BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THANH SƠN
BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THANH SƠN
BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự. Mã số 60380104
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Vũ Đức Trung
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam” là
cơng trình nghiên cứu khoa học do chính bản thân tơi thực hiện.
Các số liệu, dữ liệu và một số kiến thức của các tác giả khác trong luận
văn này được sử dụng trung thực, có dẫn chứng, tham chiếu đầy đủ nguồn theo
quy định của một cơng trình khoa học. Kết quả nghiên cứu được trình bày trong
luận văn này chưa từng được cơng bố trong bất kỳ cơng trình khoa học nào khác.
Người cam đoan
Nguyễn Thanh Sơn
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. BLHS
: Bộ Luật hình sự
2. BLTTHS
: Bộ Luật Tố tụng hình sự
3. TAND
: Tịa án nhân dân
4. TANDTC
5. TTHS
6. VKSND
7. VKSNDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
: Tố tụng hình sự
: Viện Kiểm sát nhân dân
: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM
7
1.1. Nhận thức chung về bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam
7
1.1.1. Khái niệm bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam
7
1.1.2. Cơ sở lý luận của chế định bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam
9
1.1.3. Vị trí của bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam
15
1.2. Các nguyên tắc của Tố tụng hình sự và chế định bị cáo trong Tố tụng
hình sự Việt Nam
19
1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi cơng dân trước pháp
luật và chế định bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam
1.2.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo và chế định bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam
1.2.3. Ngun tắc khơng ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của
Tịa án đã có hiệu lực pháp luật và chế định bị cáo trong Tố tụng
hình sự Việt Nam
1.2.4. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tịa án và chế định bị
19
21
22
cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam
1.2.5. Ngun tắc tơn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân và
chế định bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam
25
1.3. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của chế định bị cáo trong
pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam
27
1.3.1. Chế định bị cáo trong pháp luật Tố tụng hình sự từ năm 1945 đến
trước khi pháp điển hố Luật Tố tụng hình sự
27
23
1.3.2. Chế định bị cáo trong pháp luật Tố tụng hình sự sau khi pháp điển hóa
Luật Tố tụng hình sự
35
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BỊ CÁO
VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỊ CÁO TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
38
2.1. Thực trạng quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự 2003 về bị cáo
38
2.2. Thực trạng áp dụng các quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự 2003
về bị cáo
50
2.2.1. Thực trạng áp dụng các quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự 2003
về xác định tư cách bị cáo
2.2.2. Thực trạng áp dụng các quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự 2003
về áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo
50
2.3. Định hướng hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự về bị cáo
61
53
2.3.1. Tinh thần cải cách tư pháp về vấn đề hoàn thiện chế định bị cáo trong
Tố tụng hình sự Việt Nam
2.3.2. Kiến nghị hồn thiện pháp luật Tố tụng hình sự về chế định bị cáo
2.3.3. Giải pháp khác nâng cao hiệu quả thực hiện các quyền và nghĩa vụ
tố tụng của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự
Kết luận
61
65
70
77
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những người tham gia tố tụng được quy định tại Chương IV Bộ
Luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì bị cáo được coi là trung tâm của hoạt động
xét xử của Tòa án bởi vì họ là người bị buộc tội mà những người tiến hành tố
tụng và những người tham gia tố tụng khác đều hướng tới trong quá trình xét
xử nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án.
Là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự do đó về mặt pháp lý bị
cáo bị hạn chế một số quyền công dân, chỉ được hưởng một số quyền tố tụng
và thực hiện các nghĩa vụ tố tụng do pháp luật quy định trong những điều kiện
nhất định nên khi áp dụng các quy định, biện pháp, chế tài trong tố tụng hình
sự, các chủ thể tiến hành tố tụng có thể lạm quyền và rất dễ làm ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo.
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng nói
chung và bị cáo nói riêng là một trong những nội dung quan trọng trong định
hướng cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật Tố tụng hình sự hiện
nay. Đây là vấn đề quan trọng luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan
tâm. Việc bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động tố tụng không chỉ bằng
những quy định trong pháp luật hoặc trong một số chính sách mà bằng cả một
hệ thống các thể chế. Quyền của bị cáo đã được pháp luật Hình sự và Tố tụng
hình sự nước ta ghi nhận và bảo đảm thực hiện trong thực tiễn.
Tuy nhiên, trong thời gian qua tại khơng ít phiên Tịa hoạt động xét xử
một số quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo bị vi phạm nghiêm trọng dẫn đến
oan, sai gây nên sự bất bình trong dư luận xã hội, tình trạng này đang diễn
biến phức tạp làm ảnh hưởng tiêu cực đến quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân. Hoạt động của một số cơ quan, người tiến hành tố tụng không đúng quy
định của pháp luật không chỉ gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của
cơng dân mà cịn làm ảnh hưởng đến uy tín của Nhà nước, làm suy giảm lòng
tin của nhân dân vào chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề thời sự cấp bách
cần được nghiên cứu bởi vì bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động tố tụng
2
sẽ bảo đảm được dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, góp phần
xây dựng thành cơng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân
và vì dân.
Thực tế việc vi phạm trên bắt nguồn từ vấn đề một số quy định của
pháp luật Tố tụng hình sự về chế định bị cáo cịn có một số bất cập trong quy
định của pháp luật Tố tụng hình sự cũng như vướng mắc thực tiễn áp dụng
pháp luật các quy định đó. Hơn nữa trong hoạt động tố tụng chưa có sự nhận
thức và áp dụng thống nhất trong các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến
hành tố tụng.
Vì vậy có thể nói việc nghiên cứu những quy định của pháp luật về bị
cáo trong tố tụng hình sự để tìm ra những hạn chế, thiếu sót trong quy định
hiện hành và thực tiễn áp dụng để từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm
hoàn thiện các quy định pháp luật về chế định bị cáo trong tố tụng hình sự là
vấn đề thực sự mang tính cấp thiết, khơng những về mặt lý luận mà còn là đòi
hỏi thực tiễn trong giai đoạn hiện nay.
Với những lý do trên, học viên chọn nghiên cứu đề tài: “Bị cáo trong Tố
tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp Cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự đã có nhiều cơng
trình, đề tài khoa học nghiên cứu về bị cáo được nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu như:
- Luận án Tiến sĩ: “Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Lại Văn Trình, nội
dung nghiên cứu chủ yếu về việc bảo đảm, cơ chế bảo đảm, các biện pháp bảo
đảm quyền con người đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng
hình sự từ góc độ lập pháp cũng như áp dụng pháp luật;
- Luận văn Thạc sỹ: “Bảo đảm quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tiến Đạt, nội dung
nghiên cứu chủ yếu về quyền con người, quyền công dân, mối quan hệ giữa
quyền con người, quyền công dân của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong
hoạt động tố tụng và việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công
3
dân của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong hoạt động tố tụng hình sự Việt
Nam trên cơ sở so sánh với pháp luật một số nước;
- Luận văn Thạc sỹ: “Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thanh
Hồng, nội dung nghiên cứu chủ yếu về quyền bào chữa và việc đảm bảo
quyền bào chữa đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố
tụng hình sự;
- Luận văn Thạc sỹ: “Bảo vệ quyền, lợi ích của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo chưa thành niên trong Tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả
Phạm Thao, nội dung nghiên cứu chủ yếu về việc bảo vệ các quyền, lợi ích
hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm
tội trong tố tụng hình sự;
- Luận văn Thạc sỹ: “Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là
người chưa thành niên trong tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam” của tác
giả Nguyễn Hữu Thế Trạch, nội dung nghiên cứu chủ yếu về việc bảo đảm
quyền bào chữa đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội trong
các giai đoạn tố tụng hình sự v.v...
Các cơng trình khoa học trên ở các mức độ khác nhau tập trung đề cập
đến vấn đề bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo trong các giai đoạn tố tụng như quyền con người, quyền bào chữa v.v…
Một số cơng trình do phạm vi nghiên cứu q rộng nên các tác giả chỉ nghiên
cứu tương đối sơ lược một số nội dung bảo đảm quyền đối với người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo trong từng giai đoạn tố tụng là chính mà chưa đi sâu vào
nghiên cứu thật đầy đủ, tồn diện, có hệ thống trong tố tụng hình sự việc bảo
đảm các quyền tố tụng đối với từng đối tượng cụ thể. Một số công trình khác
các tác giả chỉ tập trung đi sâu vào nghiên cứu việc bảo vệ một số quyền cụ
thể như quyền bào chữa đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Đánh giá chung về các cơng trình khoa học đã được cơng bố có nội
dung đề cập đến bị cáo trong tố tụng hình sự mà học viên được tiếp cận, thấy
rằng hiện nay chưa có cơng trình khoa học chuyên sâu nghiên cứu có hệ thống
các vấn đề bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong giai đoạn xét xử.
4
Nhiều vấn đề lý luận quan trọng về địa vị pháp lý của bị cáo cũng như quy
định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong hoạt động xét xử đã
được đề cập ở mức độ nhất định nhưng vẫn cịn thiếu đồng bộ, thiếu thống
nhất. Vì vậy nó đã để lại một khoảng trống trong khoa học pháp lý hình sự
hiện nay cần phải tiếp tục hồn thiện.
3. Mục đích, nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về bị cáo trong tố
tụng hình sự, phát hiện những bất cập trong quy định của pháp luật Tố tụng
hình sự và vướng mắc trong thực tiễn áp dụng sẽ đưa ra những kiến nghị hồn
thiện pháp luật Tố tụng hình sự về chế định bị cáo và đề xuất một số giải pháp
nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự về chế
định bị cáo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để quá trình nghiên cứu đạt được mục đích nêu trên, tác giả tập trung
thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về bị cáo trong tố tụng hình sự.
- Nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật về bị cáo và thực
tiễn áp dụng các quy định của pháp luật.
- Kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ Luật
Tố tụng hình sự về bị cáo.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật Tố
tụng hình sự Việt Nam hiện hành về chế định bị cáo và thực tiễn áp dụng các
quy định này trong những năm gần đây.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Về lý luận, luận văn nghiên cứu đề tài dưới góc độ tố tụng hình sự làm
sáng tỏ những vấn đề chung của bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam. Về
thực tiễn, luận văn nghiên cứu hoạt động áp dụng các quy định của pháp luật
Tố tụng hình sự về chế định bị cáo trong 05 năm gần đây.
5
Luận văn nghiên cứu chế định bị cáo trong lĩnh vực Tố tụng hình sự
Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành nhiệm vụ đặt ra cho đề tài, trong quá trình thực hiện học
viên dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lê Nin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về chính sách hình sự
cải cách tư pháp.
Bên cạnh đó học viên sử dụng phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp phân tích, so sánh, chứng minh học viên dùng để làm rõ
về mặt lý luận nhằm thống nhất nhận thức;
- Phương pháp lịch sử học viên vận dụng nhằm phân tích, đánh giá sự
kế thừa và phát triển;
- Phương pháp thống kê, tham khảo ý kiến chuyên gia về thực tiễn áp
dụng pháp luật từ đó đánh giá nó;
- Phương pháp tổng hợp những kết quả nghiên cứu để đưa ra những
kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chế
định bị cáo.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Trên cơ sở làm sáng tỏ những quy định của pháp luật về bị cáo trong
thực tiễn xét xử vụ án hình sự, luận văn chỉ ra những bất cập cũng như những
hạn chế trong việc áp dụng pháp luật qua đó đưa ra phương hướng hồn thiện
chế định bị cáo trong pháp luật Tố tụng hình sự.
Sự nghiên cứu đối với luận văn góp phần nâng cao nhận thức, trách
nhiệm và giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng có cách nhìn khách quan,
tồn diện về tính cấp thiết và tầm quan trọng của vấn đề bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của bị cáo.
Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong giảng
dạy, học tập về pháp luật Tố tụng hình sự và góp phần nhất định giúp các nhà
hoạt động thực tiễn nâng cao hiệu quả áp dụng chế định bị cáo trong thực tiễn.
6
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
02 chương, có kết cấu như sau:
Chương 1. Những vấn đề chung về bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt
Nam
Chương 2. Thực trạng pháp luật Tố tụng hình sự về bị cáo và định
hướng hoàn thiện chế định bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam
7
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BỊ CÁO
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Nhận thức chung về bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam
Khi đề cập đến bất cứ vấn đề nào, một yêu cầu cần thiết của người
nghiên cứu là phải tìm hiểu khái niệm của vấn đề mà mình nghiên cứu. Theo
logic thơng thường, trước khi tìm hiểu các quy định hiện hành về bị cáo, cơ sở
lý luận của những quy định đó và các vấn đề có liên quan, chúng ta cần phải
làm sáng tỏ thuật ngữ bị cáo. Và chỉ sau khi hiểu rõ khái niệm bị cáo thì
chúng ta mới có thể tiến hành nghiên cứu về chế định bị cáo trong TTHS.
Về mặt ngôn ngữ, bị cáo là một danh từ chứa đựng hai thành tố: “bị” và
“cáo”. Việc làm rõ các thành tố này sẽ giúp ta hình thành được định nghĩa về
bị cáo. Thành tố thứ nhất trong thuật ngữ mà chúng ta đang xem xét là từ
“bị”. Theo Từ điển Ngôn ngữ học Việt Nam từ “bị” được sử dụng khá phổ
biến trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày “biểu thị chủ thể là đối tượng tiếp
thu hành động khơng hay, khơng có lợi cho mình”1. Động từ này diễn đạt sự
thụ động của chủ thể mà nó bổ nghĩa. Hay nói một cách ngắn gọn như Giáo
sư Nguyễn Kim Thản, “bị” là một động từ hàm chứa nội dung là “chủ thể
mắc phải …”2. Còn từ “cáo” trong thuật ngữ này là một danh từ có nghĩa là
“tố, kiện”3. Danh từ này diễn đạt sự chủ động của chủ thể mà nó tác động,
hàm chứa nội dung một sự cáo buộc, kiện cáo hay có liên quan đến kiện tụng.
Từ những phân tích trên ta có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng bị cáo
là một con người cụ thể trong xã hội bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tình
nghi là tội phạm và cáo buộc ra trước pháp luật. Sự cáo buộc này tác động
tiêu cực đối với bị cáo và họ phải tiếp nhận nó một cách thụ động. Theo cách
hiểu này thì bị cáo là“người bị tố cáo là phạm tội và được đưa ra xét xử trước
Tòa”4.
1
Nguyễn Như Ý (1998), Từ điển Ngôn ngữ học Việt Nam, NXB Văn hóa-thơng tin, Hà Nội, tr. 113.
Nguyễn Kim Thản (1999), Động từ trong tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 196.
3
Nguyễn Như Ý (1998), Từ điển Ngơn ngữ học Việt Nam, NXB Văn hóa-thơng tin, Hà Nội, tr. 195.
4
Nguyễn Như Ý (2011), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Đại học Quốc gia Tp.HCM, Thành phố Hồ Chí Minh,
tr. 195.
2
8
Về mặt pháp lý, thuật ngữ bị cáo được quy định cụ thể hơn so với cách
hiểu trên. Trước khi BLTTHS được ban hành, thuật ngữ bị cáo được sử dụng
trong nhiều sắc lệnh về tổ chức các cơ quan tư pháp do Chủ tịch nước Việt
Nam Dân chủ cộng hòa ký từ năm 1945. Tuy nhiên chỉ đến năm 1974, trong
bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự kèm theo Thơng tư số
16/TATC ngày 27 tháng 9 năm 1974 của TANDTC mới đưa ra định nghĩa
pháp lý về khái niệm bị cáo. Theo đó “Bị cáo là người bị truy cứu trách
nhiệm hình sự trước Tòa án nhân dân. Trong giai đoạn xét xử Tòa án nhân
dân chỉ được đưa một người ra xét xử với tư cách bị cáo nếu Viện Kiểm sát
nhân dân đã truy tố người đó trước Tịa án nhân dân, nếu Viện Kiểm sát nhân
dân khơng truy tố thì Tịa án nhân dân khơng được xét xử một người với tư
cách là bị cáo trừ những người mà Tòa án nhân dân xét xử về những việc
hình sự nhẹ”5. Như vậy, khái niệm bị cáo tại thời điểm này được dùng để chỉ
một người bị VKSND truy tố ra trước TAND, tức là từ khi có bản cáo trạng
của VKSND. Trong BLTTHS năm 1988 thì khái niệm bị cáo được quy định
cụ thể tại điều 34. Và hiện nay khái niệm bị cáo được quy định tại điều 50
BLTTHS năm 2003. Theo quy định tại khoản 1, điều 50 BLTTHS năm 2003
thì “Bị cáo là người đã bị Tịa án quyết định đưa ra xét xử”6. Như vậy theo
quy định này, khái niệm bị cáo để chỉ một người bị TAND đưa ra xét xử, tức
là từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử của TAND. Theo quy định của
pháp luật TTHS hiện hành thì chỉ những người bị TAND đưa ra xét xử mới
gọi là bị cáo, cịn những người tuy có hành vi phạm tội, đã bị VKSND truy tố
nhưng chưa bị TAND quyết định đưa ra xét xử thì khơng được gọi là bị cáo7.
Một người sẽ trở thành bị cáo khi bị TAND quyết định đưa ra xét xử. Tuy
nhiên không phải bất cứ người nào bị TAND đưa ra xét xử đều có tội cho nên
khái niệm bị cáo khơng đồng nghĩa với khái niệm người có tội8. Đây là vấn đề
có tính ngun tắc bởi vì trên thực tế bị cáo có thể khơng là chủ thể của tội
5
Xem: Thơng tư số 16/TATC ngày 27 tháng 9 năm 1974 của Tịa án nhân dân tối cao hướng dẫn về trình tự
tố tụng sơ thẩm về hình sự.
6
Xem: Điều 50 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
7
Võ Khánh Vinh (2004), Bình luận khoa học Bộ Luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003, NXB Công an
nhân dân, Hà Nội, tr. 72.
8
Đại học Luật Tp.HCM (2010), Tập bài giảng Luật Tố tụng hình sự, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 100.
9
phạm và ngược lại, vì vậy khơng thể coi bị cáo là người có tội. Như chúng ta
biết, đối với một người việc xác định là có tội và kéo theo là họ phải chấp
hành hình phạt sẽ gây ra hậu quả rất nghiêm trọng đối với họ về nhiều mặt
như: tính mạng, sức khoẻ, danh dự, tài sản, tình cảm gia đình… cho nên pháp
luật TTHS đã quy định: “Khơng ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi
chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật”9. Việc xét xử và
tun một người có tội hay khơng có tội là quyền của TAND và chỉ đến lúc
bản án kết tội của TAND có hiệu lực pháp luật thì người đó mới được xem là
có tội10.
1.1.2. Cơ sở lý luận của chế định bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam
Việc ban hành một đạo luật, một chế định luật hay một quy phạm pháp
pháp luật đều xuất phát từ những cơ sở lý luận và nhu cầu thực tiễn khách
quan. Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng vì vậy nó phải được
xây dựng dựa trên những nền tảng thiết yếu của cơ sở hạ tầng. Mặt khác pháp
luật cịn là cơng cụ để Nhà nước điều chỉnh và quản lý xã hội, do đó pháp luật
phải thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, thể hiện bản chất Nhà nước. Hơn
nữa mỗi lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội có những đặc thù riêng nên ý
chí Nhà nước cũng thể hiện một cách khác nhau qua các văn bản pháp luật
điều chỉnh lĩnh vực đó. Pháp luật TTHS nói chung, chế định bị cáo nói riêng
ra đời và phát triển cũng khơng nằm ngoài những quy luật trên. Cơ sở lý luận
của chế định bị cáo trong TTHS Việt Nam thể hiện qua các luận điểm sau:
Thứ nhất, chế định bị cáo thể hiện bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
Có thể nói tư tưởng về Nhà nước pháp quyền được hình thành từ rất
lâu, cách đây hơn hai nghìn năm. Khái niệm về một nhà Nước pháp quyền đã
được các nhà nghiên cứu như Praton (năm 427-374 trước công nguyên),
Aristote (năm 384-322 trước công nguyên), Cirereon (năm 106-43 trước công
nguyên), Locke (năm 1632-1704 sau công nguyên), Montesquieu (1698 –
1755)… đưa ra dưới nhiều góc độ khác nhau về tư tưởng Nhà nước pháp
quyền. Về cơ bản các tư tưởng đều thể hiện quan điểm chung rằng Nhà nước
9
Xem: Điều 9 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2003.
Đinh Văn Quế (2002), “Bị cáo hay người bị kết án”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số (11), tr. 25-27.
10
10
pháp quyền là một chế độ chính trị mà ở đó Nhà nước và cá nhân phải tuân
thủ pháp luật, mọi quyền và nghĩa vụ của tất cả, của mỗi người được pháp
luật ghi nhận và bảo vệ. Nói đến tư tưởng Nhà nước pháp quyền thường nói
đến hai bộ phận chính: sự hiện diện của một tổ chức cơng quyền và nó phải
dựa trên nền tảng pháp luật để duy trì cơng quyền. Pháp luật được cơng quyền
thừa nhận, sử dụng như một phương thức cai trị, quản lý có giá trị phổ biến và
có hiệu lực bắt buộc. Pháp luật là một phương thức tổ chức và hoạt động của
quyền lực chính trị và những mối quan hệ qua lại giữa nó với các cá nhân
trong xã hội. Nhà nước ban hành pháp luật, song không phải Nhà nước đứng
trên pháp luật. Ngược lại Nhà nước phải tuân thủ pháp luật trong tồn bộ hoạt
động của mình.
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã chủ trương xây dựng Nhà nước
pháp quyền với nội dung cơ bản là xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì
dân, Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật, có sự phân công, phân cấp rõ
ràng giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà
nước pháp quyền là một mơ hình Nhà nước tiến bộ, ở đó pháp luật là thước
đo, là chuẩn mực cho mọi hoạt động của người dân và dựa vào pháp luật
người dân được bảo vệ các quyền và tự do hợp pháp, được tạo điều kiện phát
huy quyền làm chủ của mình11. Tại điều 2 Hiến pháp 1992 đã khẳng định bản
chất Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Mục tiêu
của Nhà nước là không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân
dân, nghiêm trị mọi hành vi xâm phạm đến tổ quốc và nhân dân. Thấu suốt tư
tưởng này, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ
Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới” được ban hành nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động tư pháp, thực
hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nghị quyết đề cao trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp, phát huy
dân chủ, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được tôn trọng
cụ thể: “Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi cơng dân đều bình
11
Tường Duy Kiên (2004), “Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc đảm bảo quyền con
người”, Tạp chí nghề luật, số (08), tr. 17-18.
11
đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; thẩm phán và hội thẩm
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ
chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên Tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn
diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân
chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra
những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời
hạn quy định”. Để đạt được mục đích trên đòi hỏi Nhà nước ta phải xây dựng
được các điều kiện cần thiết trong đó phải kể đến việc xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là pháp luật TTHS. Các quy
phạm pháp luật về chế định bị cáo phải thể hiện được bản chất của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân trong
hoạt động tố tụng được Nhà nước tôn trọng và bảo đảm thực hiện, mọi hoạt
động tố tụng phải tuân thủ theo đúng trình tự pháp luật, người dân được tạo
điều kiện tham gia vào hoạt động tố tụng góp phần tìm ra sự thật khách quan
của vụ án.
Thứ hai, chế định bị cáo được xây dựng dựa trên yêu cầu bảo vệ quyền con
người trong Tố tụng hình sự
Quyền con người là một quyền thiêng liêng và đặc biệt quan trọng đối
với sự tồn tại và phát triển của con người, là kết quả của quá trình con người
thực hiện cải tạo tự nhiên và xã hội, được hình thành và phát triển cùng với
lịch sử phát triển của lồi người. Quyền con người chứa đựng hai thuộc tính:
thuộc tính tự nhiên và thuộc tính xã hội. Thuộc tính tự nhiên thể hiện ở chỗ
khi con người sinh ra thì quyền này đã gắn liền với con người một cách tự
nhiên, tức con người hiển nhiên có được quyền này do sự tồn tại của mình
như quyền được sống, quyền được tự do (quyền tự do ngôn luận, quyền tự do
tín ngưỡng, quyền tự do lập hội), quyền được mưu cầu hạnh phúc, quyền
được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật. Nhưng để các quyền này trở thành
một quyền trong thực tế hay nói khác đi là để có được thuộc tính xã hội thì
quyền này phải được xã hội thừa nhận. Việc xã hội thừa nhận quyền con
người chính là việc Nhà nước nơi mà người đó sinh ra và đang sống ghi nhận
và đảm bảo quyền con người bằng các quy định của pháp luật.
12
Việt Nam là quốc gia theo chế độ xã hội chủ nghĩa, chế độ mà đại bộ
phận quần chúng nhân dân làm chủ thì pháp luật là sự thể hiện ý chí chung
của tồn xã hội nên tư tưởng về quyền con người cũng như mong muốn ghi
nhận và đảm bảo quyền con người bằng pháp luật luôn được xác định là tư
tưởng chung của toàn thể nhân dân Việt Nam. Tư tưởng này đã được thể hiện
một cách nhất quán trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã
khẳng định: “Nếu được độc lập, ở Việt Nam sẽ thực hiện một nền hiến pháp
về phương diện chính trị và xã hội theo lý tưởng dân quyền, một nền hiến
pháp chú trọng và bảo vệ quyền lợi của thợ thuyền”12. Trong Tuyên ngôn độc
lập năm 1945, Người đã nhấn mạnh quyền con người là quyền tự nhiên mà
bất kể ai cũng có quyền được hưởng, ai cũng đương nhiên cần có. Kế thừa tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận cho công
dân Việt Nam những quyền cơ bản về con người, quyền công dân. Trải qua ba
lần sửa đổi Hiến pháp (năm 1959, năm 1980 và năm 1992) các quy định về
quyền con người một lần nữa được Nhà nước ta ghi nhận, kế thừa và có sự
mở rộng nhằm đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền của công dân.
Con người khi sinh ra ai cũng có quyền được sống trong mơi trường an
tồn trong đó có sự an tồn về pháp lý. Sẽ là một xã hội bất công và quyền
con người bị xâm phạm nếu người dân luôn cảm thấy bất an bởi cảm giác có
thể bị đưa vào vòng quay của hoạt động TTHS bất cứ lúc nào. Quyền con
người là một lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp và vấn đề này hiện nay đang rất
được quan tâm khơng chỉ trong phạm vi quốc gia mà cịn trên toàn thế giới, ở
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đặc biệt là trong lĩnh vực TTHS. Đảng
và Nhà nước ta xác định quyền con người ln là vấn đề trọng tâm trong
TTHS, vì thế mà Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về
“Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị
quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020” là tôn trọng và bảo vệ hiệu quả quyền con người nói
chung, quyền tự do, dân chủ, bình đẳng của người tham gia tố tụng nói riêng.
12
Trần Ngọc Đường (2004), Bàn về quyền con người, quyền công dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.
102.
13
Như chúng ta biết, trong những người tham gia tố tụng thì bị cáo là
người có vị trí pháp lý được xem là bất lợi nhất bởi các hoạt động tố tụng đều
hướng vào việc chứng minh bị cáo là có phạm tội hay khơng. Theo quy định
của pháp luật bị cáo chưa bị coi là người có tội vì vậy họ vẫn được cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đảm bảo và bảo vệ các quyền cơng
dân mà pháp luật trao cho mình 13. Tuy nhiên trên thực tế không phải lúc nào
các quyền của họ cũng được bảo đảm một cách tuyệt đối, sự vi phạm các
quyền cơ bản mà pháp luật tố tụng trao cho bị cáo như: quyền bình đẳng trước
pháp luật, quyền được tôn trọng danh dự và nhân phẩm, quyền tự bào chữa
hoặc nhờ người khác bào chữa, quyền được trình bày ý kiến, tranh luận tại
phiên Tịa… diễn ra một cách thường xuyên đã chứng minh rằng vấn đề bảo
vệ quyền con người là một vấn đề cấp thiết trong hoạt động TTHS. Một trong
những nguy cơ xâm phạm đến quyền con người một cách dễ dàng và để lại
hậu quả khơng kém phần nghiêm trọng đó là sự xâm phạm của chính các cơ
quan tiến hành tố tụng với ưu thế công quyền trước người bị buộc tội14. Hơn
ai hết bị cáo là người có nguy cơ cao bị hạn chế một hoặc một số quyền cá
nhân khi tham gia vào hoạt động tố tụng và đây chính là cơ sở của việc lợi
dụng các quy định của pháp luật để xâm phạm đến quyền con người của bị
cáo nhằm nhanh chóng kết thúc vụ án một cách tiêu cực. Vì thế có thể thấy
được quyền con người của bị cáo luôn đối mặt với bất kỳ sự xâm phạm nào
và bất cứ lúc nào. Đây chính là lý do BLTTHS xây dựng những cơ chế hợp lý
để bảo vệ quyền con người của bị cáo, nâng cao địa vị pháp lý của họ trong
hoạt động TTHS đồng thời quy định và đảm bảo cho bị cáo một số quyền và
nghĩa vụ nhất định để họ thực hiện trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cũng như sử dụng vào việc chứng minh sự vô tội hay làm giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của mình hay nói khác đi pháp luật TTHS quy định cho bị cáo
một địa vị pháp lý hoàn chỉnh khi họ tham gia vào quá trình tố tụng 15.
13
Trần Ngọc Đường (2006), Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 58.
14
Phạm Hồng Hải (1998), “Mấy suy nghĩ về vấn đề bảo vệ quyền con người trong Tố tụng hình sự Việt Nam
nước ta”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số (03), tr. 13-14.
15
Uông Chu Lưu (2003), Bộ Luật Tố tụng hình sự mới – Bộ luật của tiến trình dân chủ, bình đẳng, bảo vệ
quyền con người, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr. 75.
14
Thứ ba, các quy định về bị cáo phải đáp ứng yêu cầu của đấu tranh phòng
chống tội phạm trong khía cạnh xác định sự thật khách quan, phát hiện chính xác,
nhanh chóng tội phạm và người phạm tội
Việc xác định sự thật khách quan của vụ án vừa là nội dung bản chất
của hoạt động tố tụng đồng thời lại vừa là cái đích mà hoạt động đó hướng
tới. Hay nói cách khác hoạt động TTHS là hoạt động tìm kiếm, tiếp cận chân
lý. Mục đích cuối cùng của hoạt động TTHS là phát hiện nhanh chóng, chính
xác và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, tạo cơ sở pháp lý
vững chắc cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Hoạt động này đạt
hiệu quả tốt hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó sự tham gia tố
tụng của bị cáo có mức độ ảnh hưởng nhất định tới việc giải quyết vụ án16.
Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cho thấy khi nhận được tin
báo có tội phạm xảy ra, cơ quan có thẩm quyền chưa thể biết ngay ai là người
đã thực hiện hành vi phạm tội và hành vi phạm tội đó đã xảy ra như thế nào.
Sau khi tiến hành khởi tố vụ án hình sự, áp dụng các biện pháp điều tra cần
thiết để thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, cơ quan điều tra mới có thể xác
định được diễn biến tội phạm và người phạm tội. Mỗi tội phạm xảy ra bao giờ
cũng để lại những dấu vết nhất định trong thế giới khách quan. Đó có thể là
những dấu vết vật chất hoặc dấu vết phi vật chất. Những dấu vết này được
xem là nguồn của chứng cứ, là sự phản ánh những mặt riêng lẻ của sự kiện
phạm tội. Các cơ quan tiến hành tố tụng dựa vào những dấu vết, tài liệu thực
tế đó có thể hình dung được sự kiện phạm tội. Có thể nói trong những người
tham gia tố tụng thì bị cáo là người nắm nhiều thơng tin đầy đủ nhất về tội
phạm bởi vì họ là người biết chính xác mình có thực hiện hành vi phạm tội
hay khơng. Do đó việc tham gia tố tụng của bị cáo là rất có ý nghĩa, khơng chỉ
cung cấp cho cơ quan tiến hành tố tụng lời khai mà còn các nguồn chứng cứ
quan trọng khác. Lời khai của bị cáo có mức độ ảnh hưởng nhất định đến tiến
trình giải quyết vụ án, nó giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng rất nhiều trong
việc định hướng điều tra ban đầu và các hoạt động tố tụng tiếp theo nhằm tìm
ra sự thật khách quan của vụ án. Chính vì thế sự hợp tác của bị cáo với cơ
16
Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Cơng an nhân dân, Hà Nội,
tr. 44.
15
quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án có ý nghĩa quan trọng
trong việc phát hiện nhanh chóng, chính xác tội phạm và người phạm tội.
u cầu phát hiện nhanh chóng, xử lý kịp thời, chính xác tội phạm và
người phạm tội là mục tiêu mà các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải đạt đến,
trong khi xu hướng của người phạm tội là che dấu tội phạm để qua mặt cơ
quan tiến hành tố tụng nên họ luôn khai báo không đúng sự thật của vụ án
hoặc khai báo quanh co. Điều này gây trở ngại nhất định đối với cơng tác đấu
tranh phịng chống tội phạm nhất là trong tình hình hiện nay khi tội phạm
ngày càng được thực hiện một cách tinh vi, phức tạp và xảo quyệt. Để khắc
phục tình trạng trên, đáp ứng yêu cầu đặt ra của công tác đấu tranh với tình
hình tội phạm, BLTTHS quy định việc tham gia tố tụng của bị cáo vừa là
quyền vừa là nghĩa vụ. Việc quy định như vậy được xem là một biện pháp
phát huy tính tích cực, chủ động của chủ thể này nhằm đạt được mục đích của
TTHS là phát hiện nhanh chóng, chính xác tội phạm và người phạm tội.
1.1.3. Vị trí của bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam
Cơng dân khi tham gia vào các quan hệ pháp luật TTHS thì tuỳ thuộc
vào vị trí của họ đối với quan hệ đó như thế nào mà pháp luật TTHS quy định
cho họ những quyền và nghĩa vụ nhất định. Mục đích của việc quy định
quyền là để cho các chủ thể tố tụng có phương tiện để bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của mình, quy định nghĩa vụ là để cho các chủ thể phải thực
hiện một số hành vi nhất định đảm bảo cho hoạt động TTHS được tiến hành
thuận lợi cũng như đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tố tụng
khác. Như vậy việc xác định đúng vị trí của một chủ thể trong quan hệ pháp
luật TTHS là rất quan trọng bởi đó chính là cơ sở để xác định đúng và đầy đủ
quyền và nghĩa vụ tố tụng của chủ thể đó. Ngược lại việc xác định khơng
đúng vị trí của các chủ thể tố tụng thì sẽ xác định khơng đúng, khơng đầy đủ
quyền và nghĩa vụ của chủ thể đó và dẫn đến là quyền và nghĩa vụ của họ
không được đảm bảo.
Có thể khẳng định rằng trong các chủ thể tham gia tố tụng thì bị cáo là
người có một vị trí khá đặc biệt quan trọng, là chủ thể trung tâm của mọi hoạt
động mà cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hướng tới bởi họ
16
là người bị tình nghi phạm tội, nắm nhiều thơng tin chính xác về tội phạm nên
các hoạt động của các chủ thể trên đều xoáy vào bị cáo nhằm xác định có hay
khơng có hành vi phạm tội, mức độ lỗi của họ trong vụ án như thế nào, trách
nhiệm của họ trong vụ án đến đâu. Có một vị trí đặc biệt trong TTHS như vậy,
bị cáo sẽ có vai trị nhất định khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS thể
hiện ở chỗ bị cáo là chủ thể của quan hệ pháp luật TTHS; bị cáo tham gia tố
tụng nhằm chống lại sự buộc tội của các chủ thể tiến hành tố tụng; bị cáo
đóng vai trò quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan.
Bị cáo là chủ thể của quan hệ pháp luật Tố tụng hình sự
Một trong những đặc trưng cơ bản của quan hệ pháp luật là tính xác
định của cơ cấu chủ thể. Nhà nước khi cần tác động vào những quan hệ xã hội
nhất định thường xác định rõ ai, trong điều kiện, hồn cảnh nào có thể tham
gia vào quan hệ đó. Tuỳ thuộc vào mỗi ngành luật điều chỉnh mà có cơ cấu
chủ thể khác nhau. Luật TTHS điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử nhằm mục đích xử lý tội phạm và người
phạm tội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của cơng dân. Thành phần tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS gồm có cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
Theo quy định tại Chương IV BLTTHS năm 2003 thì bị cáo là một trong
những người tham gia tố tụng, họ là chủ thể của quan hệ pháp luật TTHS17.
Pháp luật TTHS đã quy định cho bị cáo những quyền và nghĩa vụ riêng biệt
so với các chủ thể khác để họ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Trong quá trình tham gia tố tụng giữa bị cáo và các chủ thể khác phát sinh
những mối quan hệ nhất định được pháp luật TTHS điều chỉnh:
Trong quan hệ với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng:
như chúng ta biết bị cáo là một trong những người tham gia tố tụng có vị trí
pháp lý được xem là bất lợi nhất bởi các hoạt động tố tụng đều hướng vào
việc chứng minh là họ có phạm tội hay khơng phạm tội. Do đó bị cáo được
coi là nhân vật trung tâm của hoạt động tố tụng do các cơ quan tiến hành tố
17
Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Cơng an nhân dân, Hà Nội,
tr. 49.
17
tụng và người tiến hành tố tụng chính thức tiến hành, bị cáo phải tuân thủ
mệnh lệnh do các chủ thể này ban hành trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự. Nếu những chủ thể này có những quyết định tố tụng, hành vi tố tụng vượt
quá thẩm quyền luật định thì bị cáo có quyền khiếu nại theo quy định của
pháp luật. Ngoài ra pháp luật TTHS cũng quy định bị cáo có quyền yêu cầu
các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng thực hiện một số
hoạt động tố tụng nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nhờ
những quy định về quyền và nghĩa vụ mà bị cáo biết mình được làm gì và làm
ra sao để có thể chủ động hơn trong khi tham gia tố tụng và tạo được ý thức
pháp luật.
Trong quan hệ với những người tham gia tố tụng khác như quan hệ giữa
bị cáo với người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan đến vụ án về bản chất là quan hệ dân sự. Tuy nhiên do
có liên quan đến tội phạm nên được đưa vào giải quyết theo trình tự và thủ tục
TTHS.
Như vậy, bị cáo là một chủ thể tham gia tố tụng độc lập, có vị trí pháp
lý đặc biệt bao gồm các quyền và nghĩa vụ tố tụng trong mối quan hệ với các
chủ thể tiến hành tố tụng cũng như chủ thể tham gia tố tụng khác.
Bị cáo tham gia tố tụng nhằm chống lại sự buộc tội của các chủ thể tiến hành
buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
Giữa Nhà nước và người bị buộc tội luôn tồn tại quan hệ mà theo đó
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khi có căn cứ cho rằng
chính người bị tình nghi đã thực hiện hành vi phạm tội thì có quyền tiến hành
hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, xét xử và áp dụng các biện pháp
cưỡng chế nhà nước cần thiết đối với họ. Với tư cách là người bị buộc tội
trong giai đoạn xét xử, bị cáo luôn bị đặt trong sự nghi ngờ của Nhà nước,
ln có nguy cơ phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi từ hoạt động của các
chủ thể tiến hành buộc tội, họ có thể bị hạn chế một phần hoặc tồn bộ các
quyền và lợi ích hợp pháp của mình mặc dù vậy theo quy định của pháp luật
họ vẫn chưa bị xem là có tội và vẫn hoàn toàn được đảm bảo và bảo vệ các
quyền cơng dân mà pháp luật trao cho mình. Do đó pháp luật TTHS quy định
18
cho họ những quyền và nghĩa vụ nhất định khi tham gia vào quá trình tố tụng
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình chống lại sự xâm phạm bất
hợp pháp từ các chủ thể tiến hành tố tụng khác 18. Khi tham gia vào hoạt động
tố tụng, bị cáo ln có khuynh hướng sử dụng các quyền tố tụng mà pháp luật
trao để chứng minh cho sự vơ tội hoặc nhằm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự,
bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình khỏi những hành vi xâm phạm
của các chủ thể tiến hành buộc tội. Trong một chừng mực nhất định thì hoạt
động gỡ tội của bị cáo cịn góp phần giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Bị cáo đóng vai trị quan trọng trong xác định sự thật khách quan của vụ án
Khi giải quyết một vụ án hình sự, nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành
tố tụng và những người tiến hành tố tụng không chỉ chứng minh bị cáo có
phạm tội hay khơng phạm tội mà các cơ quan tiến hành tố tụng và những
người tiến hành tố tụng còn phải xác định cho được sự thật khách quan của vụ
án, từ đó kết luận tội phạm và người phạm tội theo quy định của BLTTHS.
Mục đích cuối cùng của cơ quan tiến hành tố tụng là tìm ra sự thật của
vụ án, trong khi xu hướng của người phạm tội là che dấu tội phạm để qua mặt
cơ quan tiến hành tố tụng vì người phạm tội luôn là người biết rõ nhất về hành
vi phạm tội nếu họ đã thực hiện nhưng do tâm lý sợ chịu trách nhiệm hình sự,
sợ chịu hình phạt… nên họ khai báo không đúng sự thật của vụ án hoặc khai
báo quanh co. Vì vậy để đấu tranh chống tội phạm đạt được hiệu quả thì mọi
hành vi phạm tội đều phải được phát hiện, tìm ra sự thật và xử lý trước pháp
luật. Để thực hiện mục đích này bên cạnh sự nỗ lực của các cơ quan tiến hành
tố tụng và những người tiến hành tố tụng thì cũng cần có sự đóng góp của
những người tham gia tố tụng trong đó có bị cáo. Thực tiễn cho thấy việc xác
định sự thật vụ án sẽ khách quan, tồn diện, đầy đủ, nhanh chóng và dễ dàng
hơn khi có sự hợp tác của những người biết về tình tiết liên quan đến vụ án
xảy ra. Bị cáo là một trong những người tham gia tố tụng có vai trị khá đặc
biệt trong việc xác định sự thật vụ án bởi hơn ai hết họ là người nắm nhiều
18
Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý (2005), Bình luận khoa học Bộ Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 56.
19
thơng tin chính xác về tội phạm, biết chính xác họ có thực hiện hành vi phạm
tội hay khơng, nếu có thì chính họ là người biết rõ động cơ, ngun nhân,
mục đích phạm tội, diễn biến và các tình tiết của vụ án19. Do đó sự tham gia
tố tụng của bị cáo giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng xác định sự thật khách
quan của vụ án một cách kịp thời, nhanh chóng, chính xác.
Từ những phân tích trên có thể nói bị cáo là người có vị trí rất quan
trọng trong q trình giải quyết vụ án hình sự, là trung tâm để mọi hành vi tố
tụng của các chủ thể tố tụng khác hướng tới với mục đích chứng minh họ có
tội hoặc khơng có tội. Với vị trí như thế thì việc họ tham gia tích cực vào hoạt
động tố tụng sẽ có ý nghĩa to lớn, vì điều đó sẽ giúp cho việc chứng minh tội
phạm được tiến hành thuận lợi và thu được những kết quả khách quan, chính
xác. Ngược lại, bị cáo không tham gia hoặc tham gia một cách thụ động vào
các hoạt động tố tụng thì việc chứng minh tội phạm sẽ gặp rất nhiều khó khăn
và trong một số trường hợp nhất định thì khơng thể thực hiện được. Vì vậy
việc tạo điều kiện cho bị cáo tham gia vào hoạt động tố tụng là việc rất cần
thiết. Có như vậy thì việc giải quyết vụ án mới đảm bảo được khách quan,
chính xác và đúng pháp luật.
1.2. Các nguyên tắc của Tố tụng hình sự và chế định bị cáo trong Tố
tụng hình sự Việt Nam
1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi cơng dân trước pháp
luật và chế định bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam
Tư tưởng về một Nhà nước mà trong đó mọi người dân đều có quyền
bình đẳng, quyền cơng dân được tôn trọng và bảo vệ luôn là động lực, mục
tiêu mà toàn Đảng toàn dân ta hướng tới để xây dựng một Nhà nước dân chủ,
tiến bộ hơn. Là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật đã cụ thể hoá
các quan điểm trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong lĩnh vực TTHS, pháp
luật TTHS thể hiện quan điểm này thành nguyên tắc hoạt động xuyên suốt
trong từng quy phạm, từng chế định luật: “Mọi cơng dân đều bình đẳng trước
pháp luật, khơng phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tơn giáo, thành phần
xã hội, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp
19
Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội,
tr. 51.