầu thực
hiện nghĩa vụ dân sự ............................................................................................48
1.6. Sự khác biệt của chuyển giao hợp đồng với chuyển giao quyền yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ dân sự ...................................................................................50
CHƢƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CHUYỂN GIAO
QUYỀN YÊU CẦU THỰC HIỆN NGHĨA VỤ DÂN SỰ VÀ GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN .......................................................................................................55
2.1. Thực tiễn áp dụng quy định về chủ thể chuyển giao quyền yêu cầu thực
hiện nghĩa vụ dân sự ............................................................................................55
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định về đối tƣợng chuyển giao quyền yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ dân sự ...................................................................................60
2.3. Thực tiễn áp dụng quy định về hình thức, phạm vi và nội dung chuyển
giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự .................................................64
2.3.1. Thực tiễn áp dụng quy định về hình thức chuyển giao quyền yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ dân sự ..................................................................................64
2.3.2. Thực tiễn áp dụng quy định về phạm vi và nội dung chuyển giao quyền
yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự .....................................................................65
2.4. Thực tiễn áp dụng quy định về biện pháp bảo đảm trong chuyển giao
quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự..........................................................68
2.5. Thực tiễn áp dụng một số vấn đề chƣa đƣợc quy định trong Bộ luật
Dân sự 2005 về chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự .........70
KẾT LUẬN ............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
-1-
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hệ thống pháp luật, sau Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự giữ vị trí
đặc biệt quan trọng, điều chỉnh các quan hệ dân sự giữa cá nhân, pháp nhân và chủ
thể khác. Đây là những quan hệ gắn liền với sự tồn tại, phát triển xã hội và gắn với
cuộc sống hàng ngày của ngƣời dân1. Bộ luật Dân sự điều chỉnh các quan hệ giao
dịch một cách bao quát và toàn diện các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản
của các chủ thể khi tham gia các quan hệ dân sự, bao gồm cả quan hệ hơn nhân và
gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động (gọi chung là quan hệ dân sự). Luật dân
sự quy định địa vị, chuẩn mực cho cách ứng xử của các chủ thể, bảo đảm sự bình
đẳng và an tồn pháp lý trong quan hệ dân sự, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Khi xã hội phát triển, giao lƣu dân sự ngày càng trở nên đa dạng và phong
phú cả về quy mô, phƣơng thức và phạm vi, không chỉ giới hạn về mặt địa lý trong
lãnh thổ Việt Nam mà còn mở rộng khắp thế giới theo xu hƣớng tồn cầu hóa nhằm
đạt đến những lợi ích nhất định. Theo đó, các giao dịch dân sự cũng đƣợc xác lập
ngày càng nhiều, phong phú về tính chất, đa dạng về đối tƣợng, để đạt đƣợc mục
đích khi xác lập giao dịch, xuất phát từ ý chí của mình, hầu hết các chủ thể đều
mong muốn tự mình đứng ra thực hiện quyền, nghĩa vụ đã đƣợc thỏa thuận khi xác
lập giao dịch. Mặc dù phù hợp với nhu cầu và mục đích của các bên vào thời điểm
xác lập giao dịch, nhƣng vẫn có thể trở thành gánh nặng của một trong các bên do
khơng cịn mong muốn hoặc phƣơng tiện để thực hiện nó. Khi một trong các bên
thấy việc tiếp tục thực hiện giao dịch khơng cịn mang lại lợi ích mong muốn, chủ
thể sẽ tìm cách “tự giải phóng khỏi quan hệ giao dịch” bằng cách chấm dứt hoặc
chuyển giao sang chủ thể khác. Việc đơn phƣơng chấm dứt quan hệ đã đƣợc xác lập
từ một bên chủ thể trong giao dịch sẽ dẫn tới hậu quả là bồi thƣờng thiệt hại nên
cách này thƣờng không đƣợc ƣu tiên lựa chọn, trừ khi không cịn giải pháp khác tối
ƣu hơn. Thực tế, khi khơng cịn mong muốn thực hiện hoặc khơng thể trực tiếp thực
hiện các quyền, nghĩa vụ nhƣ mình đã cam kết thì các chủ thể có thể chuyển giao
theo một thỏa thuận sau đó hoặc đƣợc xem nhƣ đƣơng nhiên chuyển giao khi đáp
ứng đủ điều kiện (chuyển giao theo pháp luật), trừ một số trƣờng hợp pháp luật quy
Đinh Trung Tụng (2005), Bình luận những nội dung mới của Bộ luật Dân sự năm 2005, Nxb Tƣ pháp, Hà
Nội, tr 9.
1
-2-
định không đƣợc phép chuyển giao. Tôn trọng nguyên tắc tự thỏa thuận của các bên
trong giao dịch dân sự, pháp luật đã xây dựng một hệ thống các quy phạm để điều
chỉnh vấn đề này, trong đó cho phép các chủ thể có thể chuyển giao quyền hoặc
chuyển giao nghĩa vụ cho một chủ thể khác (ngƣời thứ ba) khi thỏa mãn điều kiện
nhất định và có ý định chuyển giao.
Mặc dù đã đƣợc dự liệu và xây dựng thành những quy phạm pháp luật cụ thể
trong Mục 4 Chƣơng XVII Phần thứ ba và các Điều 376, Điều 577, Điều 636 của
Bộ luật Dân sự 2005, bên cạnh đó cịn có các luật khác nhƣ Luật kinh doanh bảo
hiểm 2000 đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2010; Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005; Luật
thi hành án dân sự 2008 đƣợc sử đổi, bổ sung năm 2014 và những văn bản dƣới luật
nhằm điều chỉnh vấn đề chuyển giao quyền, chuyển giao nghĩa vụ trong quan hệ
dân sự, nhƣng nhìn chung vẫn cịn thiếu tính nhất qn giữa các văn bản về vấn đề
này.
Bộ luật Dân sự hiện hành đã có những tác động tích cực đến đời sống kinh tế
- xã hội nƣớc ta thời gian qua, điều chỉnh một cách bao quát các giao dịch dân sự
nói chung, nhƣng nó chƣa thực sự mang tính “hồn hảo” cho việc điều chỉnh tất cả
các quan hệ về lĩnh vực dân sự nói chung trong xã hội. Để dần hồn thiện cơng trình
lập pháp mang tính quốc gia, Quốc Hội đang trong quá trình dự thảo, lấy ý kiến
rộng rãi nhằm làm tiền đề cho việc sửa đổi, bổ sung BLDS 2005 hƣớng đến sự
thống nhất trong công cụ quản lý nhà nƣớc. Thiết nghĩ đây là cơ hội cho những
ngƣời nghiên cứu pháp luật góp tiếng nói của mình vào việc hồn thiện hệ thống
pháp luật nƣớc nhà nói chung và pháp luật dân sự Việt Nam nói riêng, trong đó có
quy định về chuyển giao quyền yêu cầu, chuyển giao nghĩa vụ trong quan hệ dân
sự.
Vấn đề chuyển giao quyền yêu cầu, chuyển giao nghĩa vụ trong quan hệ dân
sự không phải là chuyên đề lớn trong BLDS 2005, do vậy các quy định cũng còn
hạn chế và khá tản mạn. Để khắc phục đƣợc điều đó địi hỏi phải có cơng trình
nghiên cứu nghiêm túc, khoa học, đúc rút những điểm thiếu sót hoặc/và hạn chế, bất
cập của pháp luật, từ đó đƣa ra những kiến nghị thích hợp nhằm tạo tính nhất quán,
xuyên suốt trong hệ thống pháp luật dân sự. Bản chất của chuyển giao quyền yêu
cầu và chuyển giao nghĩa vụ thuộc hai phạm trù đối lập nhau, điều kiện để tiến hành
chuyển giao khác nhau, cách thức thực hiện việc chuyển giao khác nhau, và đặc biệt
là hệ quả pháp lý vơ cùng khác nhau… do đó, tác giả khơng có tham vọng nghiên
-3-
cứu cả hai vấn đề mà chỉ chọn một trong hai vấn đề là Chuyển giao quyền yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ dân sự theo Bộ luật Dân sự Việt Nam cho luận văn thạc sỹ.
Chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự là lát cắt mỏng trong khoa
học dân sự, nhƣng qua đó chúng ta có thể thấy đƣợc nghĩa vụ dân sự là một quan hệ
pháp luật và bản chất quyền yêu cầu của trái chủ với thụ trái, quyền yêu cầu là một
loại quyền tài sản - quyền có thể chuyển giao. Liên quan đến chuyển quyền yêu cầu,
cần làm rõ một vài câu hỏi nhƣ: Khi nào chuyển giao quyền yêu cầu tồn tại? Khi
chuyển giao quyền yêu cầu một cách hợp pháp thì phát sinh những hệ quả pháp lý
gì? Giao dịch chuyển giao quyền u cầu có đặc điểm gì giống và khác biệt với các
giao dịch dân sự khác? Trƣờng hợp nào thì khơng đƣợc chuyển giao quyền u cầu,
thực tiễn áp dụng có gì vƣớng mắc khơng, phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về
chuyển giao quyền yêu cầu nhƣ thế nào?… Đó là những vấn đề đặt ra và nhiệm vụ
của luận văn cần phải làm sáng tỏ.
2. Tình hình nghiên cứu
Chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự đã đƣợc trình bày và
phân tích trong một số giáo trình chuyên ngành luật dân sự, một số sách chuyên
khảo nhƣ Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự, Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự - Bản án và bình luận bản án của các tác giả làm công tác
nghiên cứu khoa học. Có lẽ, đây khơng phải là chun đề lớn nên cũng chƣa có
cơng trình nghiên cứu tổng quan chế định này của BLDS 2005, mà chỉ có một số
bài báo đăng trên các tạp chí khoa học, mỗi tác giả nêu lên một hoặc một vài khía
cạnh của vấn đề mà chƣa có cái nhìn tổng thể về chuyển giao quyền yêu cầu thực
hiện nghĩa vụ dân sự.
(i)
Giáo trình, sách chun khảo
Trong nhóm tài liệu này đƣợc chú ý là Giáo trình luật dân sự Việt
Nam, Trƣờng Đại học luật Hà Nội, tập II, nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm
2012, Chƣơng VI: Khái niệm về nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự, Mục VII với
tiêu đề “Thay đổi chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ”, giáo trình đề cập đến vấn đề
thay đổi chủ thể trong hai trƣờng hợp là thay đổi chủ thể có quyền yêu cầu (trƣờng
hợp thế quyền) và thay đổi chủ thể thực hiện nghĩa vụ (trƣờng hợp thế nghĩa vụ).
Đối với trƣờng hợp thế quyền hay chuyển giao quyền yêu cầu thì giáo trình chỉ đề
cập đến việc chuyển giao quyền thông qua thỏa thuận, cụ thể “Chuyển giao quyền
-4-
yêu cầu là sự thỏa thuận giữa ngƣời có quyền trong quan hệ nghĩa vụ dân sự với
ngƣời thứ ba nhằm chuyển giao quyền yêu cầu cho ngƣời đó”2. Qua đó, giáo trình
phân tích bản chất của việc chuyển giao quyền yêu cầu là ngƣời thứ ba thế vào vai
trò của ngƣời có quyền ban đầu và trở thành ngƣời có quyền mới (chủ thể mới)
trong quan hệ nghĩa vụ dân sự và ngƣời có quyền ban đầu chấm dứt hẳn tƣ cách chủ
thể trong quan hệ nghĩa vụ và khơng phải chịu trách nhiệm gì về khả năng thực hiện
nghĩa vụ của ngƣời có nghĩa vụ, trừ trƣờng hợp có thỏa thuận khác. Ngƣời chuyển
quyền yêu cầu chỉ phải chịu trách nhiệm trong trƣờng hợp: quyền yêu cầu đó có
đúng pháp luật hay khơng, thời hạn cịn hay đã hết.
Ngồi ra, giáo trình cũng phân tích các vấn đề liên quan đến chuyển giao
quyền yêu cầu đƣợc quy định trong BLDS 2005 từ Điều 309 đến Điều 314 nhƣ hình
thức chuyển giao quyền yêu cầu, nghĩa vụ cung cấp thông tin và chuyển giao giấy
tờ, chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm và
quyền từ chối của bên có nghĩa vụ.
Nhƣ vậy, giáo trình chỉ xoay quanh đến vấn đề chuyển giao quyền yêu cầu
theo thỏa thuận đƣợc quy định tại Mục 4 Chƣơng XVII Phần thứ ba BLDS 2005
mà chƣa phân tích một cách tồn diện nội hàm vấn đề chuyển giao quyền yêu cầu
bao gồm chuyển giao quyền yêu cầu theo pháp luật đƣợc quy định trong BLDS
2005 liên quan đến vấn đề chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ bảo lãnh (Điều
376), chuyển yêu cầu hoàn trả trong các quy định về hợp đồng bảo hiểm (Điều 577)
và trong thừa kế (Điều 636).
Trong luận văn, tác giả sẽ làm sáng tỏ các nội dung giáo trình chƣa đề cập
đến, trong đó vấn đề liên quan đến chuyển giao quyền yêu cầu theo pháp luật sẽ
đƣợc viện dẫn và phân tích để chỉ ra những điểm mà luật thực định chƣa thể hiện rõ
bên cạnh đó chính sự “tản mạn” đã ảnh hƣởng đến việc vận dụng vào thực tiễn. Qua
đó, đƣa ra kiến nghị bổ sung điều luật liên quan đến chuyển giao quyền yêu cầu
theo pháp luật để tạo tính nhất quán xuyên suốt trong những quy định liên quan đến
chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự. Điều này giúp cho ngƣời đọc
thấy đƣợc bản chất pháp lý của chuyển giao quyền u cầu khơng chỉ gói gọn trong
Trƣờng Đại học luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr 54.
2
-5-
“chuyển giao quyền yêu cầu theo thỏa thuận” mà còn có cả trƣờng hợp chuyển giao
quyền yêu cầu theo pháp luật.
Bên cạnh giáo trình thì cịn có một số sách chuyên khảo đề cập đến vấn
đề chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự, nhóm này gồm “Luật
nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự - Bản án và bình luận bản
án”, tập 1, nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2012 của tác giả Đỗ Văn Đại.
Thông qua việc bình luận ba bản án và trích dẫn một số bản án khác, tác giả đã nêu
lên bản chất và phân tích một số vấn đề liên quan đến chuyển giao quyền yêu cầu
bao gồm (i) căn cứ phát sinh chuyển giao quyền yêu cầu: theo thỏa thuận và theo
pháp luật; (ii) hệ quả pháp lý của chuyển giao quyền u cầu, trong đó tác giả phân
tích mối quan hệ giữa ngƣời thế quyền và ngƣời có nghĩa vụ đồng thời cũng phân
tích vai trị của ngƣời có quyền ban đầu.
Thứ nhất, căn cứ phát sinh chuyển giao quyền yêu cầu theo thỏa thuận, tác
giả đi sâu phân tích nội hàm tính chất “sự thỏa thuận” đƣợc thể hiện tại Điều 309
BLDS 2005, theo tác giả thì sự thỏa thuận mà điều luật đề cập chỉ là thỏa thuận giữa
hai chủ thể là ngƣời có quyền ban đầu và ngƣời thế quyền là đủ bởi trong quan hệ
chuyển giao này khơng ảnh hƣởng đến quyền lợi của ngƣời có nghĩa vụ. Thế nhƣng,
nếu sự thỏa thuận về việc chuyển giao quyền yêu cầu có cả chủ thể thứ ba là bên có
nghĩa vụ tham gia thì thỏa thuận vẫn hợp pháp, để chứng minh cho lập luận của
mình tác giả viện dẫn bản án thực tế đã đƣợc TAND TP. HCM xét xử cấp phúc
thẩm năm 20103.
Căn cứ phát sinh chuyển giao quyền yêu cầu theo pháp luật, đây là trƣờng
hợp chuyển giao quyền yêu cầu không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể liên
quan mà do luật định. Tác giả dẫn chứng thông qua bản án về chuyển giao quyền
yêu cầu liên quan đến bảo hiểm hàng hóa đƣợc quy định tại Điều 577 BLDS 2005
và các Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2010, Bộ luật
hàng hải 2005. Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến trƣờng hợp thế quyền sau khi thực
hiện thay, theo tác giả thì trƣờng hợp này khá phổ biến trong thực tế, tác giả cũng
đặt ra câu hỏi “sau khi thanh tốn cho ngƣời có quyền thì ngƣời trả thay có đƣợc thế
vào ngƣời có quyền khơng?” Hiện nay, luật thực định chƣa nói rõ (hay nói cách
khác chƣa có điều luật nào trong BLDS 2005 đề cập đến trƣờng hợp này) có việc
3
Bản án số 55/2010/DSPT ngày 15-1-2010 của Tòa án nhân dân TP. HCM
-6-
chuyển quyền yêu cầu trong tình huống nêu trên, tuy nhiên theo tác giả thì xuất phát
từ thực tiễn xét xử (các bản án trích dẫn) mà nên chấp nhận sự “thế quyền” nếu xảy
ra tình huống nhƣ trên. Qua phân tích, tác giả cũng so sánh với pháp luật nƣớc
ngồi từ đó có ý tƣởng bổ sung vào quy định của luật trƣờng hợp thế quyền sau khi
thực hiện thay nghĩa vụ, và đây sẽ thuộc trƣờng hợp chuyển quyền yêu cầu theo
pháp luật.
Thứ hai, hệ quả pháp lý của chuyển giao quyền yêu cầu, tác giả cho rằng hệ
quả pháp lý là nhƣ nhau giữa chuyển giao quyền yêu cầu theo thỏa thuận và theo
pháp luật, bởi bản chất của chúng không khác nhau. Về mối quan hệ giữa ngƣời thế
quyền và ngƣời có nghĩa vụ thì chỉ có sự thay đổi về chủ thể quyền, cịn lại về nội
dung, bản chất và đối tƣợng của nghĩa vụ dân sự khơng thay đổi, do đó những ràng
buộc giữa các bên ban đầu vẫn tiếp tục có giá trị trong quan hệ mới với ngƣời thế
quyền và nếu có các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong quan hệ
nghĩa vụ ban đầu thì các biện pháp này cũng sẽ tiếp tục đƣợc duy trì. Về vai trị của
ngƣời có quyền ban đầu, khi quyền u cầu đƣợc chuyển giao, ngƣời yêu cầu ban
đầu coi nhƣ đã ra khỏi quan hệ nghĩa vụ dân sự, tác giả đã chứng minh cho điều này
thông qua phán quyết trong bản án cụ thể:
Để thế quyền theo quy định tại Điều 247 Bộ luật hàng hải Việt
Nam năm 2005 và khoản 1 Điều 577 BLDS năm 2005, Công ty ximăng
Chinfon Hải Phòng đã cung cấp các tin tức, tài liệu có liên quan cho
Tổng cơng ty bảo hiểm Việt Nam, theo đó Tồ án nhân dân thành phố
Hải Phịng mới thụ lý và giải quyết vụ án. Do đó cơng ty ximăng
Chinfon Hải Phịng khơng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án4.
Thơng qua việc bình luận các bản án, tác giả cơ bản đã làm rõ các quy định
của pháp luật về chuyển giao quyền yêu cầu trong BLDS 2005, tuy nhiên còn một
vài vấn đề mà tác giả nêu lên có liên quan đến nội dung chuyển giao quyền yêu cầu
nhƣng chƣa đƣợc thể hiện trong BLDS 2005, từ đó tác giả đề xuất nghiên cứu bổ
sung nhƣ vấn đề thế quyền sau khi thực hiện thay nghĩa vụ. Tuy nhiên, tác giả chƣa
lý giải tại sao cần phải có thêm quy định này và ý nghĩa pháp lý của quy định này
Đỗ Văn Đại (2012), Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự - Bản án và bình luận bản
án, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr 392.
4
-7-
khi đƣa vào quy định của BLDS 2005, ý nghĩa thực tiễn của quy định này ra sao,…
các vấn đề này sẽ đƣợc làm rõ một cách cụ thể trong luận văn.
Ngồi ra, luận văn cũng sẽ phân tích cụ thể tình huống thỏa thuận chuyển
giao quyền yêu cầu khi có sự tham gia của bên có nghĩa vụ (thỏa thuận ba bên) mà
theo tác giả thì điều này đƣợc chấp nhận và dƣờng nhƣ nó khơng có gì khác so với
thỏa thuận hai bên giữa bên có quyền ban đầu và bên thế quyền. Tuy nhiên, nội hàm
của “thỏa thuận ba bên” có gì khác so với thỏa thuận giữa bên có quyền ban đầu và
bên thế quyền hay khơng, và đây có hồn tồn là một quan hệ chuyển giao quyền
yêu cầu đúng bản chất ban đầu hay có thể thay đổi quan hệ ban đầu cũng sẽ đƣợc
làm rõ trong luận văn.
Cũng xoay quanh đến vấn đề này tác giả Hồng Thế Liên có Bình luận
khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005, tập II, nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm
2009, Phần thứ ba “Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự”. Tác giả diễn giải và phân
tích từng điều luật cụ thể trong BLDS 2005 về chuyển giao quyền yêu cầu, tác giả
đã cho ngƣời đọc thấy đƣợc ý chí của nhà làm luật, giá trị và ý nghĩa của các điều
luật thơng qua việc bình luận cụ thể sau mỗi điều luật (Điều 309 đến Điều 314),
đồng thời một số vấn đề đã đƣợc tác giả nhận định và giải thích thêm khi luật chƣa
lý giải một cách chi tiết, rõ ràng.
Thứ nhất, liên quan đến việc thông báo cho bên có nghĩa vụ về việc chuyển
giao quyền u cầu thì “Ngƣời chuyển giao quyền yêu cầu phải báo cho bên có
nghĩa vụ biết bằng văn bản về việc chuyển giao quyền yêu cầu”5, tuy nhiên tác giả
đã chứng minh rằng việc thông báo là không cần thiết và cũng gần nhƣ không thể
thực hiện đƣợc đối với các trƣờng hợp mà “bằng chứng giao kết hợp đồng là giấy tờ
có giá trị không ghi danh, quyền yêu cầu không gắn với một giá trị nhất định (cổ
phiếu, trái phiếu không ghi danh…), bên có nghĩa vụ chỉ thực hiện nghĩa vụ với
ngƣời nào xuất trình giấy tờ đó”6. Tác giả đã cho ngƣời đọc thấy rằng quy định về
việc thông báo cho bên có nghĩa vụ biết về việc chuyển giao quyền yêu cầu từ
ngƣời có quyền ban đầu sang ngƣời thế quyền đã có ngoại lệ nhƣng điều ngoại lệ
này chƣa thấy đƣợc đề cập trong các quy định từ Điều 309 đến Điều 314 BLDS
2005.
Điều 309 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Hồng Thế Liên (2009), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2005, tập II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr
62.
5
6
-8-
Thứ hai, đối với trƣờng hợp không đƣợc chuyển giao quyền yêu cầu khi
“Quyền yêu cầu cấp dƣỡng, yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại do xâm phạm đến tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín”7, tác giả đã phân tích nội hàm trƣờng
hợp này cần đƣợc hiểu là pháp luật không cho phép chuyển giao quyền yêu cầu bồi
thƣờng thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín,… tức là
địi hỏi phải chính bản thân ngƣời bị thiệt hại mới có quyền quyết định có u cầu
bồi thƣờng hay khơng. Một khi ngƣời bị thiệt hại đã yêu cầu bồi thƣờng và ngƣời
gây thiệt hại đã đồng ý hoặc Tịa án đã có quyết định buộc ngƣời gây thiệt hại bồi
thƣờng mà ngƣời gây thiệt hại chƣa thực hiện nghĩa vụ bồi thƣờng thì quyền u
cầu bồi thƣờng này hồn tồn có thể đƣợc chuyển giao theo thỏa thuận.
Ngoài ra, vấn đề chuyển giao quyền yêu cầu cũng đƣợc một số tác giả
khác quan tâm và thể hiện thơng qua Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự phần
Nghĩa vụ dân sự và Hợp đồng dân sự, nhà xuất bản Lao động năm 2009 của tác giả
Trƣơng Anh Tuấn. Trong cuốn bình luận này tác giả gần nhƣ khơng có bình luận
sâu hay trình bày quan điểm về các vấn đề mà luật chƣa quy định hay quy định chƣa
cụ thể mà chủ yếu là diễn giải thêm các quy định trong BLDS 2005 từ Điều 309 đến
Điều 314. Nhìn chung, nội dung về chuyển giao quyền yêu cầu mà tác giả đƣa ra
khơng có gì mới và trùng lặp với những tác giả khác vì bám sát quy định pháp luật,
mà tinh thần của BLDS 2005 hiện vẫn đang còn hiệu lực, chƣa có sự thay đổi.
(ii)
Sách tham khảo
Ngồi giáo trình và một số sách chuyên khảo đề cập đến chế định chuyển
giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự thì cịn có sách tham khảo “Nghĩa vụ
dân sự trong luật dân sự Việt Nam” nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 1998 của
tác giả Nguyễn Mạnh Bách, nội dung trong quyển sách này đƣợc tác giả tập trung
phân tích về nghĩa vụ dân sự theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 1995. Mặc dù đề
cập đến “chuyển giao quyền yêu cầu” thực hiện nghĩa vụ dân sự theo điều 315
BLDS 1995 (Điều 309 BLDS 2005) nhƣng trong quyển sách này tác giả sử dụng
một số thuật ngữ khác nhƣ “sự chuyển nhƣợng trái quyền”, “trái chủ”, trái hộ”,
“ngƣời chủ nhƣợng”, “ngƣời thụ nhƣợng”,… để đề cập đến phạm trù chuyển giao
quyền yêu cầu. Về nội dung, tác giả phân tích dựa trên các quy định từ Điều 315
đến Điều 320 của BLDS 1995 nhƣ hình thức chuyển nhƣợng trái quyền, hiệu lực
7
Điểm a, khoản 1, Điều 309 Bộ luật Dân sự năm 2005.
-9-
của sự chuyển nhƣợng trái quyền. Mặc dù sử dụng thuật ngữ khác nhƣng tác giả
cũng đi vào phân tích bản chất của các quy định về chuyển giao quyền u cầu, qua
đó giúp cho ngƣời đọc hình dung một cách rõ nét hơn về chuyển giao quyền yêu
cầu theo thỏa thuận.
Ngồi ra, tác giả cịn đề cập đến thuật ngữ “sự chi phó”, “sự chi phó kế vị”
để nói về “chuyển giao nghĩa vụ” đƣợc quy định trong BLDS 1995. Trong đó thuật
ngữ “sự chi phó kế vị” có thể đƣợc hiểu là một ngƣời thứ ba đứng ra thực hiện thay
nghĩa vụ cho ngƣời có nghĩa vụ trong một quan hệ cụ thể, tuy nhiên theo tác giả thì
đây khơng phải là trƣờng hợp của chuyển giao quyền yêu cầu bởi nội hàm của nó
khác với chuyển giao quyền yêu cầu. Về vấn đề này, một vài tác giả khi nghiên cứu
về chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự đƣợc quy định trong
BLDS 2005 đã đặt vấn đề liệu rằng đây có phải là một trong số những trƣờng hợp
chuyển giao quyền yêu cầu theo quy định của pháp luật và nên chăng cần đƣa vào
quy định bổ sung trong BLDS 2005.
Tác giả quyển sách đã vận dụng những quy định của BLDS 1995 để phân
tích và nhận định vấn đề về chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ
trên quan điểm cá nhân của tác giả. Mặc dù BLDS 1995 đã đƣợc thay thế bởi BLDS
2005 nhƣng những quy định về chuyển giao quyền u cầu thực hiện nghĩa vụ
khơng có nhiều thay đổi, do đó quyển sách này là nguồn tham chiếu có giá trị trong
q trình thực hiện luận văn.
(iii)
Tạp chí khoa học
Trong nhóm tài liệu này có bài viết “Chuyển giao quyền yêu cầu thi hành
án khi người được thi hành án là cá nhân chết”, đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp
luật, Bộ tƣ pháp, số chuyên đề 7 năm 2011. Bài viết nêu lên kinh nghiệm thi hành
bản án của Chi cục Thi hành án huyện Gia Lâm, Hà Nội, vấn đề nổi cộm mà bài
viết muốn đề cập đó là quyền yêu cầu thi hành án đƣợc chuyển giao theo quy định
của pháp luật. Đầu tiên, một trong hai ngƣời chết là ngƣời đƣợc thi hành án, Chi cục
Thi hành án xác định đây là quyền liên đới nên một trong số các chủ thể đƣợc thi
hành án có quyền yêu cầu thi hành tồn bộ bản án, từ đó ra quyết định cho thi hành
bản án theo yêu cầu của ngƣời đƣợc thi hành án đang còn sống. Trong lúc chƣa thi
hành đƣợc bản án thì ngƣời thứ hai trong số hai ngƣời đƣợc thi hành án cũng chết,
lúc này Chi cục Thi hành án xác định quyền yêu cầu thi hành án đƣợc chuyển giao
-10-
cho những ngƣời thừa kế, cơ sở cho việc đƣa ra quyết định này là Luật thi hành án
dân sự năm 2008 và quy định ở phần thừa kế của BLDS 2005 và bản án đã đƣợc
quyết định cho thi hành theo đúng tinh thần của luật định, bên phải thi hành án đã
thi hành bản án theo quyết định.
Bài viết chỉ xoay quanh một vấn đề trong số nhiều vấn đề liên quan chuyển
giao quyền yêu cầu theo pháp luật, cụ thể là quyền yêu cầu đƣợc thi hành án của
những ngƣời thừa kế, bài viết phản chiếu sự thành công của ngƣời áp dụng pháp
luật một khi họ biết vận dụng các quy định một cách có hệ thống và triển khai hiệu
quả vào đời sống thực tiễn.
Ngoài một trong số các nội dung liên quan đến vấn đề chuyển giao quyền
yêu cầu theo pháp luật, luận văn sẽ đi sâu và làm rõ tất cả các vấn đề liên quan đến
chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự, bao gồm chuyển giao quyền
yêu cầu theo thỏa thuận và chuyển giao quyền yêu cầu theo pháp luật, điều này thể
hiện phạm vi bao quát của luận văn so với bài viết này.
Một bài viết khác xoáy trực tiếp vào vấn đề chuyển giao quyền yêu cầu
là “Chuyển giao quyền yêu cầu trong Bộ luật Dân sự”, đăng trên Tạp chí Kiểm sát,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số 3 (số tết) năm 2014 của tác giả Đỗ Văn Đại. Bài
viết này tác giả tập trung phân tích hai vấn đề liên quan đến chuyển giao quyền yêu
cầu (thế quyền) là (i) cách thức chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ
dân sự đƣợc chuyển giao và (ii) trƣờng hợp quyền yêu cầu đƣợc chuyển giao.
Trong phần cách thức chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân
sự đƣợc chuyển giao, tác giả cho ngƣời đọc thấy có hai cách thức chuyển giao
quyền yêu cầu đó là chuyển giao quyền yêu cầu theo thỏa thuận (khoản 1 Điều 309
BLDS 2005) nghĩa là sự chuyển giao xảy ra xuất phát từ ý chí của bên muốn
chuyển giao và bên nhận chuyển giao (bên thế quyền) và chuyển giao quyền yêu
cầu theo pháp luật (Điều 577, 636 BLDS 2005) nghĩa là sự chuyển giao xảy ra
khơng phụ thuộc vào ý chí các bên mà do nhà làm luật quy định. Tác giả chỉ rõ các
quy định về thế quyền theo thỏa thuận đƣợc luật hóa trong phần quy định chung về
nghĩa vụ dân sự (từ Điều 309 đến 314 BLDS 2005) trong khi đó quy định về chuyển
quyền yêu cầu theo pháp luật trong những hồn cảnh cá biệt mà thơi. Tác giả cho
rằng việc thừa nhận thế quyền tự động (theo pháp luật) rất có ý nghĩa trong thực
tiễn, để minh chứng cho luận điểm này tác giả đã trích dẫn một tình huống cụ thể về
-11-
việc thế quyền theo pháp luật cho ngƣời thực hiện nghĩa vụ thay thế cho ngƣời có
nghĩa vụ. Một lần nữa tác giả khẳng định lại nhận định của mình rằng BLDS 2005
đã ghi nhận rõ ràng việc chuyển giao quyền yêu cầu theo thỏa thuận trong phần
nghĩa vụ dân sự nhƣng chƣa thấy các quy định về chuyển giao quyền khơng có thỏa
thuận (thế quyền theo pháp luật) và kết luận đây là điểm khác biệt giữa pháp luật
Việt Nam so với hệ thống pháp luật ở nƣớc ngoài (Pháp, Canada).
Qua phân tích có so sánh với pháp luật nƣớc ngoài, tác giả kiến nghị bổ sung
quy định về chuyển giao quyền yêu cầu theo pháp luật, cụ thể là trƣờng hợp thế
quyền do đã trả thay cho ngƣời có nghĩa vụ vào phần nghĩa vụ dân sự trong BLDS
2005. Ở đây, tác giả chỉ nêu “ý nghĩa thực tiễn” nếu thừa nhận thế quyền tự động và
kiến nghị bổ sung vào BLDS 2005 nhƣng chƣa lý giải nội hàm của vấn đề là tại sao
cần phải có thêm quy định này và ý nghĩa pháp lý của quy định này khi đƣa vào
BLDS 2005, … nhằm tiếp bƣớc cơng trình này và mục đích hƣớng đến việc hồn
thiện pháp luật về chuyển giao quyền yêu cầu không theo thỏa thuận thì đây là
nhiệm vụ mà luận văn cần phải giải quyết.
Đối với trƣờng hợp có thể chuyển giao quyền yêu cầu, tác giả tập trung phân
tích những trƣờng hợp không đƣợc phép thỏa thuận chuyển giao quyền yêu cầu,
đồng thời trích dẫn để so sánh với một vài hệ thống pháp luật nƣớc ngoài (Pháp, Bộ
nguyên tắc Châu âu) và khẳng định rằng không hệ thống pháp luật nào lại không
cho chuyển giao quyền yêu cầu nhƣ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 309 BLDS
2005. Từ đó, tác giả kiến nghị bỏ đi điểm a khoản 1 Điều 309 về trƣờng hợp loại trừ
chuyển giao quyền yêu cầu trong thực hiện nghĩa vụ dân sự là: Yêu cầu bồi thƣờng
thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín. Nhìn
từ góc độ tổng thể những nội dung trong BLDS 2005 về quyền nhân thân và quyền
tài sản thì việc kiến nghị này của tác giả có vẻ chƣa thật sự thuyết phục, tại sao lại
nhƣ vậy thì sẽ đƣợc lý giải trong luận văn, thiết nghĩ nên sửa đổi quy định này thì sẽ
phù hợp hơn là bỏ đi quy định này ra khỏi BLDS 2005.
Bên cạnh những bài viết đi vào chủ đề chuyển giao quyền yêu cầu thì
cịn những bài viết khác khai thác một hoặc một vài khía cạnh liên quan, cụ thể tác
giả Phan Hải Hồ có “Áp dụng chế định chuyển giao quyền yêu cầu qua thực tiễn
một vụ án dân sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng quốc hội năm 2007,
số chuyên đề hiến kế pháp luật số 21 (94), tháng 3/2007 và “Về chế định “chuyển
giao quyền yêu cầu” qua thực tiễn một vụ án dân sự”, Tạp chí Dân chủ và Pháp
-12-
luật, Bộ tƣ pháp, số 2 (179) năm 2007. Hai bài viết có cùng nội dung, tác giả viện
dẫn một bản án về chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự, trong vụ
án này các đƣơng sự đã thực hiện việc chuyển giao quyền yêu cầu theo đúng các
quy định tại Điều 309 và 310 BLDS 2005. Tuy nhiên, vụ án diễn ra ở hai cấp xét xử
sơ thẩm (Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh D) và phúc thẩm (TAND tỉnh D) đều
không công nhận việc chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự của các
đƣơng sự là hợp pháp, từ đó chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải có
nghĩa vụ trả khoản nợ (cùng với lãi suất nợ quá hạn) cho nguyên đơn dù trong
trƣờng hợp này bị đơn là ngƣời đã nhận chuyển giao quyền yêu cầu, trở thành bên
có quyền đối với nguyên đơn trong một món nợ khác ngang bằng, và nếu đƣợc cơng
nhận việc chuyển giao quyền thì khoản nợ sẽ đƣợc cấn trừ, lúc này xem quyền và
nghĩa vụ của đôi bên đã hoàn tất lẫn nhau.
Sau khi dẫn chứng bản án thực tế, tác giả rút ra một số nhận định nhƣ sau: (i)
quy định về chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự chƣa đƣợc cụ thể
hóa, chƣa có văn bản hƣớng dẫn chi tiết để ngƣời áp dụng pháp luật thực thi một
cách hiệu quả; (ii) sự yếu kém của ngƣời áp dụng pháp luật cũng góp phần gây ảnh
hƣởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Từ những nhận định trên tác giả đã nêu ra một số kiến nghị: (i) bồi dƣỡng
kiến thức pháp luật cho đội ngũ áp dụng pháp luật; (ii) loại bỏ những quy định
mang tính chất chung chung, kiểu dự liệu pháp luật “các trƣờng hợp khác do pháp
luật quy định”; (iii) phải có định nghĩa hoặc giải thích luật về thuật ngữ chuyển giao
quyền yêu cầu nhằm giúp hiểu các quy định của pháp luật chính xác và áp dụng
thống nhất; (iv) có văn bản hƣớng dẫn tạm thời trong thời gian chờ sửa đổi BLDS
2005 để đảm bảo lợi ích cho các bên liên quan trong giao dịch dân sự về chuyển
giao quyền yêu cầu; (v) cần có các quy định mang tính “triển khai” chế định chuyển
giao quyền yêu cầu của BLDS 2005 liên quan đến các bƣớc trong tố tụng dân sự và
thi hành án dân sự nhằm đảm bảo tính “liên thơng” và “gắn kết” của hệ thống pháp
luật.
Trong bài viết, bên cạnh những nhận định và đề xuất tác giả đã cho chúng ta
thấy rằng chế định chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự vẫn còn
nhiều vấn đề cần hoàn thiện. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ đề xuất “phải có định nghĩa
hoặc giải thích luật về thuật ngữ chuyển giao quyền yêu cầu” nhƣng chƣa đƣa ra bất
cứ gợi mở nào cho vấn đề này, luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ vấn đề này thơng
-13-
qua khái niệm về chuyển giao quyền yêu cầu. Bên cạnh đó, tác giả khơng hồn tồn
đồng tình với tác giả Phan Hải Hồ rằng trong trƣờng hợp quyền và nghĩa vụ của đơi
bên đƣợc xem nhƣ hồn tất thì đây là căn cứ để Tịa án đình chỉ vụ án, trong trƣờng
hợp này Tòa án vẫn thụ lý và giải quyết vụ án theo các thủ tục tố tụng và quyết định
trong bản án là bác yêu cầu với lý do khơng có căn cứ để chấp nhận u cầu của
nguyên đơn sẽ hợp lý hơn. Tuy nhiên, vấn đề này không thuộc phạm vi nghiên cứu
của luận văn nên tác giả khơng bình luận thêm.
Cũng khai thác về vấn đề này tác giả Nguyễn Thị Hồng có bài viết “Bàn
về thủ tục chuyển giao quyền và nghĩa vụ trong thi hành án dân sự”, đăng trên Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ tƣ pháp, số chuyên đề 3 năm 2011. Trong bài, tác giả
phân tích Điều 54 Luật thi hành án dân sự năm 2008 và chỉ ra một số điểm bất hợp
lý khi áp dụng điều luật này vào thực tiễn thi hành bản án. Cụ thể, tác giả dẫn chứng
trƣờng hợp quyết định thi hành án số 30/QĐ-THA ngày 07/4/2010 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện N, sau khi bên có nghĩa vụ thi hành án đã thi hành đƣợc một
phần bản án (đã nộp tiền phải thi hành án cho Chi cục Thi hành án và số tiền này
chƣa đƣợc chuyển đến ngƣời đƣợc thi hành án) thì ngƣời đƣợc thi hành án chết,
ngƣời thừa kế duy nhất của ngƣời đƣợc thi hành án tiếp tục làm đơn yêu cầu thi
hành án (chuyển quyền yêu cầu theo pháp luật). Chi cục trƣởng Chi cục Thi hành án
ra quyết định thi hành án mới đối với ngƣời đƣợc thừa kế và thu hồi quyết định cũ,
tác giả đã đƣa ra hai cách xử lý số tiền mà ngƣời phải thi hành án đã nộp nhƣng
chƣa đƣợc chuyển đến ngƣời đƣợc thi hành án. Cả hai cách giải quyết mà tác giả
nêu đều phát sinh bất cập bởi xuất phát từ quy định của Luật thi hành án dân sự,
thực tiễn áp dụng đã gây ra những rắc rối phiền hà khi áp dụng, từ đó tác giả đƣa ra
hai kiến nghị để giải quyết vấn đề.
Thứ nhất, tại Điều 54 Luật thi hành án dân sự nên phân biệt riêng hai trƣờng
hợp đối với chuyển giao quyền, nếu ngƣời đƣợc thi hành án chƣa có đơn u cầu thi
hành án thì ngƣời nhận chuyển giao có quyền làm đơn yêu cầu thi hành án còn
ngƣợc lại nếu ngƣời đƣợc thi hành án đã có đơn u cầu thi hành án thì ngƣời nhận
chuyển giao có quyền tiếp tục nhận quyền, lợi ích theo quyết định thi hành án.
Thứ hai, không nên quy định việc thu hồi quyết định thi hành án cũ và ra
quyết định thi hành án mới mà chỉ cần ra quyết định về việc chuyển giao quyền
hoặc/và nghĩa vụ thi hành án là đủ. Thực ra nội dung thứ hai này xét về nội hàm đã
-14-
trùng lặp với vế thứ hai của kiến nghị thứ nhất mà tác giả đã nêu bên trên, do đó
khơng cần thiết phải tách ra thành hai kiến nghị riêng biệt.
Bài viết tập trung trong lĩnh vực Thi hành án dân sự (tác giả dựa trên Điều 54
Luật thi hành án dân sự 2008), trong khi đó luận văn tập trung phân tích các vấn đề
đƣợc quy định trong BLDS 2005 (tuy có sự liên hệ nhƣng đây khơng phải là khía
cạnh cần đào sâu), do đó bài viết này sẽ có giá trị nhƣ nguồn tham khảo cho các lập
luận đƣợc trình bày trong luận văn.
Chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự cũng đƣợc tác giả
Nguyễn Thị Thủy quan tâm với bài viết “Chuyển giao quyền yêu cầu bồi hoàn
trong bảo hiểm tài sản”, đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý, Đại học luật TP.
HCM số 5 (48) năm 2008. Trong bài, tác giả lƣớt qua tất cả các vấn đề về chuyển
giao quyền yêu cầu đƣợc quy định trong phần nghĩa vụ dân sự của BLDS 2005 và
cho rằng chuyển giao quyền u cầu là “sự thỏa thuận”, trong đó xốy vào trọng
tâm là bản chất của chuyển giao quyền yêu cầu là chỉ chuyển giao chủ thể mà không
làm thay đổi nội dung của quan hệ. Tác giả cho rằng quan hệ bảo hiểm tài sản thực
chất là quan hệ dân sự, do vậy bản chất của chuyển giao quyền yêu cầu trong bảo
hiểm tài sản cũng gần giống bản chất của chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ
dân sự, tuy nhiên cách thức và nội dung chuyển giao quyền yêu cầu trong bảo hiểm
tài sản cũng có những nét đặc thù riêng.
Tác giả phân tích rất chi tiết nội dung của quan hệ bảo hiểm tài sản, các
trƣờng hợp phát sinh nghĩa vụ bồi thƣờng, lý giải thế nào đƣợc xem là rủi ro cũng
nhƣ thế nào là có hành vi vi phạm nên đã gây ra thiệt hại và nghĩa vụ bồi thƣờng
hình thành. Tóm lại, sau khi phân tích, tác giả đi đến kết luận “chuyển giao quyền
yêu cầu trong bảo hiểm tài sản chính là chuyển giao quyền địi bồi thƣờng”. Qua
phân tích, tác giả cho rằng những quy định pháp luật về chuyển quyền khiếu nại
trong bảo hiểm tài sản là hoàn toàn hợp lý, nhƣng bên cạnh đó tác giả cũng nói
thêm rằng trên thực tế việc triển khai áp dụng quy định trên cịn gặp nhiều khó khăn
do những bất cập của luật. Dẫn chứng một số điểm mâu thuẫn giữa khoản 1 và
khoản 2 Điều 49 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000, từ đó đƣa ra một số kiến nghị
nhằm giải quyết sự mâu thuẫn của điều luật này. Bên cạnh đó tác giả cũng đề cập
đến Điều 100 Bộ luật hàng hải 2005, những quy định làm bất lợi cho phía doanh
nghiệp bảo hiểm Việt Nam, từ đó có kiến nghị về sự thay đổi Luật để tạo môi
trƣờng cạnh tranh lành mạnh trong môi trƣờng quốc tế.
-15-
Bài viết tập trung nhiều vào các quy định về bảo hiểm tài sản trong khi đây
không phải là vấn đề mà luận văn hƣớng đến, dó đó các nội dung này sẽ khơng bình
luận nhiều mà vấn đề luận văn đặt ra đối với bài viết này đó là phân biệt các trƣờng
hợp chuyển giao quyền yêu cầu. Dƣờng nhƣ tác giả chƣa nhìn nhận rõ bản chất
chuyển giao quyền yêu cầu này là chuyển giao theo pháp luật mà không phải là
chuyển giao theo thỏa thuận (Điều 577 BLDS 2005), vì ngay trong phần dẫn nhập
ban đầu tác giả có đề cập “chuyển giao quyền yêu cầu là sự thỏa thuận”. Luận văn
sẽ chỉ ra sự “nhằm lẫn” này của tác giả thơng qua việc phân tích khái quát và thống
nhất các vấn đề liên quan đến chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự
theo Bộ luật Dân sự Việt Nam.
Ngoài những bài viết đề cập đến chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện
nghĩa vụ dân sự một cách trực tiếp thì cịn một số bài viết khác tuy không đi vào
trọng tâm vấn đề chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ nhƣng ít nhiều có
đề cập đến nội dung này nhƣ tác giả Ngô Quốc Chiến với “Bộ luật Dân sự cần bổ
sung quy định về chuyển giao hợp đồng”, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
Văn phịng quốc hội năm 2013, số 02+03 (234+235), T1(2) + T2(1)/2013. Trong
bài viết tác giả có sự phân tích và nhận định bản chất của chuyển giao hợp đồng
khác với chuyển giao quyền yêu cầu hay chuyển giao nghĩa vụ bởi hợp đồng còn
bao gồm cả mối quan hệ pháp lý khác trong hợp đồng, hay nói cách khác chuyển
giao hợp đồng là phạm trù rộng hơn chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ
dân sự. Vấn đề này cũng sẽ đƣợc phân tích và làm rõ trong luận văn để chứng minh
rằng chuyển giao quyền yêu cầu là khái niệm hẹp hơn chuyển giao hợp đồng. Bên
cạnh đó, trong q trình phân tích, tác giả bài viết cũng cho ngƣời đọc thấy rằng
luật pháp của Pháp mặc dù chƣa có quy định minh thị về chuyển giao hợp đồng
nhƣng theo nhận định của chuyên gia L. AYNÈS thì bên nhận chuyển giao hợp
đồng chính là bên thế quyền, điều này đƣợc pháp luật cho phép. Cũng theo tác giả,
tại Mỹ: khi giao dịch thành công, quyền của người chuyển giao được chuyển giao
toàn bộ sang cho người nhận chuyển giao”8. Việc chuyển giao quyền u cầu khơng
địi hỏi sự đồng ý của bên có nghĩa vụ9. Những dẫn chứng về pháp luật nƣớc ngoài
của tác giả bài viết liên quan đến chuyển giao hợp đồng nhƣng nó sẽ có ý nghĩa rất
Restatement 2nd, 317 (Trích Ngơ Quốc Chiến (2013), “Bộ luật Dân sự cần bổ sung quy định về chuyển giao
hợp đồng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phịng quốc hội năm 2013, số 02+03 (234+235)).
9
M.A. Eisenberg, Contracts, 14e esd., Chicago 2002, 665 (Trích Ngơ Quốc Chiến (2013), “Bộ luật Dân sự
cần bổ sung quy định về chuyển giao hợp đồng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phịng quốc hội năm
2013, số 02+03 (234+235)).
8
-16-
lớn cho việc phân tích cũng nhƣ đƣa ra các kiến nghị trong luận văn về chuyển giao
quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt
Nam, bởi chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự là một khía cạnh
của chuyển giao hợp đồng.
Những nghiên cứu trên dù còn khá ít nhƣng mỗi cơng trình lại phản ánh
những khía cạnh nhất định khác nhau của vấn đề chuyển giao quyền yêu cầu. Đây
sẽ là nguồn tài liệu quý báu để tác giả tham khảo trong quá trình thực hiện và hồn
thành luận văn của mình. Trên cơ sở phân tích những điểm cịn bỏ ngỏ hoặc chƣa
hồn thiện nhƣng đã đƣợc chỉ ra, một mặt luận văn sẽ phát triển những điểm còn bỏ
ngỏ, mặt khác sẽ đặt chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự trong
tính tổng thể, thống nhất.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực trạng pháp lý,
thực tiễn áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về quy định chuyển
giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu nhƣ trên, nhiệm vụ đặt ra là:
Thứ nhất, nghiên cứu làm sáng tỏ đƣợc những vấn đề cơ bản về chuyển giao
quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự nhƣ đƣa ra khái niệm và phân tích đặc
điểm của quyền yêu cầu và chuyển giao quyền yêu cầu, vai trò và ý nghĩa của việc
chuyển giao quyền yêu cầu trong giao dịch dân sự, lợi ích mà các chủ thể đạt đƣợc
trong việc chuyển giao quyền yêu cầu thay vì chấm dứt quan hệ giao dịch một cách
đơn phƣơng.
Thứ hai, phân tích và đánh giá đƣợc những quy định của pháp luật Việt Nam
về chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự trên cơ sở tham chiếu (so
sánh) với pháp luật nƣớc ngồi để xác định tính phù hợp và chƣa phù hợp của pháp
luật nƣớc nhà, từ đó rút ra kết luận làm cơ sở cho các đề xuất kiến nghị.
Thứ ba, nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về chuyển giao quyền yêu
cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua một vài bản án xét xử của Tòa án, đây là
căn cứ khá quan trọng cho việc đƣa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chủ
đề mà tác giả nghiên cứu.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phƣơng pháp nghiên cứu
-17-
a. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, trong phạm vi yêu cầu của luận văn thạc sỹ, tác giả hƣớng đến
nghiên cứu vấn đề “Chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự” một
cách khái quát đƣợc quy định trong Bộ luật Dân sự. Đồng thời nghiên cứu thêm quy
định liên quan đến vấn đề “Chuyển giao quyền yêu cầu” đƣợc đề cập trong các văn
bản khác nhƣ Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật thi hành án dân sự và các văn bản
hƣớng dẫn thi hành liên quan đến nội dung này để có cái nhìn tổng quan về nội
dung nghiên cứu.
Về thời gian, luận văn nghiên cứu các vấn đề đƣợc quy định trong BLDS
2005, có tham chiếu các quy định tƣơng đồng đƣợc thể hiện trong BLDS 1995 và
các văn bản ở các lĩnh vực khác nhƣng có liên quan trong giai đoạn có hiệu lực của
BLDS 1995 đến nay. Các bản án đƣợc sử dụng để viện dẫn hoặc chứng minh cho
luận điểm của tác giả phần lớn trong giai đoạn từ khi BLDS 2005 có hiệu lực pháp
luật và đƣợc đi vào thực tiễn đời sống xã hội.
Về khơng gian, ngồi việc phân tích và lý giải cho lập luận trong từng nội
dung theo quy định của pháp luật trong nƣớc, tác giả có sử dụng Luật La Mã để cho
ngƣời đọc thấy đƣợc lịch sử ra đời của chế định nghiên cứu và pháp luật của Pháp
nhằm tham chiếu để xác định tính hợp lý của các quy định về chuyển giao quyền
yêu cầu, từ đó rút ra kết luận cho vấn đề mà mình cần nghiên cứu, lấy đó làm ý
tƣởng cho việc hồn thiện các kiến nghị trong cơng trình nghiên cứu của mình. Việc
minh chứng cũng đƣợc viện dẫn thơng qua các bản án ở các địa phƣơng có điều
kiện phát triển về kinh tế - xã hội nhƣ TP. HCM, Thành phố Hà Nội và một số
quyết định cấp giám đốc thẩm của TAND Tối cao nhằm củng cố thêm cho nhận
định của mình mang tính thuyết phục.
b. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả đứng trên quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
và quan điểm, định hƣớng của Đảng và Nhà nƣớc trên con đƣờng cải cách toàn
diện, nhằm tạo điều kiện cho giao lƣu dân sự ngày càng đƣợc tôn trọng và bảo vệ
trên nguyên tắc tự thỏa thuận, bình đẳng giữa các bên nhƣng trong khuôn khổ pháp
luật. Các phƣơng pháp cụ thể đƣợc sử dụng trong quá trình thực hiện luận văn nhƣ:
phƣơng pháp phân tích, so sánh và đánh giá, thống kê, các phƣơng pháp này đan
-18-
xen theo chiều dọc xuyên suốt nội dung của luận văn để làm sáng tỏ từng vấn đề
nghiên cứu.
Phương pháp phân tích: đƣợc sử dụng trong cả hai chƣơng của luận văn,
phân tích những quy định hiện hành để thấy vai trò, ý nghĩa của những quy định này
trong BLDS 2005 và các văn bản có liên quan. Đồng thời, phân tích để rút ra nhận
xét về thực tiễn áp dụng pháp luật của chế định này trong đời sống xã hội, làm cơ sở
cho những kiến nghị tại chƣơng hai.
Phương pháp so sánh và đánh giá: phƣơng pháp này sử dụng trong chƣơng
một phần so sánh với pháp luật nƣớc ngồi, từ đó có những đánh giá về sự giống và
khác nhau giữa pháp luật nƣớc nhà và pháp luật thế giới, làm tiền đề và cơ sở cho
việc xây dựng các đề xuất trong luận văn.
Phương pháp thống kê: đƣợc sử dụng thông qua việc dẫn chứng một số bản
án qua thực tiễn xét xử Tòa án liên quan đến vấn đề “Chuyển giao quyền yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ dân sự” trong chƣơng hai, từ việc dẫn chứng qua thực tiễn xét xử
sẽ chứng minh tính phù hợp và chƣa phù hợp giữa lý luận và thực tiễn áp dụng pháp
luật, từ đây sẽ đƣa ra những kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật hiện
hành về vấn đề đang nghiên cứu, tạo tính nhất quán và triệt để cho hệ thống pháp
luật nƣớc nhà.
5.
Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của luận văn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu nghiêm túc của tác giả, nghiên cứu một
cách tổng quan chế định chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự theo
quy định của Bộ luật Dân sự hiện hành và pháp luật có liên quan. Cơng trình hồn
thành góp phần vào kho tàng khoa học pháp lý về chế định này nói riêng và Bộ luật
Dân sự nói chung trên cở sở phân tích, đánh giá pháp luật thực định. Bên cạnh đó,
luận văn cũng nêu lên những vấn đề thực tiễn đã và đang diễn ra trong đời sống xã
hội mà chƣa đƣợc pháp luật điều chỉnh, tác giả đƣa ra một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện và xây dựng chế định này một cách nhất quán, xuyên suốt.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm hai chƣơng:
-19-
Chƣơng 1: Một số vấn đề cơ bản về chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện
nghĩa vụ dân sự
Chƣơng 2: Thực tiễn áp dụng quy định chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện
nghĩa vụ dân sự và giải pháp hoàn thiện
-20-
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHUYỂN GIAO QUYỀN
YÊU CẦU THỰC HIỆN NGHĨA VỤ DÂN SỰ
1.1. Khái niệm quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự và chuyển giao
quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự
Tiêu đề của Điều 309 BLDS 2005 là “Chuyển giao quyền yêu cầu”, mở đầu
Điều 309 nhƣ sau: “Bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự có thể chuyển
giao quyền yêu cầu đó…”. Tiêu đề và nội dung Điều 309 xuất hiện hai cụm từ
“chuyển giao quyền yêu cầu” và “quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự”. Tiếp
theo các điều từ 310 đến 314 BLDS 2005 đề cập đến hình thức chuyển giao, nghĩa
vụ cung cấp thông tin và chuyển giao giấy tờ, trách nhiệm sau khi chuyển giao
quyền yêu cầu và biện pháp bảo đảm khi chuyển giao quyền yêu cầu. Trong các
điều luật thuộc chế định này nói riêng và cả BLDS 2005 đều khơng có khái niệm,
định nghĩa hay giải thích thế nào là “quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự” cũng
nhƣ “chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự”. Trở lại quy định về
chế định này của BLDS 199510, nhận thấy cách thể hiện cũng tƣơng tự, có nghĩa
BLDS 2005 đã kế thừa hồn tồn chế định này mà chƣa có sự “làm mới”.
Một thuật ngữ hay một quy định mang tính chất “luật hóa” để đƣợc hiểu
đúng thì một định nghĩa, khái niệm hoặc một sự giải thích làm kim chỉ nam mà căn
cứ vào đó để vận dụng một cách tối ƣu nhất là điều cần thiết. Có thể khẳng định
rằng BLDS 2005 chƣa làm đƣợc điều này đối với chế định chuyển giao quyền yêu
cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự đƣợc quy định từ Điều 309 đến Điều 314.
1.1.1. Khái niệm quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự
Điều 319 Bộ luật Dân sự năm 1995: Chuyển giao quyền yêu cầu
“1- Ngƣời có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự có thể chuyển giao quyền yêu cầu đó cho ngƣời khác
(gọi là ngƣời thế quyền) thông qua hợp đồng, trừ những trƣờng hợp sau đây:
a) Quyền yêu cầu gắn liền với nhân thân ngƣời có quyền, kể cả yêu cầu cấp dƣỡng, yêu cầu bồi thƣờng thiệt
hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín;
b) Các bên có thoả thuận khơng đƣợc chuyển giao quyền yêu cầu;
c) Những trƣờng hợp khác mà pháp luật có quy định khơng đƣợc chuyển giao quyền u cầu.
2- Khi ngƣời có quyền yêu cầu chuyển giao quyền yêu cầu cho ngƣời thế quyền, thì ngƣời thế quyền trở
thành ngƣời có quyền yêu cầu.
Ngƣời chuyển giao quyền phải báo cho ngƣời có nghĩa vụ biết bằng văn bản về việc chuyển giao quyền yêu
cầu. Việc chuyển giao quyền khơng cần có sự đồng ý của ngƣời có nghĩa vụ, trừ trƣờng hợp có thoả thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
10