Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở việt nam thực trạng và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN SỸ ĐỨC

PHÁP LUẬT
VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN Ở VIỆT NAM
- THỰC TRẠNG VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Hoàng Hải

TP.HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt
Nam - Thực trạng và hướng hồn thiện” là cơng trình nghiên cứu của bản thân,
dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Trần Hồng Hải. Các nội dung, kết quả
trình bày trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ
cơng trình nào trước đây./.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 9 năm 2014
Tác giả

Nguyễn Sỹ Đức


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


1

An sinh xã hội

ASXH

2

Bảo hiểm xã hội

BHXH

3

Bảo hiểm y tế

BHYT

4

Bảo hiểm thất nghiệp

BHTN

5

Bảo hiểm thương mại

BHTM


6

Chỉ số giá tiêu dùng

CPI

7

Ngân hàng Thế giới

WB

8

Ngân sách nhà nước

NSNN

9

Tổ chức Lao động Quốc tế

ILO

10 Tổng sản phẩm nội địa

GDP


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài .........................................................................10
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài ..........10
5. Bố cục luận văn....................................................................................................11
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
TỰ NGUYỆN ...........................................................................................................12
1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội tự nguyện ............................................................12
1.1.1 Lịch sử hình thành bảo hiểm xã hội tự nguyện. ...............................................12
1.1.2. Định nghĩa về bảo hiểm xã hội tự nguyện ......................................................14
1.2. Đặc điểm của bảo hiểm xã hội tự nguyện ......................................................16
1.2.1. Đặc điểm của bảo hiểm xã hội tự nguyện .......................................................17
1.2.2. So sánh bảo hiểm xã hội tự nguyện với các loại hình bảo hiểm khác. ...........19
1.3. Vai trị của bảo hiểm xã hội tự nguyện ..........................................................23
1.3.1. Về phương diện kinh tế ...................................................................................23
1.3.2. Về phương diện xã hội ....................................................................................24
1.3.3. Về phương diện pháp luật ...............................................................................25
1.4. Nguyên tắc xây dựng pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện ........................25
1.4.1. Những nguyên tắc chung ................................................................................25
1.4.2. Những nguyên tắc đặc thù...............................................................................28
Kết luận chƣơng 1 ...................................................................................................30
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HIỂM XÃ
HỘI TỰ NGUYỆN ..................................................................................................31
2.1. Lịch sử phát triển của pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam
...................................................................................................................................31


2.2. Quy định của pháp luật hiện hành về bảo hiểm xã hội tự nguyện ..............32
2.2.1. Các bên trong quan hệ bảo hiểm xã hội tự nguyện ........................................32

2.2.1.1. Bên tham gia bảo hiểm .................................................................................32
2.2.1.2. Bên bảo hiểm ...............................................................................................33
2.2.1.3. Bên thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm .............................................................34
2.2.2. Các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện ...........................................................35
2.2.2.1. Chế độ hưu trí ..............................................................................................35
2.2.2.2. Chế độ tử tuất ...............................................................................................40
2.2.3. Sự liên thông giữa bảo hiểm xã hội tự nguyện và bắt buộc ...........................43
2.2.4. Quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện ......................................................................43
2.2.4.1. Nguồn hình thành quỹ ..................................................................................43
2.2.4.2. Sử dụng Quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện ....................................................45
Kết luận chƣơng 2 ...................................................................................................47
CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN Ở VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ GĨP
PHẦN HỒN THIỆN PHÁP LUẬT ....................................................................48
3.1. Tình hình thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay ....................................................................................................................48
3.1.1. Tình hình tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện ..............................................48
3.1.2. Khả năng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện ..............................................50
3.1.3. Tình hình thu chi Quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện .........................................51
3.2. Kiến nghị góp phần hồn thiện quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội
tự nguyện ..................................................................................................................52
3.2.1. Quy định về các bên tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện ............................53
3.2.1.1. Bên tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện .....................................................53
3.2.1.2. Bên bảo hiểm ................................................................................................54
3.2.1.3. Bên thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm ..............................................................55


3.2.2. Quy định về các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện ........................................56
3.2.2.1. Mở rộng các chế độ bảo hiểm xã hội ...........................................................56
3.2.2.2. Quy định về lương hưu hằng tháng với mức hưởng đầy đủ ........................58

3.2.2.3. Quy định về lương hưu hằng tháng với mức hưởng thấp hơn .....................63
3.2.2.4. Quy định về trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần ..............................................64
3.2.2.5. Quy định về chế độ tử tuất ...........................................................................65
3.2.2.6. Một số quy định khác ...................................................................................66
3.2.3. Quy định về Quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện ..................................................68
3.2.3.1. Nguồn hình thành quỹ ..................................................................................68
3.2.3.2. Sử dụng Quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện ....................................................71
Kết luận chƣơng 3 ...................................................................................................76
PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................................77


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bảo hiểm xã hội là một khái niệm quen thuộc trong đời sống hằng ngày của
con người ở các nước trên thế giới và là một trong những cơ chế chủ yếu của an
sinh xã hội. Ở Việt Nam, bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một
phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết,
trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình
bảo hiểm xã hội mà người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng
và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng bảo hiểm1.
Trước đây, bảo hiểm xã hội chỉ được áp dụng cho các đối tượng thuộc cơ
quan và doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội
được mở rộng khi chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam bắt đầu xuất
hiện từ năm 1993, khi Chính phủ ban hành Nghị định số 43/CP ngày 22/6/1993 quy
định tạm thời chế độ bảo hiểm xã hội và Bộ luật Lao động năm 1994 ra đời quy
định cả hai loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện. Sau hai mươi năm
triển khai thực hiện, bảo hiểm xã hội tự nguyện cho người lao động đã đạt được một

số thành quả nhất định, đây là chính sách đúng đắn góp phần bảo đảm an sinh xã
hội. Tuy nhiên, theo số liệu của Tổng cục Thống kê thì dân số trung bình cả nước
năm 2012 ước tính khoảng 88,78 triệu người, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên
năm 2012 là 52,58 triệu người2. Trong khi đó theo Bảo hiểm xã hội Việt Nam, tính
đến hết tháng 02 năm 2013 tổng số người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là
10.411.431 người và tổng số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chỉ có
140.945 người3. Điều đó cho thấy, số lượng người lao động chính thức tham gia bảo
hiểm xã hội tự nguyện hiện nay vẫn cịn rất ít khi đặt trong mối tương quan về dân
số và lao động, chưa phản ánh đúng nhu cầu tham gia của những đối tượng này
cũng như định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước. Như vậy, tinh thần Nghị
quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI về một số vấn đề về chính sách bảo hiểm xã hội giai đoạn 2012
- 2020 đề ra mục tiêu “nghiên cứu xây dựng chính sách khuyến khích nơng dân, lao
1

Điều 3 Luật BHXH.
Tổng cục Thống kê (2012), “Thơng cáo báo chí về tình hình kinh tế - xã hội tháng 12 và cả năm 2012”.
(Truy cập lúc 08:00 ngày 24/9/2014).
3
Đặng Huế (2013), “Toàn Ngành tập trung đôn đốc công tác thu để giảm nợ đọng”.
(Truy cập lúc 8:30 ngày 24/9/2014).
2


2

động trong khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện..., phấn đấu
đến năm 2020 có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội” và
Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012 - 2020

cũng đặt ra mục tiêu “thực hiện có hiệu quả các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế; tăng nhanh diện bao phủ đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, nhất
là bảo hiểm xã hội tự nguyện” là hết sức khó khăn.
Thực tế có nhiều nguyên nhân để người lao động không quan tâm đến chế độ
bảo hiểm xã hội tự nguyện, cụ thể như về chế độ, mức đóng hay sự liên thơng giữa
các loại hình bảo hiểm xã hội... Chính vì vậy, để thực sự thu hút được người lao
động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, cần có sự điều chỉnh các quy định của
pháp luật cho phù hợp với thực tế, hài hòa được lợi ích của người tham gia bảo
hiểm và Nhà nước.
Xuất phát từ yêu cầu này, tác giả quyết định chọn đề tài: "Pháp luật về bảo
hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam - Thực trạng và hƣớng hoàn thiện" cho
Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật Kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình học tập, nghiên cứu, tác giả nhận thức rằng pháp luật về bảo
hiểm xã hội tự nguyện là đề tài được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Các
cơng trình nghiên cứu, đề tài khoa học có liên quan đến đề tài của tác giả, qua khảo
sát tác giả nhận thấy:
Có đề tài nghiên cứu về an sinh xã hội hay bảo hiểm xã hội, nhưng không
chuyên sâu về bảo hiểm xã hội tự nguyện. Cụ thể như:
- Luận án phó tiến sĩ khoa học “Hồn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội ở
Việt Nam: Lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Huy Ban công bố năm 19964.
Luận án đã nêu được lý luận chung về bảo hiểm xã hội (Khái niệm, đối
tượng áp dụng, nguyên tắc của bảo hiểm xã hội, sự điều chỉnh của pháp luật đối với
bảo hiểm xã hội…), nêu được một số thực trạng pháp luật bảo hiểm xã hội ở Việt
Nam thời điểm năm 1993 - 1994. Qua đó tác giả đưa ra những giải pháp cụ thể
nhằm hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực hiện bảo hiểm xã hội, cụ thể: Tác giả đề
xuất phải thành lập quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ phải được hạch toán độc lập; cần phải
sửa đổi một số chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội hiện hành cho phù hợp như chế độ
ốm đau, chế độ thai sản, chế độ trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, cần
4


Nguyễn Huy Ban (1996), Hoàn thiện pháp luật BHXH ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn, Luận án phó tiến sĩ
khoa học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.


3

xây dựng chế độ trợ cấp mất sức lao động, chế độ hưu trí (đề xuất quy định độ tuổi
nghỉ hưu của nữ cũng như nam) và chế độ tử tuất; cần phân biệt chức năng quản lý
hành chính với chức năng kinh doanh đối với bảo hiểm xã hội, phải thành lập một
hệ thống độc lập, thống nhất của Nhà nước để quản lý và thực hiện bảo hiểm xã hội.
Từ đó tác giải nêu ra sự cần thiết phải ban hành Luật Bảo hiểm xã hội.
Tuy nhiên, Luận án chưa nêu được quá trình hình thành và phát triển của
pháp luật về bảo hiểm xã hội ở Việt Nam trước thời điểm năm 1996; chưa nêu được
mối tương quan giữa mức đóng và mức hưởng đối với các chế độ bảo hiểm xã hội,
bởi tác giả cho rằng tính chất của bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm của xã hội chứ
khơng phải hồn tồn ai đóng nhiều hưởng nhiều, ai đóng ít hưởng ít. Đặc biệt, tác
giả cho rằng cần phải thực hiện bảo hiểm xã hội tồn dân, nhưng khơng nêu ra được
sự cần thiết phải quy định, thực hiện về bảo hiểm xã hội tự nguyện và khơng nghiên
cứu về loại hình bảo hiểm này.
- Luận án tiến sĩ Luật học “Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với hoạt động bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Kim
Thái công bố năm 20045.
Luận án đã nêu được cơ sở lý luận chung về bảo hiểm xã hội, pháp luật về
bảo hiểm xã hội từ năm 1945 đến thời điểm trước năm 2004 (Đánh giá được ưu,
nhược điểm của pháp luật trong giai đoạn này). Tác giả đã đề xuất được sự cần thiết
phải ban hành Luật Bảo hiểm xã hội, trong đó đề xuất xây dựng pháp luật về bảo
hiểm xã hội tự nguyện. Khi đề xuất xây dựng pháp luật về bảo hiểm xã hội tự
nguyện, tác giả đã nêu ra được đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện (Cụ
thể là không phải là đối tượng bảo hiểm xã hội bắt buộc); Trước mắt chỉ áp dụng

chế độ hưu trí đối với người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện; Mức đóng góp
đồng nhất và có nhiều mức đóng góp khác nhau để người tham gia lựa chọn;
Phương thức đóng theo tháng, quý, nửa năm, năm hoặc nhiều năm; Quỹ bảo hiểm
xã hội nên hạch toán độc lập, tự cân đối thu chi.
Tuy nhiên, Luận án chủ yếu nghiên cứu sâu về sự cần thiết phải quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với bảo hiểm xã hội và cần thiết phải ban hành Luật Bảo
hiểm xã hội. Vì vậy, pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện chưa được nghiên cứu
một cách toàn diện, chưa xây dựng được một khung pháp lý về bảo hiểm xã hội
cũng như bảo hiểm xã hội tự nguyện (tác giả nêu được sự cần thiết phải quy định,
nhưng không nêu quy định như thế nào).

5

Nguyễn Kim Thái (2004), Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động BHXH ở Việt
Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.


4

- Luận án tiến sĩ Luật học “Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng
và hoàn thiện pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hiền
Phương công bố năm 20086.
Mặc dù tác giả nghiên cứu tổng quan về an sinh xã hội, nhưng cũng nêu
được lý luận chung về bảo hiểm xã hội. Đặc biệt, về giải pháp hoàn thiện pháp luật
bảo hiểm xã hội, tác giả đã đề xuất nhanh chóng triển khai thực hiện loại hình bảo
hiểm xã hội tự nguyện và cho rằng thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện phải bảo
đảm được ba yêu cầu cơ bản đó là khả năng tham gia đơng đảo của đối tượng, giá
trị mức trợ cấp có ý nghĩa với người thụ hưởng và bảo đảm cân đối quỹ. Về khả
năng tham gia, Nhà nước cần có sự hỗ trợ tài chính trong một thời gian nhất định
ban đầu nhằm bảo đảm tính khả thi. Chế độ hưu trí trong bảo hiểm xã hội bắt buộc

cũng có một phần liên quan đến bảo hiểm xã hội tự nguyện, theo đó về chế độ hưu
trí, tác giả đề xuất điều chỉnh lại độ tuổi nghỉ hưu (Xác định lộ trình tăng dần tuổi
nghỉ hưu theo mức tăng của tuổi thọ trung bình; Tăng tuổi nghỉ hưu của lao động nữ
phù hợp nhằm bảo đảm bình đẳng với lao động nam); Cải cách các quy định về mức
đóng và hưởng trợ cấp bảo đảm công bằng cho đối tượng tham gia (Tỷ suất tích lũy
trung bình hằng năm trong mức hưởng là 2%, tính bình qn chung cho tồn bộ thời
gian đóng, cần quy định khống chế mức hưởng trợ cấp hằng tháng tối đa) và thiết
lập chế độ hưu trí bổ sung.
Tuy nhiên, tác giả nghiên cứu đề tài trên một phạm vi rộng về an sinh xã hội
và tại thời điểm này bảo hiểm xã hội tự nguyện mới bắt đầu được triển khai, do đó
chưa thể đề xuất được nhiều giải pháp trên cơ sở những bất cập khi thực hiện loại
hình bảo hiểm này.
- Luận văn thạc sĩ Luật học “Chế độ bảo hiểm xã hội trong pháp luật lao
động Việt Nam - Thực tiễn áp dụng và hướng hồn thiện” của tác giả Phan
Thanh Long cơng bố năm 20047.
Luận văn nêu ra được một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội (Khái niệm,
phạm vi, đối tượng áp dụng, vai trị, lịch sử hình thành và phát triển bảo biểm xã
hội). Thực trạng chế độ bảo hiểm xã hội theo pháp luật ở Việt Nam tại thời điểm
năm 2004. Qua đó tác giả đưa ra những nguyên tắc và phương hướng nhằm hoàn
thiện chế độ bảo hiểm xã hội, cụ thể như: Tập trung các biện pháp nhằm mở rộng
đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó quan tâm phát triển bảo hiểm xã hội
6

Nguyễn Hiền Phương (2008), Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật ASXH ở
Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
7
Phan Thanh Long (2004), Chế độ BHXH trong pháp luật lao động Việt Nam - Thực tiễn áp dụng và hướng
hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.



5

tự nguyện; Khắc phục tình trạng trốn đóng bảo hiểm xã hội; Bổ sung trách nhiệm
của các bên tham gia quan hệ bảo hiểm xã hội và hình thức chế tài, nhằm tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; Sửa đổi một số chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội
như chế độ ốm đau, chế độ thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí và
tử tuất (Về tuổi nghỉ hưu tác giả đề xuất giữ nguyên quy định nam 60 tuổi và nữ 55
tuổi) và xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp.
Tuy nhiên, do nghiên cứu về bảo hiểm xã hội nói chung dựa vào loại hình
bảo hiểm xã hội bắt buộc, nên tác giả chưa nêu ra được lý luận về bảo hiểm xã hội
tự nguyện, các đề xuất đều áp dụng cho loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc. Mặt
khác, tác giả đề xuất mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, cụ thể là phát
triển bảo hiểm xã hội tự nguyện, nhưng không nêu ra được quy định mở rộng như
thế nào.
Như vậy, các đề tài nghiên cứu nêu trên đã làm rõ được cơ sở lý luận, thực
tiễn và pháp lý về bảo hiểm xã hội nói chung, mà không nghiên cứu cụ thể về bảo
hiểm xã hội tự nguyện nói riêng và nhất là mức độ, hiệu quả của việc triển khai loại
hình bảo hiểm này trong thực tế.
Có đề tài nghiên cứu về một phạm vi hẹp trong bảo hiểm xã hội, nhưng có ý
nghĩa liên quan đến bảo hiểm xã hội tự nguyện. Đó là Luận án tiến sĩ Kinh tế “Giải
pháp nâng cao hiệu quả đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Trọng Thản công bố năm 20048.
Luận án nêu được lý luận chung về quỹ bảo hiểm xã hội (Khái niệm, đặc
trưng, vai trò và các mơ hình tổ chức quỹ bảo hiểm xã hội); Sự hình thành nguồn
vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội; Thực trạng hiệu quả đầu
tư từ quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam giai đoạn trước năm 2004. Từ đó tác giả đưa
ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội, cụ thể như:
Về tạo lập nguồn vốn đầu tư: Đề xuất xây dựng và triển khai rộng rãi hình
thức bảo hiểm xã hội tự nguyện; Hoàn thiện các chế độ về quản lý nguồn thu bảo
hiểm xã hội (Về cơ chế tạo lập quỹ tác giả đề xuất tăng dần mức đóng của đối tượng

tham gia lên 30%), mức đóng dựa trên tiền lương, tiền công thực tế; Về cơ chế quản
lý nguồn thu cần đẩy mạnh các biện pháp nghiệp vụ quản lý đối tượng tham gia bảo
hiểm xã hội, tăng cường công tác chuyên quản trực tiếp đối với đơn vị sử dụng lao
động…); Tăng cường quản lý chi bảo hiểm xã hội (Hồn thiện cơ chế chính sách về
chế độ hưu trí, chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp) và hoàn
8

Nguyễn Trọng Thản (2004), Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư từ quỹ BHXH ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ
Kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.


6

thiện các giải pháp quản lý chi bảo hiểm xã hội (Quản lý chặt chẽ đối tượng hưởng,
tăng cường công tác quản lý chi trả…).
Về giải pháp tổ chức quản lý nguồn vốn đầu tư: Bảo hiểm xã hội Việt Nam
cần sớm thành lập tổ chức chuyên trách thực hiện đầu tư; Nên chọn dịch vụ đầu tư
ủy thác để quản lý nguồn vốn đầu tư; Huy động triệt để nguồn tiền tạm thời nhà rỗi
vào hoạt động đầu tư tài chính.
Về giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư: Đối với cơ chế chính sách cần phân
định rõ nguồn vốn đầu tư (ngắn hạn và dài hạn); Đa dạng hóa danh mục đầu tư
(tham gia thị trường chứng khốn, cung ứng dịch vụ cho th tài chính, góp vốn
liên doanh, cổ phần với các đối tác khác mà chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước);
Quy định cụ thể hạn mức đầu tư đối với từng danh mục (Đối với lĩnh vực đầu tư an
toàn nên sử dụng 80% nguồn vốn đầu tư của quỹ và đối với lĩnh vực đầu tư có khả
năng thu được lợi nhuận cao nhưng chứa đựng nhiều rủi ro thì chỉ nên sử dụng
20%); Phân cấp cụ thể thẩm quyền quyết định đầu tư (Do Tổng Giám đốc Bảo hiểm
xã hội Việt Nam hoặc Hội đồng quản lý quyết định); Ban hành chính sách khuyến
khích và ưu đãi đối với hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội (như miễn thuế,
đơn giản hóa các thủ tục hành chính, ưu tiên cho Bảo hiểm xã hội Việt Nam đầu tư

vào một số lĩnh vực…); Xây dựng danh mục vốn đầu tư tối ưu; Xây dựng chiến
lược đầu tư tương thích đối với từng loại nguồn vốn đầu tư.
Tại thời điểm tác giả nghiên cứu thì loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện
chưa được thực hiện trong thực tế, nhưng tác giả đã cho chúng ta hiểu biết được về
tài chính - tiền tệ để nhận thức rõ hơn về một hiện tượng tiền tệ thông qua hoạt động
bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội là một phần
nhỏ của quỹ bảo hiểm xã hội trong cấu thành pháp luật về bảo hiểm xã hội tự
nguyện, do đó chúng ta cũng chưa thấy được một cách tổng quan về bảo hiểm xã
hội tự nguyện. Về mặt đầu tư từ quỹ thì có nhiều mặt tương đồng, nhưng về việc
hình thành nguồn thu quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện lại khác với quỹ bảo hiểm xã
hội bắt buộc, do đó tác giả chỉ đề xuất triển khai hình thức bảo hiểm xã hội tự
nguyện mà không nêu được cách thức tạo lập nguồn thu của loại hình bảo hiểm này.
Mặt khác, tác giả tập trung nghiên cứu sâu về lĩnh vực đầu tư thị trường chứng
khốn, nơi chứa đựng nhiều tính rủi ro trong hoạt động đầu tư và rất khó bảo đảm
tính chất bảo tồn của quỹ bảo hiểm xã hội.
Có những đề tài nghiên cứu chuyên sâu về bảo hiểm xã hội tự nguyện tại
thời điểm mà loại hình này đã được thực hiện, cụ thể là các đề tài:


7

- Luận văn thạc sĩ Luật học “Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện cho
nông dân” của tác giả Phan Thị Liên công bố năm 20129.
Luận văn đã nêu được cơ sở lý luận về bảo hiểm xã hội tự nguyện (Khái
niệm, vai trò, bản chất và nguyên tắc của bảo hiểm xã hội tự nguyện). Thực trạng
pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân. Từ đó, tác giả đưa ra các giải
pháp nhằm thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nơng dân (Hỗ trợ tài
chính cho nơng dân thu nhập thấp tham gia, phối hợp với các chương trình khác
như chương trình việc làm, chương trình xóa đói giảm nghèo…, nâng cao nhận thức
của người nông dân về bảo hiểm xã hội tự nguyện, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội

ngũ cán bộ, cải cách thủ tục hành chính) và giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của
pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện (Bổ sung các chế độ bảo hiểm xã hội gồm
thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; Về chế độ hưu trí nên bỏ quy định
trường hợp tạm dừng hưởng trợ cấp khi người đang hưởng lương hưu hằng tháng
chấp hành hình phạt tù, nâng mức hưởng bảo hiểm hưu trí một lần và trợ cấp một
lần; Về chế độ tử tuất đề nghị mức trợ cấp mai táng phí phải tương xứng với mức
đóng, quy định bổ sung hình thức trợ cấp tuất hằng tháng cho thân nhân người tham
gia bảo hiểm; Về sự liên thông giữa bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm xã hội
bắt buộc cần phải quy định quyền lợi của người tham gia khi chuyển tiếp từ bảo
hiểm xã hội tự nguyện sang bảo hiểm hội bắt buộc; Xây dựng mơ hình bảo hiểm xã
hội tự nguyện đặc biệt cho nơng dân).
Tuy nhiên, vì chủ yếu tập trung nghiên cứu về đối tượng tham gia bảo hiểm
xã hội tự nguyện đặc thù đó là nơng dân. Do đó, đề tài của tác giả Phan Thị Liên
chưa nghiên cứu được một cách toàn diện về bảo hiểm xã hội tự nguyện đối với
người lao động. Mặt khác, một số kiến nghị cịn chưa chính xác và thiếu tính khả
thi, như trường hợp pháp luật đã quy định sự liên thông từ bảo hiểm xã hội tự
nguyện sang bảo hiểm xã hội bắt buộc, nhưng tác giả cho rằng cịn thiếu sót; hoặc
đề xuất quy định chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cho nơng dân
là khơng mang tính khả thi…
- Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật “Bảo hiểm xã hội tự nguyện Việt
Nam” của tác giả Dương Thị Thùy Trang cơng bố năm 201210.
Khóa luận đã nêu được một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội tự nguyện
(Khái niệm, đặc điểm, vai trò, nguyên tắc và quá trình phát triển của bảo hiểm xã
9

Phan Thị Liên (2012), Pháp luật về BHXH tự nguyện cho nông dân, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại
học Luật Tp.Hồ Chí Minh.
10
Dương Thị Thùy Trang (2012), BHXH tự nguyện Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường
Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh.



8

hội tự nguyện). Thực tiễn thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện và đưa ra được một
số kiến nghị góp phần hồn thiện pháp luật bảo biểm xã hội tự nguyện, cụ thể: Mở
rộng các chế độ trợ cấp (ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trợ
cấp thất nghiệp, hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm); Người lao động quá 5 tuổi so
với tuổi nghỉ hưu mà chưa đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội thì cho đóng bù một lần
để được hưởng lương hưu; Xây dựng pháp luật về tuổi nghỉ hưu phù hợp hơn; Quy
định thêm chế độ trợ cấp tuất hằng tháng, cho phép lựa chọn trợ cấp tuất hằng tháng
hoặc trợ cấp tuất một lần khi hưởng trợ cấp tuất hằng tháng; Hỗ trợ mức đóng đối
với các đối tượng thu nhập thấp; Bảo hiểm xã hội Việt Nam được thực hiện cơ chế
tự chủ quản lý, sử dụng biên chế và kinh phí chi hoạt động bộ máy như đơn vị sự
nghiệp; Quy định thêm các hình thức đầu tư từ Quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện;
Quy định cụ thể về đại lý thu và hoa hồng cho đại lý thu bảo hiểm xã hội tự nguyện
tuyến xã; Quy định về việc áp dụng đối với lao động có thu nhập vượt quá giới hạn
tối đa làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội.
Tuy nhiên, tác giả còn chưa nghiên cứu về sự tương quan giữa mức đóng và
mức hưởng ảnh hưởng tới sự cân đối của quỹ, quyền lợi và nghĩa vụ của đối tượng
tham gia. Bên cạnh đó, một số kiến nghị cịn chung chung và khơng có tính khả thi
như: Đề xuất quy định bổ sung toàn bộ các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm là
không khả thi; Chưa xác định tuổi nghỉ hưu như thế nào là phù hợp; Chưa đề xuất
hỗ trợ mức đóng cho người thu nhập thấp như thế nào; Chưa đề xuất bổ sung hình
thức nào để đầu tư từ quỹ…
Có một số bài viết đăng trên các tạp chí trước hoặc tại thời điểm bảo hiểm xã
hội tự nguyện mới được triển khai thực hiện, cụ thể như:
- Bài viết “Bàn về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam” của tác giả Lê
Thị Hoài Thu đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật năm 200711.

Tác giả đề cập đến một số nội dung về đối tượng tham gia; các chế độ; mức
đóng và phương thức đóng; điều kiện hưởng và mức hưởng; tổ chức thực hiện bảo
hiểm xã hội tự nguyện. Tuy nhiên, nội dung bài biết chủ yếu mang tính chất giải
thích những quy định về bảo hiểm xã hội tự nguyện trong Luật Bảo hiểm xã hội.
- Bài viết “Một số vấn đề về bảo hiểm xã hội tự nguyện” của tác giả Mạc
Tiến Anh đăng trên Tạp chí Bảo hiểm xã hội năm 200812.
11

Lê Thị Hoài Thu (2007), “Bàn về BHXH tự nguyện ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (7), tr 65-69.
Mạc Tiến Anh (2008), “Một số vấn đề về BHXH tự nguyện”.
(Truy cập lúc 9:00 ngày
24/9/2014).
12


9

Tác giả nghiên cứu một số vấn đề về đối tượng tham gia, các chế độ, mức
đóng góp bảo hiểm xã hội tự nguyện và vấn đề liên thông giữa bảo hiểm xã hội bắt
buộc và tự nguyện. Qua đó, tác giả đề xuất nên quy định tất cả mọi người lao động
nếu có điều kiện đều có thể tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện; Những người quá
nghèo, khơng có thu nhập thì khơng nên tham gia vào hệ thống bảo hiểm xã hội mà
là đối tượng của những chính sách trợ giúp xã hội khác; Quy định thêm các chế độ
bảo hiểm nhất là chế độ tai nạn lao động; Cần phải xem xét lại việc đóng bảo hiểm
trên cơ sở lương tối thiểu; Đối với các chế độ ngắn hạn sẽ nảy sinh vấn đề khi người
tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chuyển sang bảo hiểm xã hội bắt buộc thì giải
quyết như thế nào để đảm bảo sự bình đẳng khi tham gia. Tuy nhiên, đề xuất của tác
giả không mở rộng, mà đều nhằm hạn chế đối tượng tham gia và mặc dù nêu ra bất
cập nhưng chưa đề xuất cách giải quyết như vấn đề liên thơng.
Ngồi ra, có một số bài viết đăng trên tạp chí trong thời gian bảo hiểm xã hội

tự nguyện đã được thực hiện trong thực tế, cụ thể như: Bài viết “Giải pháp để thực
hiện tốt bảo hiểm xã hội tự nguyện” của tác giả Đào Trọng Hiếu đăng trên Tạp chí
Bảo hiểm xã hội năm 201113; Bài viết “Giải pháp phát triển bảo hiểm xã hội tự
nguyện” của tác giả Thái Dương đăng trên Tạp chí Bảo hiểm xã hội năm 201114;
Bài viết “Giải pháp phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện” của tác giả Nguyễn Sáu
đăng trên Tạp chí Bảo hiểm xã hội năm 201315; Bài viết “Đề xuất giải pháp phát
triển bảo hiểm xã hội tự nguyện” của tác giả Hoàng Minh Tuấn đăng trên Tạp chí
Bảo hiểm xã hội năm 201316; Bài viết “Phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện cho
người lao động khu vực phi chính thức” của tác giả Lê Cơng Minh Đức đăng trên
Tạp chí Bảo hiểm xã hội năm 201317; Bài viết “Giải pháp thực hiện bảo hiểm xã hội
tự nguyện cho nông dân” của tác giả Phạm Thị Huyền đăng trên Tạp chí Bảo hiểm
xã hội năm 201318… Các bài viết nêu được một số thực trạng áp dụng bảo hiểm xã
hội tự nguyện như số người lao động tham gia ít, khơng có khả năng tài chính tham
gia và một số đề xuất như bổ sung các chế độ, xem xét lại mức đóng, hỗ trợ tài
13

Đào Trọng Hiếu (2011), “Giải pháp để thực hiện tốt BHXH tự nguyện”.
(Truy cập lúc 09:15
ngày 24/9/2014).
14
Thái Dương (2011), “Giải pháp phát triển BHXH tự nguyện”.
(Truy cập lúc 09:30
ngày 24/9/2014).
15
Nguyễn Sáu (2013), “Giải pháp phát triển BHXH tự nguyện”, Tạp chí BHXH, (Kỳ 2 tháng 01), tr 27-28.
16
Hoàng Minh Tuấn (2013), “Đề xuất giải pháp phát triển BHXH tự nguyện”, Tạp chí BHXH, (Kỳ 1 tháng
3), tr 22-24.
17
Lê Công Minh Đức (2013), “Phát triển BHXH tự nguyện cho người lao động khu vực phi chính thức”, Tạp

chí BHXH, (Kỳ 1 tháng 4), tr 30-39.
18
Phạm Thị Huyền (2013), “Giải pháp thực hiện BHXH tự nguyện cho nơng dân”, Tạp chí BHXH, (Kỳ 2
tháng 7), tr 24-25.


10

chính cho người có thu nhập thấp tham gia, hồn thiện chế độ hưu trí, tử tuất… Tuy
nhiên, các đề xuất về hồn thiện pháp luật vẫn cịn mang tính chung chung và nhiều
đề xuất mang tính chất hành chính như tiếp nhận hồ sơ, công tác tuyên truyền, công
tác đào tạo, bồi dưỡng, tăng cường công tác chỉ đạo…
Trong đề tài này, tác giả sẽ kế thừa một số kiến thức, kết quả nghiên cứu
trước đây. Tuy nhiên, tác giả sẽ đi sâu vào việc nghiên cứu đối tượng là bảo hiểm xã
hội tự nguyện dưới góc độ pháp lý và thực tiễn áp dụng trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài mà tác giả lựa chọn là một vấn đề hẹp, mang tính chun sâu trong tồn bộ
những vấn đề liên quan đến bảo hiểm xã hội, cụ thể là bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Vì vậy, dưới hình thức luận văn thạc sĩ, việc chọn đề tài của tác giả là khơng trùng
lặp với các cơng trình khoa học khác đã được cơng bố.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Thông qua nghiên cứu lý luận về bảo hiểm xã hội tự nguyện và thực tiễn áp
dụng tại Việt Nam, mục đích của đề tài là nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp
nhằm góp phần hồn thiện pháp luật và cơ chế pháp lý trong lĩnh vực lao động và
bảo hiểm xã hội, nhằm giúp các cơ quan quản lý nhà nước và người lao động có
được một khung pháp lý chuẩn mực, khoa học và thuận lợi hơn. Qua đó, góp phần
nâng cao hiệu quả trong quan hệ pháp luật về lao động, bảo hiểm xã hội nói riêng và
hoạt động kinh tế - xã hội nói chung.
Đề tài nghiên cứu này sẽ góp phần phong phú vào kho tài liệu tham khảo của
nhà làm luật trong q trình xây dựng và hồn thiện pháp luật. Đề tài sẽ làm tài liệu
khoa học hữu ích cho việc giảng dạy, học tập trong lĩnh vực Luật học chuyên ngành

Luật kinh tế.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
- Về giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Tác giả tập trung nghiên cứu những vấn đề pháp lý về bảo hiểm xã hội tự
nguyện ở Việt Nam. Cụ thể như đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề pháp lý về đối
tượng áp dụng bảo hiểm xã hội tự nguyện, các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện,
quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện… Khi nghiên cứu về bảo hiểm xã hội tự nguyện, tác
giả đặt dưới góc độ đặc thù của loại bảo hiểm xã hội này và trong mối liên hệ với
bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Tác giả nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay, những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện và hệ thống pháp lý
điều chỉnh.
- Về phương pháp nghiên cứu:


11

Đề tài được xây dựng trên nền tảng chung khoa học duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin; nghiên cứu lý luận kết hợp với thực
tiễn. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả phối hợp hợp lý các phương pháp nghiên
cứu khoa học cơ bản, chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phối
hợp với phương pháp so sánh đối chiếu để làm sáng tỏ các vấn đề cần nghiên cứu.
5. Bố cục luận văn
Bố cục luận văn được chia thành các phần cụ thể như sau:
Phần mở đầu
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về bảo hiểm xã hội tự nguyện
Chương 2. Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hiểm xã hội tự nguyện
Chương 3. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội
tự nguyện ở Việt Nam và kiến nghị góp phần hồn thiện pháp luật
Phần kết luận



12

CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO
HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội tự nguyện
1.1.1. Lịch sử hình thành bảo hiểm xã hội tự nguyện
Con người muốn tồn tại và phát triển, trước hết phải lao động. Trong quá
trình lao động con người luôn tác động vào tự nhiên và xã hội để tạo ra những sản
phẩm, nhằm đáp ứng nhu cầu sinh sống cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của
mình. Cũng trong quá trình lao động, con người lại chịu sự tác động trở lại của các
điều kiện tự nhiên và xã hội, đôi lúc những tác động này vượt quá khả năng kiểm
soát, ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của bản thân và gia đình người lao động
như mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác: ốm đau, tai nạn, tuổi già,
chết… Khi rơi vào hồn cảnh đó, các nhu cầu cần thiết của cuộc sống khơng vì thế
mà mất đi, trái lại có nhu cầu cịn tăng lên, thậm chí có thể xuất hiện thêm các nhu
cầu mới như khi ốm đau cần được chữa bệnh, khi chết người phụ thuộc cần được
nuôi dưỡng… Để vượt qua những khó khăn, ở mỗi xã hội khác nhau đều có những
biện pháp phịng ngừa và các biện pháp khắc phục hậu quả khác nhau.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, do chưa có tư hữu về tư liệu sản xuất,
mọi người cùng nhau lao động trong sự phối hợp giản đơn, sản phẩm thu được phân
phối bình qn, nên khó khăn, bất lợi của mỗi người được cả cộng đồng san sẻ,
gánh chịu.
Trong xã hội phong kiến, quan lại thì dựa vào chế độ bổng lộc của nhà vua,
dân cư thì dựa vào sự đùm bọc lẫn nhau trong họ hàng, cộng đồng làng, xã hoặc
trong chừng mực nhất định là sự cứu giúp của những người hảo tâm, của Nhà nước
hoặc họ có thể đi vay, đi xin. Với những cách này, người gặp khó khăn, bất lợi hoàn
toàn thụ động, họ chỉ biết là trơng chờ vào sự hảo tâm của phía giúp đỡ, có thể có
hoặc khơng, có thể ít hoặc nhiều.

Cùng với sự phát triển của xã hội, ý thức cộng đồng về tương trợ lẫn nhau
được hình thành và dần dần được mở rộng. Ngay từ thế kỷ XVI, những người nông
dân ở thung lũng của vùng núi Anpơ (Tây Âu) đã sớm nhận thấy khả năng đóng
góp của cộng đồng để trợ cấp cho những người bị ốm đau, tai nạn. Họ thành lập ra
những hội tương tế với cách thức mỗi người đều trích ra một phần thu nhập đóng
vào một quỹ chung phịng khi ai bị ốm đau, tai nạn thì dùng quỹ đó để giúp đỡ. Đến
cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất
xuất phát từ nước Anh sau đó lan tỏa ra tồn thế giới. Sau cuộc cách mạng này, đội
ngũ những người làm công ăn lương tăng lên, cuộc sống của họ chủ yếu dựa vào


13

thu nhập do làm thuê đem lại. Khi bị ốm đau, tai nạn, thất nghiệp hoặc do tuổi già
sức yếu… không làm việc được, cuộc sống của họ bị đe dọa vì khơng cịn nguồn
thu nhập để sinh sống. Do buộc phải đối mặt với những rủi ro trong cuộc sống đã
khiến những người lao động tìm cách khắc phục bằng việc lập quỹ tương tế để giúp
đỡ lẫn nhau. Hình thức trợ giúp này đối với những người lao động gặp phải khó
khăn, túng quẫn đã góp phần cho họ vượt qua hồn cảnh đó. Có thể nói đây là hình
thức BHXH tự nguyện cho người lao động đã được hình thành.
Đến giữa thế kỷ XIX, trong điều kiện kinh tế thị trường, với sự ra đời và phát
triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đã làm xuất hiện việc thuê mướn
nhân công (xuất hiện người thuê lao động - giới chủ và người lao động - giới thợ).
Ban đầu, giới chủ chỉ cam kết việc trả công lao động nhưng về sau đã phải cam kết
cả việc bảo đảm cho giới thợ một khoản chi phí nhất định để họ trang trải những
nhu cầu tối thiểu cần thiết của cuộc sống khi gặp một số rủi ro như: tai nạn lao
động, ốm đau… Tuy nhiên, thường thì giới chủ hiếm khi muốn thực hiện những
điều cam kết. Chính vì vậy, giữa giới chủ và thợ thường xảy ra tranh chấp, khi xung
đột trở nên gay gắt sẽ làm tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Để xoa dịu
mâu thuẫn này, trong xã hội xuất hiện một bên thứ ba đóng vai trị trung gian giúp

thực hiện những cam kết giới chủ và giới thợ bằng hoạt động thích hợp của nó. Một
trong những biện pháp được các nước trên thế giới thực hiện đó là giới chủ trích ra
một khoản tiền nhất định được tính tốn chặt chẽ trên cơ sở xác suất những biến cố
của tập hợp giới thợ. Số tiền này được giao cho một bên thứ ba tồn tích dần thành
một quỹ tiền tệ. Khi giới thợ gặp các sự kiện rủi ro thì cứ theo cam kết chi trả,
khơng phụ thuộc vào giới chủ có muốn hay khơng. Như vậy, giới chủ đỡ thiệt hại
về kinh tế do không phải chi trả một lúc những khoản tiền lớn, còn giới thợ được
bảo đảm một phần thu nhập khi rủi ro xảy ra trong quá trình tham gia lao động.
Cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, nhu cầu của con người ngày
càng cao, họ muốn được đảm bảo nhiều hơn. Cùng với sự khẳng định vai trò điều
tiết đối với nền kinh tế thị trường, Nhà nước đã tham gia (với tư cách là bên thứ ba)
can thiệp và điều chỉnh vào quá trình này, đó chính là một quỹ tiền tệ tập trung trên
phạm vi quốc gia được thành lập nhằm bảo đảm đời sống cho người lao động khi
gặp rủi ro, tạo khả năng giải quyết những phát sinh rủi ro lớn nhất. Một trong những
hình thức tập trung tài chính nhằm bảo đảm cuộc sống của người lao động được các
nước áp dụng đó là hình thức BHXH bắt buộc.
Như vậy, BHXH tự nguyện trên thế giới được thực hiện đầu tiên ở Anh và ở
Đức với những quỹ khác nhau do các hội tương tế, hội nghề nghiệp quản lý. Sau
này do tác dụng to lớn của nó, Nhà nước đứng ra tổ chức, hỗ trợ và quy định thành


14

bảo hiểm bắt buộc. Hình thức BHXH bắt buộc được đề xuất đầu tiên ở Đức dưới
thời Thủ tướng Bismarck vào năm 1850 nhằm bảo vệ người lao động trong trường
hợp mất thu nhập vì ốm đau, bệnh tật; sau đó mở rộng đối với các trường hợp rủi ro
khác như tại nạn nghề nghiệp vào năm 1884; tuổi già, tàn tật vào năm 1989 19. Từ
đó, với mơ hình này, nhiều nước trên thế giới đã lần lượt ban hành các đạo luật làm
cơ sở điều chỉnh các mối quan hệ về trợ cấp cho những người gặp rủi ro. BHXH bắt
buộc trở thành chủ yếu, bên cạnh đó BHXH tự nguyện vẫn tiếp tục tồn tại và phát

triển, góp phần bổ sung cho BHXH bắt buộc.
1.1.2. Định nghĩa về bảo hiểm xã hội tự nguyện
BHXH tự nguyện cùng với BHXH bắt buộc đã tạo thành một hệ thống
BHXH tồn diện đối với người lao động. Vì vậy, để tìm hiểu về BHXH tự nguyện,
trước hết phải tìm hiểu khái niệm về BHXH nói chung.
Với bản chất là một bộ phận cấu thành của hệ thống ASXH, xuất hiện và
phát triển cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nhân loại, tùy từng giai
đoạn lịch sử, tùy điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia mà việc thực hiện
BHXH có khác nhau. Tuy nhiên, tất cả đều thống nhất ở chỗ thừa nhận BHXH là
một sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp thu nhập của người tham gia cũng như những
thành viên trong gia đình của họ. Với việc xác định BHXH là một bộ phận của
ASXH, nhưng đối tượng áp dụng của BHXH là người lao động. Vì vậy, tác giả
Nguyễn Huy Ban đã nêu ra quan niệm của ILO về BHXH như sau: “BHXH là sự
bảo vệ của xã hội đối với người lao động thông qua việc huy động các nguồn đóng
góp để trợ cấp cho người lao động, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã
hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn, thất
nghiệp, mất khả năng lao động, tuổi già, chết. Đồng thời bảo đảm chăm sóc y tế và
trợ cấp cho các thân nhân trong gia đình người lao động, để ổn định cuộc sống của
bản thân người lao động và gia đình, góp phần an tồn xã hội”20.
Ở Việt Nam, trước khi khái niệm về BHXH được chính thức nêu trong văn
bản luật21, có một số tác giả cũng đưa ra định nghĩa về BHXH, cụ thể như:
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam thì BHXH là “sự bảo đảm thay thế hoặc
bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ mất hoặc giảm thu nhập do bị
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi
19

Nguyễn Hiền Phương (2010), Pháp luật ASXH những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Tư pháp, Hà Nội,
tr10.
20
Nguyễn Huy Ban (1996), Hoàn thiện pháp luật BHXH ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn, Luận án phó tiến

sĩ khoa học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội, tr 19.
21
Luật BHXH năm 2006.


15

già, tử tuất; dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia
BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống
cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội”22.
Tác giả Trần Quang Hùng và Mạc Văn Tiến thì cho rằng: “BHXH là sự bảo
đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp
phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm, bằng
hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung do sự đóng góp của người sử
dụng lao động và người lao động, nhằm bảo đảm an toàn đời sống cho người lao
động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an tồn xã hội”23.
Luật BHXH năm 2006 đưa ra định nghĩa về BHXH cụ thể như sau: “BHXH
là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ
bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH”
(Khoản 1 Điều 3).
BHXH tự nguyện là một loại hình của BHXH nói chung, yếu tố phân biệt
giữa BHXH tự nguyện và BHXH bắt buộc chính là ý chí của người tham gia (Tự
nguyện hoặc bắt buộc). Vì vậy, xem xét ở từng góc độ để xây dựng định nghĩa về
BHXH tự nguyện bao giờ cũng có những nét chung của BHXH, cụ thể:
Dưới góc độ xã hội, BHXH tự nguyện là giải pháp hạn chế những rủi ro về
thu nhập có thể xảy ra với con người trong q trình tham gia lao động. Thơng qua
giải pháp này góp phần bảo đảm trật tự xã hội.
Dưới góc độ kinh tế, BHXH tự nguyện là quá trình tạo lập và sử dụng một
quỹ tiền tệ chung từ sự đóng góp của các thành viên tham gia nhằm hỗ trợ thu nhập,

giúp họ bảo đảm cuộc sống khi gặp rủi ro về thu nhập. Tạo cơ hội thúc đẩy nền kinh
tế phát triển thông qua hoạt động đầu tư từ nguồn quỹ tiền tệ tập trung. Hạn chế
những chi phí từ nguồn NSNN hoặc nguồn tài chính từ các quỹ xã hội khác cho
hoạt động bảo đảm ASXH.
Dưới góc độ pháp lý, BHXH tự nguyện là tổng hợp những quy phạm pháp
luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các bên tham gia vào quá trình thực hiện
BHXH tự nguyện cho người lao động.

22

Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển bách khoa Việt Nam 1,
Trung tâm Biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam, Hà Nội, tr 150.
23
Trần Quang Hùng - Mạc Văn Tiến (1998), Đổi mới chính sách BHXH đối với người lao động, Nxb. Chính
trị Quốc gia, tr 11.


16

Hiện nay, chưa có một định nghĩa chính thức về BHXH tự nguyện và rất ít
tác giả đưa ra định nghĩa về loại hình bảo hiểm này. Tuy nhiên, cũng có một số tác
giả quan niệm như sau:
Tác giả Lê Thị Hoài Thu cho rằng: “BHXH tự nguyện là loại hình BHXH mà
người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng
phù hợp với thu nhập của mình để hưởng BHXH” 24. Cịn tác giả Dương Thị Thùy
Trang thì cho rằng: “BHXH tự nguyện là sự đảm bảo thay thế một phần thu nhập
của người lao động, là người không đủ điều kiện tham gia BHXH bắt buộc, khi họ
bị mất thu nhập do hết tuổi lao động hoặc chết; trên cơ sở người lao động tự
nguyện tham gia đóng vào quỹ BHXH tự nguyện; từ đó người lao động được hưởng
chế độ về hưu trí và tử tuất khi đủ điều kiện theo quy định pháp luật” 25. Quan niệm

của các tác giả đơn thuần chỉ dựa trên phương diện pháp lý.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 3 Luật BHXH năm 2006, BHXH tự nguyện
“là loại hình BHXH mà người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức
đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng BHXH”. Từ
ngữ đã giải thích này nêu lên được những đặc điểm cơ bản của BHXH tự nguyện đó
là ý chí của người tham gia BHXH là tự nguyện, họ có thể tham gia hoặc có thể
khơng và được quyền lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp để hưởng bảo
hiểm. Thực ra, dù là tự nguyện nhưng đây vẫn là một loại hình BHXH, do đó u
cầu chung khi thực hiện BHXH tự nguyện phải xuất phát từ lợi ích của người lao
động, bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động khi gặp rủi ro về thu nhập.
Như vậy, từ khái niệm về BHXH nói chung và những đặc điểm cơ bản của
BHXH tự nguyện nói riêng, theo tác giả có thể đưa ra định nghĩa về BHXH tự
nguyện như sau: BHXH tự nguyện là một hình thức BHXH, do Nhà nước tổ chức
quản lý với sự tham gia tự nguyện của người lao động, được lựa chọn mức đóng,
phương thức đóng phù hợp, nhằm bảo đảm thu nhập để thỏa mãn nhu cầu sống
thiết yếu của bản thân và gia đình họ khi gặp phải rủi ro làm giảm hoặc mất thu
nhập, góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
1.2. Đặc điểm của bảo hiểm xã hội tự nguyện
Là một loại hình của BHXH, BHXH tự nguyện mang những đặc điểm chung
của BHXH, nhưng có những đặc điểm riêng biệt so với các loại hình bảo hiểm
khác.

24

Lê Thị Hồi Thu (2007), “Bàn về BHXH tự nguyện ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (7), tr 66.
Dương Thị Thùy Trang (2012), BHXH tự nguyện Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường
Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh, tr 9.
25



17

1.2.1. Đặc điểm của bảo hiểm xã hội tự nguyện
* Đối tượng áp dụng BHXH tự nguyện là mọi người trong xã hội, nhưng chủ
yếu là những người lao động khơng có quan hệ lao động:
BHXH tự nguyện là một bộ phận chính sách thuộc hệ thống BHXH nhằm
thỏa mãn nhu cầu tham gia BHXH của mọi người lao động trong xã hội, không
phân biệt bất cứ thành phần kinh tế nào. Do đó, BHXH tự nguyện có đối tượng áp
dụng rất rộng rãi dựa trên cơ sở tự nguyện tham gia vào quan hệ BHXH của người
lao động.
Nói đến người lao động là nói đến quan hệ lao động, tức là quan hệ giữa
người sử dụng lao động và người lao động. Tuy nhiên, đối tượng tham gia BHXH
tự nguyện chủ yếu lại là những người lao động không có quan hệ lao động (khơng
có quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động). Họ không bị kiểm soát
bởi yếu tố việc làm, hợp đồng lao động, người sử dụng lao động… khi tham gia
BHXH tự nguyện. Đối tượng này thường là nông dân, lao động tự do, lao động tự
tạo việc làm… nên tính chất công việc của họ cũng không chịu sự ràng buộc, quản
lý chặt chẽ của Nhà nước.
Khác với BHXH bắt buộc có đối tượng áp dụng là người sử dụng lao động
và người lao động, thì BHXH tự nguyện chỉ có người lao động là đối tượng áp
dụng. Tuy nhiên, đối tượng tham gia BHXH tự nguyện khơng có quan hệ lao động,
bởi nếu họ là người sử dụng lao động chẳng hạn như người lao động tự tạo việc làm
mà có sử dụng lao động, nhưng khi tham gia BHXH tự nguyện họ lại có tư cách là
người lao động, họ tham gia bảo hiểm cho chính q trình lao động của họ chứ
không phải cho người khác.
* Việc tham gia BHXH tự nguyện phụ thuộc vào ý chí của đối tượng áp dụng
BHXH tự nguyện:
Người lao động có tham gia BHXH tự nguyện hay khơng hồn tồn thơng
qua sự chủ động, ý chí tự nguyện tham gia của đối tượng này. Khác với BHXH bắt
buộc luôn gắn liền với ý chí áp đặt phải tham gia của Nhà nước, thì ngược lại ý chí

áp đặt của Nhà nước lại không thể được thực hiện trong BHXH tự nguyện, tức là
Nhà nước không thể bắt buộc người lao động tham gia BHXH tự nguyện. Việc
tham gia BHXH tự nguyện phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người lao động khi họ
đủ điều kiện tham gia, không phải mọi đối tượng áp dụng BHXH tự nguyện là đều
tham gia BHXH tự nguyện. Thậm chí, yếu tố tự nguyện cịn thể hiện trong việc
người lao động đã tham gia BHXH tự nguyện, nhưng có muốn tiếp tục tham gia hay


18

chấm dứt việc tham gia thì cũng do họ tự quyết định, đây là quyền tự do tham gia
quan hệ bảo hiểm của người lao động.
Yếu tố tự nguyện tham gia BHXH tự nguyện của người lao động là đặc điểm
cơ bản nhất để phân biệt với BHXH bắt buộc và đây cũng là cơ sở để gọi tên cho
loại hình bảo hiểm này.
* Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện được lựa chọn mức đóng, phương
thức đóng phù hợp với khả năng và điều kiện của mình:
Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện đóng bảo hiểm dựa trên cơ sở mức thu
nhập và tùy theo khả năng của họ. Xuất phát từ việc đối tượng tham gia BHXH tự
nguyện thường là những người lao động khơng có nguồn thu nhập thường xuyên và
ổn định, thu nhập của họ lúc có lúc khơng, lúc nhiều lúc ít. Do đó, BHXH tự
nguyện khơng có một mức đóng cụ thể mà có các mức đóng khác nhau để người
tham gia lựa chọn phù hợp với nguyện vọng và khả năng của mình. Bên cạnh đó,
việc làm của đối tượng tham gia BHXH tự nguyện cũng không ổn định, tức là họ
không làm việc ở một địa điểm nhất định mà thường xuyên thay đổi, nay đây mai
đó, họ khơng có điều kiện để định kỳ đóng bảo hiểm hằng tháng như BHXH bắt
buộc. Do đó, BHXH tự nguyện có phương thức đóng linh hoạt để cho người lao
động lựa chọn phù hợp với điều kiện của mình.
* Nguồn hình thành Quỹ BHXH tự nguyện chủ yếu từ sự đóng góp của người
lao động:

Quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền của những bên tham gia
BHXH hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho những người được
BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng
lao động hoặc bị mất việc làm26. Như vậy, căn cứ vào từng loại hình BHXH mà
Quỹ BHXH được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau.
Thơng thường Quỹ BHXH được hình thành bởi cơ chế ba bên: Người lao
động, người sử dụng lao động và Nhà nước trong một số trường hợp. Cơ chế này
thể hiện rõ nét nhất trong loại hình BHXH bắt buộc. Tuy nhiên, đối với loại hình
BHXH tự nguyện thì khơng có sự tham gia đóng góp của người sử dụng lao động,
bởi đặc trưng của loại hình này là khơng có quan hệ lao động. Mặt khác, sự tham
gia của Nhà nước nhằm đóng góp và hỗ trợ thêm để bảo đảm thực hiện các chế độ
BHXH đối với người lao động, thậm chí trong BHXH tự nguyện hiện nay chưa có

26

Nguyễn Trọng Thản (2004), Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư từ quỹ BHXH ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ
Kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội, tr 4.


19

sự tham gia đóng góp của Nhà nước. Vì vậy, Quỹ BHXH tự nguyện được hình
thành chủ yếu từ sự đóng góp của người lao động tham gia BHXH tự nguyện.
1.2.2. So sánh bảo hiểm xã hội tự nguyện với các loại hình bảo hiểm khác
* So sánh giữa bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thương mại:
BHTM là các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong q trình huy động sự
đóng góp của các cá nhân và tổ chức trong xã hội vào một quỹ tiền tệ tập trung để
sử dụng vào việc bồi thường hoặc bù đắp cho những tổn thất hoặc thiệt hại về thân
thể, tài sản, hàng hóa, phương tiện sinh hoạt và sản xuất kinh doanh, trách nhiệm
dân sự… do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra, nhằm góp phần bảo đảm cho quá trình

tái sản xuất diễn ra bình thường và đời sống của mọi thành viên trong xã hội ổn
định. Vì vậy, giữa BHXH tự nguyện và BHTM có những điểm giống nhau và khác
nhau cụ thể như sau:
+ Sự giống nhau:
- Nguyên tắc tham gia: BHXH tự nguyện cũng như BHTM đều có chung một
nguyên tắc tham gia đó là tự nguyện. Việc tham gia bảo hiểm dựa trên ý chí của
người tham gia, người tham gia được chọn lựa mức đóng phù hợp với nhu cầu và
khả năng của bản thân.
- Nguyên tắc đóng - hưởng: Đều là loại hình bảo hiểm, do đó BHXH tự
nguyện và BHTM đều thực hiện theo nguyên tắc có đóng có hưởng; khơng đóng
góp thì khơng được địi hỏi quyền lợi.
- Phương thức hoạt động: Cả hai loại hình đều mang tính cộng đồng , “lấy số
đơng bù số ít” tức là dùng số tiền đóng góp của số đơng người tham gia để bù đắp,
chia sẻ cho một số ít người gặp phải biến cố rủi ro gây ra tổn thất.
- Mục đích hoạt động: Đều nhằm bù đắp tài chính cho các đối tượng tham
gia bảo hiểm khi họ gặp phải những rủi ro gây ra thiệt hại trong khuôn khổ bảo
hiểm đang tham gia và cuối cùng là góp phần bảo đảm tái sản xuất xã hội diễn ra
bình thường, đời sống của các thành viên trong xã hội ổn định.
+ Sự khác nhau:
- Đối tượng tác động: Đối tượng tham gia BHTM gồm những cá nhân và tổ
chức thuộc mọi thành phần xã hội, mọi lứa tuổi có nhu cầu bảo hiểm, khơng chỉ
diễn ra trong từng quốc gia mà còn trải rộng xuyên quốc gia. Còn đối tượng tham
gia BHXH tự nguyện hạn chế chỉ ở người lao động và chỉ diễn ra trong phạm vi
từng quốc gia.


×