Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tiểu luận môn vận động hành lang vận động hành lang ở việt nam từ nhận thức đến thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.93 KB, 30 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: VẬN ĐỘNG HÀNH LANG
Đề tài:

VẬN ĐỘNG HÀNH LANG Ở VIỆT NAM TỪ NHẬN THỨC
ĐẾN THỰC TIỄN


MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ...............................................................................................1
II. NỘI DUNG.................................................................................................3
2.1. Cơ sở lý luận về vận động hành lang......................................................3
2.1.1 Khái niệm vận động hành lang...........................................................3
2.1.2. Vai trò của vận động hành lang.........................................................4
2.1.3. Những lợi ích mà vận động hành lang mang lại...............................5
2.2.4 Mặt trái của vận động hành lang.......................................................7
2.2. Vận động hành lang ở Việt Nam từ nhận thức đến thực tiễn..............9
2.2.1. Thực tiễn hoạt động vận động hành lang ở Việt Nam......................9
2.2.2 Sự cần thiết tăng cường hoạt động vận động hành lang ở Việt Nam
hiện nay.......................................................................................................14
2.3 Một số kiến nghị nhằm công nhận và đẩy mạnh hoạt động vận động
hành lang ở Việt Nam...................................................................................16
III. KẾT LUẬN.............................................................................................24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................26


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở nhiều quốc gia trên thế giới, nhất là phương Tây, vận động hành lang
ra đời từ lâu và có vai trị quan trọng trong đời sống chính trị. Vận động hành
lang có mục tiêu cung cấp những thông tin, tư liệu cho các quan chức nhà
nước có thẩm quyền, các chính khách..., từ đó tác động đến q trình hoạch


định chính sách, ban hành những quyết định có lợi cho xã hội hoặc một nhóm
lợi ích liên quan. Vận động hành lang khơng chỉ có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ
đến chính sách đối nội mà cịn có tác động đến chính sách đối ngoại của một
quốc gia. Nó thực sự là một cơng nghệ chính trị, góp phần làm cho đời sống
chính trị - xã hội công khai, minh bạch hơn, dân chủ hơn.
Hiện nay, ở các nước Mỹ, Anh, Pháp, Đứ... hoạt động vận động hành lang
đang diễn ra sôi động và ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội. Trong mối quan hệ với nhà nước, vận động hành lang thể hiện là một
“kênh" phản ánh, giám sát của các nhóm lợi ích và người dân đối với q
trình thực thi quyền lực của nhân dân. Theo nghĩa đó, vận động hành lang
mang tính chất xã hội nhưng về bản chất, nó là sự chia sẻ quyền lực giữa nhà
nước và các nhóm xã hội.
Vận động hành lang ở phương Tây dược hình thành và phát triển dựa trên
những.cơ sở lý luận nhất định và diều kiện cụ thể của nước Mỹ và Tây Âu. Vì
vậy, sự gợi mở cho việc áp dụng chúng chỉ có ý nghĩa khi được xem xét với
tư cách là một khả năng thành công hơn là một phương thuốc chắc chắn hữu
hiệu trong mọi điều kiện. Mọi sự gợi mở đều mang ý nghĩa tham khảo, tức là
có tính giáo dục nhận thức, thúc đẩy các quyết tâm chính trị và sự đồng thuận
hơn là các công thức khoa học chắc chắn. Đối với Việt vận động hành lang
(lobby) là khái niệm khá mới mẻ, nhưng lại rất phổ biến ở nhiều nước trên thế
giới. Tại Hội thảo khoa học về “Vận động hành lang - Thực tiễn và pháp
luật” do Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, Ban công tác lập pháp phối hợp tổ

1


chức gần đây, việc có nên thừa nhận lobby là một hoạt động hợp pháp hay
không vẫn đang được tranh luận sôi nổi. Tại một số quốc gia, vận động hành
lang được luật pháp thừa nhận như một hoạt động hợp pháp; những người tiến
hành các hoạt động này phải đăng ký với chính quyền và thực hiện việc báo

cáo định kỳ để bảo đảm các hoạt động này được tiến hành một cách minh
bạch, ít bị lạm dụng nhất. Nhìn chung, dù được thừa nhận cơng khai hay
khơng, vận động hành lang vẫn ngày càng trở nên quan trọng và là phần
không thể thiếu được trong các hoạt động chính trị - xã hội, mà đặc biệt là
trong các hoạt động nghị trường.
Chính vì lý do đó, tác giả tiến hành lựa chọn đề tài hết môn Vận động
hành lang của mình là: “Vận động hành lang ở Việt Nam từ nhận thức đến
thực tiễn” để tìm hiểu cụ thể vận động hành lang đã được áp dụng vào Việt
Nam như thế nào.

2


II. NỘI DUNG

2.1. Cơ sở lý luận về vận động hành lang
2.1.1 Khái niệm vận động hành lang
Nguồn gốc của thuật ngữ “vận động hành lang” (VĐHL) hay “lobbying”
vốn bắt nguồn từ chữ “lobby” nghĩa là khu vực sảnh hay hành lang chính của
một tịa nhà. Có hai ý kiến về sự ra đời của thuật ngữ vận động hành lang trên
thế giới, đó là vào những năm 1870, tổng thống thứ 18 của Mỹ Ulysses S.
Grant đã sử dụng thuật ngữ này để gọi những nhà hoạt động chính trị thường
chờ đợi ông ở khu vực sảnh của khách sạn Willard ở Washington D.C. nhằm
tìm cách tiếp cận và trao đổi các vấn đề với tổng thống. Cũng có ý kiến khác
cho rằng thuật ngữ “vận động hành lang” bắt nguồn từ những năm 1840 tại
quốc hội Anh, khi cơng dân Anh có quyền đến hành lang quốc hội để bày tỏ
những nguyện vọng của mình.
Dần dần, cùng với sự phát triển của lịch sử, thuật ngữ vận động hành lang
nay đã được sử dụng phổ biến và rộng rãi để miêu tả nỗ lực tiếp cận, thiết lập
quan hệ với các nhà hoạch định chính sách của một người hay một nhóm

người, nhằm gây ảnh hưởng lên một chính sách hoặc quyết định nhất định của
chính phủ, bảo vệ và tối đa hóa lợi ích của nhóm người đó. Cho tới nay, ngay
cả ở Mỹ, nơi các hoạt động vận động hành lang diễn ra sôi nổi với mức độ
cơng khai và tính hợp pháp cao nhất, cũng chưa có một khái niệm thống nhất
về vận động hành lang, đồng thời cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về thuật
ngữ này.
Chủ thể thực hiện vận động hành lang thường là các nhóm lợi ích (interest
group) và các chun gia vận động hành lang (lobbyist). Nhóm lợi ích là
những nhóm cơng dân tập hợp lại với nhau dựa trên cơ sở lợi ích chung về

3


kinh tế, sắc tộc… Các chuyên gia vận động hành lang thường là các nghị sĩ,
cựu nghị sĩ hoặc các quan chức cấp cao của chính quyền, những luật sư giàu
kinh nghiệm… Chính vì vậy, đây là những nhân vật có khả năng tiếp cận với
các quan chức cấp cao trong chính phủ, duy trì được các mối quan hệ chính trị
và có khả năng gây ảnh hưởng bằng uy tín của mình.
Hoạt động vận động hành lang được thực hiện thông qua nhiều hoạt động
đa dạng và phức tạp, bao gồm cả những biện pháp vận động trực tiếp và gián
tiếp, như: gặp gỡ trực tiếp các nhân vật cần tác động; liên lạc thông qua
emails, fax, điện thoại; chiêu đãi, tiệc tùng; tổ chức các buổi hội thảo tại nước
ngoài; xuất bản các bản tin, tài liệu; tác động thông qua các kênh thông tin đại
chúng, tạo sức ép từ dư luận, tổ chức các cuộc biểu tình, sử dụng uy tín của
những người đứng đầu tổ chức, tổ chức các chiến dịch cơng chúng (mít-tinh,
viết thư kêu gọi, ký tên tập thể,…); soạn thảo những dự luật có khả năng được
đệ trình; tổ chức các buổi điều trần, trả lời chất vấn chính thức và khơng chính
thức,..
Nhìn chung, vai trò và ảnh hưởng của vận động hành lang đối với các
chính sách đối nội lớn hơn nhiều so với các chính sách đối ngoại. Tuy nhiên,

dưới tác động của tồn cầu hóa, nhiều vấn đề vốn thuần túy mang tính chất
đối nội đã trở thành những vấn đề đối ngoại. Các chính phủ nước ngồi cũng
quan tâm thực hiện vận động hành lang hơn nhằm tác động lên một chính
sách ngoại giao hay kinh tế cụ thể của một quốc gia. Bởi vậy, sự xuất hiện và
tham gia gây ảnh hưởng của các nhóm vận động hành lang trên các vấn đề đối
ngoại cũng đang ngày càng gia tăng mạnh mẽ.
2.1.2. Vai trò của vận động hành lang
Thứ nhất, vận động hành lang đóng vai trị như một chiếc cầu nối giữa xã
hội với các nhà hoạch định chính sách. Vận động hành lang đem lại cơ hội
tiếp xúc, trao đổi và lắng nghe lẫn nhau giữa công chúng với các quan chức

4


trong chính phủ, từ đó, các chính sách được đưa ra sẽ phù hợp và thiết thực
hơn.
Thứ hai, vận động hành lang là một cơng cụ giúp cho những nhóm cơng
chúng cụ thể có thể góp phần tham gia vào q trình hoạch định chính sách
của nhà nước. Vận động hành lang là biện pháp hiệu quả nhất để các nhóm
lợi ích bảo vệ tối đa lợi ích của mình, hạn chế đến mức thấp nhất các chính
sách bất lợi.
Thứ ba, vận động hành lang còn là con đường giúp các chính phủ nước
ngồi tiếp cận dễ dàng hơn với chính phủ và các chính sách của một quốc gia,
thơng qua việc thuê các nhà vận động hành lang chuyên nghiệp. Nhiều chính
phủ nước ngồi đã thành cơng trong việc giải quyết các mâu thuẫn, những vấn
đề nhạy cảm trong quan hệ hai nước vốn khơng dễ hóa giải được trên các bàn
đàm phán ngoại giao.
Tuy nhiên, vận động hành lang cũng bị chỉ trích là làm phân tán quyền
lực của nhà nước, và đơi khi lợi ích quốc gia của một nước bị các nhóm sắc
tộc hay chính phủ nước ngồi ảnh hưởng. Bên cạnh đó, vận động hành lang

cũng khơng thật sự cơng bằng và tích cực khi chính sách quốc gia bị tác động
bởi một nhóm thiểu số cơng dân có quyền lực và sức mạnh về tài chính.
2.1.3. Những lợi ích mà vận động hành lang mang lại
Thứ nhất, đối với các cơ quan công quyền. Các cơ quan này thường mang
tính xơ cứng và quan liêu, khó có thể tiếp cận và thấu hiểu được các hoạt
động kinh doanh của xã hội. Thông qua các hoạt động vận động hành lang, họ
có thể tiếp nhận được một cách cụ thể, rõ ràng, chính xác và nhanh chóng các
ý chí và nguyện vọng của giới kinh doanh. Vì thế mà các chính sách của các
cơ quan công quyền gắn liền hơn đối với đời sống kinh doanh.

5


Thứ hai, đối với giới kinh doanh. Vận động hành lang là chiếc cầu nối
giữa cơ quan công quyền và giới kinh doanh. Một mặt, nó đóng vai trị như
một kênh thơng tin tích cực về hoạt động kinh doanh, ý chí nguyện vọng của
các tổ chức kinh tế tới cơ quan công quyền. Mặt khác, vận động hành lang có
tác dụng thúc đẩy các cơ quan cơng quyền phải đưa ra các chính sách phù hợp
với lợi ích của người kinh doanh nói chung và của các chủ thể vận động hành
lang nói riêng.
Thứ ba, về khả năng thực thi của các chính sách. Khi chính sách của cơ
quan công quyền đưa ra phù hợp với thực tiễn kinh doanh thì sự tiếp nhận và
thực thi của các quy định này cũng được dễ dàng và nhanh chóng hơn. Hay
một nhóm khách hàng nhất định. Người vận động hành lang có thể dùng
nhiều phương pháp, thậm chí thủ đoạn để đạt được mục đích, làm sai lệch và
ảnh hưởng đến ý nghĩa tích cực của vận động hành lang đó là phát huy dân
chủ, giúp cho ý nguyện của cử tri đến được với các cơ quan nhà nước và nhà
trức trách có thẩm quyền một cách nhanh chóng và hiệu quả, góp phần phát
hiện và giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, quan trọng về vấn đề chính
trị, kinh tế, văn hố xã hội … Để phát huy được những mặt tích cực và hạn

chế những tiêu cực của vận động hành lang, thì các quá trình vận động hành
lang phải được tiến hành một cách cơng khai, minh bạch, trong đó vấn đề cần
phải cơng khai và minh bạch hố về tài chính. Tính cơng khai, minh bạch của
vận động hành lang có nội dung phong phú, phức tạp và hiện còn nhiều ý kiến
khác nhau. Tuy nhiên, có thể khái quát những nội dung cần công khai, minh
bạch trong các hoạt động vận động hành lang ở một số điều cơ bản sau:
1. Công khai hố những thơng tin có liên quan của mọi người, doanh
nghiệp hay tổ chức đăng ký vận động hành lang (gọi tắt là người vận động
hành lang)

6


2. Cơng khai hố những thơng tin có liên quan đến khách hàng của người
vận động hành lang
3. Công khai hoá nội dung các vấn đề và chủ điểm của các hoạt động mà
khách hàng và người vận động hành lang sẽ đăng ký thực hiện
4. Cơng khai hố các kế hoạch, tiến độ thực hiện các vận động hành lang
5. Cơng khai hố tên của những chủ thể quyền lực mà người vận động
hành lang đã hoặc dự kiến tiến hành các cuộc tiếp xúc, trao đổi, vận động
6. Cơng khai hố những vấn đề về kĩ thuật, kỹ năng thông tin mà người
vận động hành lang đã hoặc dự kiến sẽ sử dụng trong quá trình tiến hành các
hoạt động cụ thể
7. Cơng khai hố những vấn đề về tài chính có liên quan đến người vận
động hành lang và khách hàng của những người vận động hành lang
8. Người vận động hành lang phải cam kết không thực hiện những điều
cấm trong qúa trình thực hiện các hoạt động vân động hành lang
9. Người vận động hành lang phải thực hiện việc báo cáo theo quy định;
phải lưu giữ đầy đủ các thơng tin, dữ liệu có liên quan đến các hoạt động của
mình

10. Người vận động hành lang có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ thơng tin cho
người có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra khi được u cầu …
Tóm lại, tính cơng khai, minh bạch của vân động hành lang là vấn đề có
tính ngun tắc, là yêu cầu bắt buộc trong quá trình tiến hành các hoạt động
vận động hành lang. Tính cơng khai minh bạch của vận động hành lang có
những nội dung phong phú và phức tạp. Những nội dung được nêu trên đây
chỉ là một số chủ điểm và trong mỗi chủ điểm này lại chứa đựng rất nhiều nội

7


dụng chi tiết cần phải tính đến và mơ tả cụ thể mới có thể có được những quy
định sát hợp
Trên thực tế thì, mặc dù vận động hành lang đã và đang diễn ra một cách
phổ biến trong hầu hết các quốc gia, nhưng việc pháp luật của mỗi quốc gia
có quy định chính thức và quy định đến mức nào về tính cơng khai, minh
bạch và những u cầu về đạo đức của người vận động hành lang đối với việc
bảo đảm tính cơng khai minh bạch lại rất khác nhau.
2.2.4 Mặt trái của vận động hành lang
Thứ nhất, VĐHL rất tốn kém, địi hỏi nguồn tài chính lớn, vì vậy chỉ giới
chủ giàu có mới có nhiều khả năng tiến hành vận động hành lang; còn ý kiến,
nguyện vọng của những người dân nghèo yếu thế khó có cơ hội đến với chính
quyền và được thể hiện trong chính sách. Trong q trình hoạt động VĐHL,
từ thu thập thông tin, tiếp cận quan chức thông qua những bữa tiệc, đi dã
ngoại... đòi hỏi phải chi nhiều tiền. Để có một quyết định có lợi cho mình, các
nhóm phải bỏ ra một khoản kinh phí khơng nhỏ để đầu tư cho các mối quan
hệ với các quan chức hoặc để th các nhà VĐHL nổi tiếng. Chính vì vậy,
thường đứng đằng sau các tổ chức VĐHL chuyên nghiệp là những tập đồn
kinh tế lớn. Đây chính là nguy cơ biến dạng nền dân chủ, vì các thế lực tài
chính hùng mạnh ln chiếm ưu thế trong các cuộc đua vận động và vì quyền

lợi của nhóm, họ sẵn sàng bóp méo cơng lý. Phần thua thiệt thường là các
nhóm dân cư nghèo, khơng có tiền để th các nhà VĐHL. Việc VĐHL bị chi
phối bởi đồng tiền phản ánh một thực trạng phổ biến của đời sống chính trị
phương Tây: VĐHL của người giàu, do người giàu và vì người giàu. Nhìn
trên bình diện xã hội nói chung thì đất nước đã phải tiêu tốn khá nhiều tiền
bạc vào hoạt động VĐHL, gây lãng phí các nguồn lực xã hội.
Thứ hai, VĐHL là môi trường cho tham nhũng, hối lộ, thúc đẩy sự tha
hoá quan chức.Trên thực tế, đồng tiền khi dan díu với quyền lực sẽ dễ dẫn

8


đến nguy cơ bóp méo quyền lực. Đối tượng được VĐHL là các quan chức nhà
nước, nghị sĩ quốc hội, những người nắm trong tay quyền lực nhà nước và cả
các nhà khoa học, nhà hoạt động xã hội. Họ sẽ là mục tiêu đeo bám của các
nhà VĐHL chuyên nghiệp. Thông qua các buổi chiêu đãi, hội thảo, du lịch,
các món quà, tặng vé xem ca nhạc, thể thao... họ đã cho các vị quan chức trực
tiếp hoặc gián tiếp sử dụng tài chính của các ơng chủ th họ. Thậm chí
phong bì cịn được chuyển đến tay các vị quan chức này. Hoạt động VĐHL
một khi đã bị chi phối bởi tiền bạc thì sẽ dẫn đến hậu quả là làm biến chất đội
ngũ quan chức nhà nước từ trung ương đến địa phương, cả về mặt đạo đức lẫn
nghề nghiệp. Đội ngũ này sẽ trở thành “tù nhân của các nhà VĐHL”, sẵn
sàng tham gia vào cuộc “mua bán chứng khốn chính trị”. Họ sẽ khơng phải
là những người đại diện cho tiếng nói cử tri, cho sức mạnh quyền lực nhà
nước mà là đại diện cho tiếng nói của đồng tiền, cho sức mạnh của các tập
đồn tư bản.
Thứ ba, VĐHL có thể đưa đến nguy cơ bế tắc trong chính sách.Về lý
thuyết, chính sách ra đời nhằm giải quyết các vấn đề đang tồn tại hoặc mới
phát sinh của đời sống xã hội, từ đó tạo ra động lực mạnh mẽ cho phát triển.
Không thể có sự phát triển bền vững nếu khơng có một chính phủ mạnh, hoạt

động hiệu quả. Hiệu quả của một chính phủ đạt được khi nó có khả năng đề ra
và thực hiện các chính sách đáp ứng những yêu cầu cơ bản cho sự phát triển
quốc gia. Trong khi đó, hoạt động VĐHL chỉ có thể làm tăng vai trị và sức
mạnh của các nhóm lợi ích cũng như quan chức được bầu, đồng thời phần nào
làm suy yếu đi quyền lực nhà nước. Chính địi hỏi mạnh mẽ của các nhóm lợi
ích cạnh tranh với nhau dẫn đến những tranh cãi có thể kéo dài trong nhiều
năm xung quanh việc xây dựng và ban hành chính sách, dẫn tới hậu quả là
kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế - xã hội. Do nguồn lực có hạn, nhà nước
khơng thể thỏa mãn được nhu cầu của mọi nhóm đối tượng trong xã hội nên
một chính sách được đưa ra bao giờ cũng mang lại những lợi ích cho nhóm

9


này và gây tổn hại đến lợi ích của một nhóm khác. Vì vậy, các nhóm lợi ích
càng mạnh thì sự đấu tranh giữa chúng càng tăng và áp lực lên quyền lực nhà
nước càng lớn, khả năng bế tắc trong chính sáchcàng cao. Sự đấu tranh quyết
liệt của các nhóm có lợi ích khác biệt nhau xoay quanh từng vấn đề cụ thể đã
làm cho nhiều chính sách khơng được thông qua, gây thiệt hại lớn đến sự phát
triển của đất nước và làm suy giảm uy tín và sức mạnh của nhà nước trong
việc ban hành chính sách. Sự bế tắc trong chính sách diễn ra cịn bởi các
nhóm lợi ích ln có xu hướng đấu tranh địi xố bỏ những dự luật, những
chính sách cịn ở dạng khởi thảo có lợi cho xã hội nhưng lại ảnh hưởng đến
lợi ích của họ.
2.2. Vận động hành lang ở Việt Nam từ nhận thức đến thực tiễn.
2.2.1. Thực tiễn hoạt động vận động hành lang ở Việt Nam
Vấn đề có hay khơng hoạt động vận động hành lang ở Việt Nam hiện
nay đang gây nhiều tranh cãi trong giới nghiên cứu. Nhưng có một thực tế là
trong q trình hội nhập quốc tế, chúng ta đã nhiều lần phải đối mặt với
những khó khăn trên chính trường và thị trường thế giới, và đã sử dụng hoạt

động vận động hành lang như một phương thức hiệu quả để đạt mục tiêu đề
ra. Thực tiễn chính trị và kinh tế thế giới đã và đang này sinh nhiều vấn đề
mới, trong đó có vận động hành lang, địi hỏi phải làm rõ về lý luận và thực
tiễn để chúng ta chủ động lập kế hoạch ứng phó. Nếu khơng tiến hành vận
động hành lang, chúng ta khó có thể thành công trong cuộc cạnh tranh gay gắt
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống quốc tế. Chính vì vậy, các nhà quản lý và
khoa học đã tổ chức nhiều hội thảo bàn về vận động hành lang, tiêu biểu là
hội thảo ở Vạn Chài, Thanh Hóa (3-2007) với chủ đề: Vận động hành lang thực tiễn và pháp luật; ở Thành phố Hồ Chí Minh (5-2007) với chủ đề: Làm
ăn với Mỹ phải biết lobby; ở Hà Nội (7-2007) với chủ đề: Vận động hành
lang trong quá trình hội nhập; ở Hạ Long (12-2007) với chủ đề: Vận động
chính sách thực tiễn và pháp luật.

10


Trong các cuộc hội thảo nêu trên, hầu hết các nhà quản lý, nhà khoa
học cho rằng, vận động hành lang đã và đang tồn tại ở nước ta dưới nhiều
hình thức khác nhau và có ảnh hưởng nhất định đến đời sống chính trị, kinh tế
- xã hội (mặc dù cho đến nay, chưa có văn bản nhà nước nào sử dụng thuật
ngữ vận động hành lang).
Ơng Nguyễn Đình Lộc (Nguyên Bộ trưởng Tư pháp) cho rằng, vận
động hành lang ở Việt Nam vốn đã có từ lâu nhưng chúng ta chưa để ý đến
nó, và vấn đề là ta chưa coi nó là hiện tượng của đời sống xã hội. Hoạt động
này xuất hiện ngay khi con người có quyền lực chính trị. Khi nào có quyền
lực, có quyền ra quyết định, và quyền đó lại động chạm đến lợi ích từng bộ
phận, cá nhân thì người ta tác động đến việc ra quyết định đó'. Nghĩa là, vận
động hành lang là một nhu cầu khách quan.
Giáo sư, tiến sĩ Đào Trí Úc cũng khẳng định: vận động hành lang ở
Việt Nam đã có nhiều và nó là một tiến trình chính trị - xã hội. Về cơ bản, nó
là hiện tượng tích cực, phản ánh lợi ích, đa dạng hóa lợi ích và dân chủ hóa

q trình tiếp nhận ý kiến. Đó là lý do của khái niệm dân chủ hóa mà chúng ta
rất cần hướng đến.
Ơng Nguyễn Văn Hòe cho rằng, vận động hành lang là hiện tượng xã
hội, đã tồn tại ở Việt Nam từ trước đến nay. Vận động hành lang mang lại lợi
ích chung, nó thúc đẩy xã hội phát triển. Qua các hoạt động vận động hành
lang, Nhà nước sẽ có chính sách tốt, phản ánh được lợi ích của dân, cộng
đồng, hình thành và phát triển xã hội dân chủ...
Có ý kiến cho rằng, hiện nay ở nước ta đang có hai nhóm vận động
hành lang bảo đảm lợi ích của các nhà quản lý và doanh nghiệp: 1) Các bộ
phận có biên chế nhỏ trong cơ cấu các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, các
tập đồn, tổng cơng ty (các trung tâm nghiên cứu, thông tin hoặc tư vấn,
chuyên gia về các mối liên hệ xã hội…); 2) Những người tư vấn và thẩm định
11


ngoài biên chế, những cộng tác viên khoa học. Các nhà quản lý và doanh
nghiệp thường sử dụng các hình thức vận động hành lang sau: Tiếp xúc cá
nhân với những người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước; tham gia phiên
họp của các ủy ban, các hội đồng Quốc hội; làm việc trong các nhóm thẩm
định của các cơ quan nhà nước; nghe báo cáo các dự luật; tác động thông qua
dư luận xã hội và truyền thông đại chúng; các bản báo cáo của các cơ quan
quản lý và kinh doanh đối với các cơ quan nhà nước; các cuộc gặp gỡ với
những nhà lãnh đạo cao cấp Nhà nước. Nghĩa là họ là những người vận động
hành lang “bên trong”. Ngồi ra, ở nước ta cịn có những người hoạt động vận
động hành lang tình nguyện, bảo vệ những lợi ích chung, tuy nhiên ảnh hưởng
chưa lớn. Cho dù chưa có luật để trật tự hóa hoạt động của các nhóm lợi ích
nhưng thực tiễn hoạt động của vận động hành lang đã có. Chủ nghĩa vận động
hành lang với tư cách là một hiện tượng quản lý đã bắt đầu được hình thành ở
nước ta.
Có một điều đáng nói là ở Việt Nam hiện nay, sự tham gia của các hiệp

hội, doanh nghiệp (một trong những chủ thể cơ bản của hoạt động vận động
hành lang) vào q trình vận động chính sách là rất lớn. Theo thống kê chưa
đầy đủ của Phòng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam (VCCI), tính đến
cuối năm 2004, có gần 300 hiệp hội, doanh nghiệp trên cả nước, trong đó tập
trung chủ yếu tại các trung tâm kinh tế lớn như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Bà Rịa – Vũng Tàu. Chỉ riêng Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh đã chiếm đến hơn 42% tổng số hiệp hội, doanh nghiệp
trong cả nước.
Trên bình diện chung, VCCI là chủ thể tích cực trong các hoạt động
vận động chính sách tại Việt Nam. Các hoạt động vận động chính sách của
VCCI bao gồm: Tham gia trực tiếp vào các ban soạn thảo văn bản pháp luật,
pháp quy; tham gia phản biện chính sách, góp ý các văn bản quy phạm pháp
luật; tham gia tổ cơng tác thi hành pháp luật và chính sách; thơng qua đại diện
12


hiệp hội tại một số cơ quan dân cử như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp;
đối thoại tại các cuộc đối thoại thường kỳ giữa Chính phủ và doanh nghiệp;
gửi các cơng văn kiến nghị tới Chính phủ trong việc xây dựng, sửa đổi các
văn bản quy phạm pháp luật không phù hợp.
Một số hiệp hội khác, do tính chất đặc thù, cũng có sự phát triển và có
vai trị ảnh hưởng nhất định tới việc đưa ra các chính sách của các cơ quan,
bộ, ngành. Ví dụ như Hiệp hội các nhà sản xuất ôtô Việt Nam (VAMA), Hiệp
hội Thép Việt Nam… Hiệp hội Ơtơ Việt Nam có vai trị rất lớn tác động tới
Bộ Tài chính trong việc đưa ra các quyết định thuế nhập khẩu ôtô, ôtô cũ.
Hiệp hội Thép Việt Nam cũng tích cực tham gia các hoạt động chính sách có
liên quan. Tuy nhiên, nhiều hiệp hội khơng tích cực, chủ động vận động hành
lang nên dễ gặp rủi ro.
Như vậy, có thể khẳng định hoạt động vận động hành lang ở Việt Nam
đang tồn tại với tên gọi “Vận động chính sách”. Vận động chính sách từ trước

đến nay nói chung mới chỉ nhằm giải quyết các vấn đề mang tính tình thế là
chính, trên thực tế hoạt động này chưa chủ động tham gia vào q trình xây
dựng chính sách. Những hoạt động vận động chính sách diễn ra rõ nét nhất là
phản ứng, kiến nghị lên cấp có thẩm quyền, tạo áp lực trên các phương tiện
truyền thông, hay tổ chức tư vấn, phản biện… của các nhóm xã hội khi chính
sách ban hành bất lợi cho họ, thay vì mục tiêu phát triển của xã hội; hoặc
tham gia tham vấn, góp ý kiến khi Chính phủ và ban soạn thảo yêu cầu…
Thực tế hoạt động này (chủ yếu là hoạt động của các hiệp hội, doanh nghiệp)
đã góp phần khá lớn vào việc ban hành các chính sách của Quốc hội, Chính
phủ. Nhưng do thiếu vắng một khn khổ pháp luật quy định về vận động
hành lang nên các hình thức vận động hành lang khơng chính thức vẫn xảy ra
thường xuyên, gây ra tình trạng tham nhũng, hối lộ và làm giảm đi tính chất
tích cực của hoạt động này.

13


Cũng có nhiều ý kiến cho rằng, cùng với xu thế chung của thế giới, các
hoạt động vận động hành lang “đen”, khơng chính thức phải sớm được thay
thế bởi vận động hành lang của hiệp hội kinh tế. Một loại hình dịch vụ mới
cần được ra đời sớm, đó là các công ty chuyên thực hiện các hoạt động vận
động hành lang, các cơng ty này sẽ đóng vai trò là cầu nối giữa các hiệp hội
kinh tế và các cơ quan cơng quyền nói riêng và các nhóm lợi ích nói chung.
Trong thời gian tới, các quan hệ kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế diễn ra
ngày càng sâu rộng. Các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp khơng những
chịu ảnh hưởng từ phía cơ quan nhà nước, mà cịn từ các quyết định, chính
sách của các nước khác. Vận động hành lang sẽ là một kênh lưu chuyển thông
tin và tác động lớn đối với chính phủ nước ngồi nhằm đạt được các chính
sách có lợi cho doanh nghiệp. Việc liên kết giữa các hiệp hội kinh tế trong
nước với nước ngoài, với các tổ chức vận động hành lang ở các nước cần sớm

phải thiết lập.
Như vậy, có thể khẳng định lại rằng, vận động hành lang đã và đang
tồn tại ở nước ta. Tuy nhiên, hoạt động này lại chưa được pháp luật thừa
nhận. Biểu hiện của nó là chưa có một khung pháp lý nào điều chỉnh, hướng
dẫn, quản lý hoạt động này. Hiện nay, hầu hết các ý kiến của các nhà khoa
học đều thống nhất nên xem vận động hành lang như một hiện tượng xã hội
đang tồn tại ở Việt Nam như một tất yếu.
2.2.2 Sự cần thiết tăng cường hoạt động vận động hành lang ở Việt
Nam hiện nay
Vận động hành lang là một xu thế khách quan, nên các hoạt động này
tồn tại ở Việt Nam cũng là bình thường. Các cơ quan lập pháp ln cần và
mong muốn có những thơng tin liên quan, bổ sung cho chính sách sắp ban
hành; mặt khác họ cũng cần sự ủng hộ từ phía cơng chúng, và các hoạt động
vận động hành lang được coi như là phương tiện để củng cố quyền lực của
các cơ quan công quyền. Do đó, vận động hành lang là việc cần thiết, nhất là

14


trong điều kiện Việt Nam đang xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh, một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay, khi tính cạnh tranh ngày
một gay gắt và khốc liệt, các hiệp hội, doanh nghiệp, các công ty Việt Nam
muốn làm ăn, buôn bán với các đối tác nước ngồi vì thế cũng gặp nhiều khó
khăn. Trở ngại lớn đến từ việc các đối tác nước ngồi là họ ln muốn áp đặt
một mức thuế nhập khẩu cao chống bán phá giá đối với các mặt hàng của ta
để bảo vệ sản xuất trong nước. Và để đi đến các quyết định kiện doanh nghiệp
của Việt Nam, các cơ quan cơng quyền nước ngồi đã phải chịu sự tác động
của hoạt động vận động hành lang do chính các hiệp hội, doanh nghiệp tại
nước đó tiến hành. Ví dụ như đối với vụ kiện cá da trơn của Việt Nam, Hiệp

hội Cá da trơn Mỹ đã chi ra gần nửa triệu USD để vận động Quốc hội Mỹ
thông qua Nghị quyết cấm nhập cá từ Việt Nam mang tên Catfish.
Quyết định này vô lý đến mức người Pháp cũng bất bình, họ nói rằng:
từ nay người Pháp gọi cua của Mỹ nhập vào Pháp là nhện biển chứ không
được gọi là cua nữa... Tuy bất hợp lý như vậy, như cuối cùng Quốc hội Mỹ
vẫn thông qua. Hay như Liên minh ngành sản xuất giày da châu Âu (CEC) đã
tiến hành vận động hành lang để Ủy ban châu Âu ra Nghị quyết kiện Việt
Nam bán phá giá các sản phẩm giầy có mũi từ da... Do đó, Việt Nam cần đến
chính hoạt động vận động hành lang để có được những quyết định có lợi cho
mình trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Sự cần thiết của hoạt động vận động hành lang ở Việt Nam không chỉ
xuất phát từ rất nhiều vụ kiện bán phá giá, mà nó cịn được biết đến như một
hoạt động khơng thể thiếu trong q trình tác động để có thể xuất khẩu được
các mặt hàng có tính cạnh tranh cao sang , bất kỳ một thị trường nào. Ví dụ
như giầy dép, dệt may, thủy sản là những mặt hàng xuất khẩu không chỉ của
Việt Nam, mà đó cịn là thế mạnh của nhiều nước như Trung Quốc, Ấn Độ,

15


Thái Lan, Malaixia, Inđơnêxia, Braxin,... Do đó, bên cạnh việc thường xuyên
nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu, các doanh nghiệp cũng cần tính đến
những hoạt động vận động hành lang chuyên nghiệp tại các nước đối tác để
giành được sự ưu ái và quyết định nhập khẩu những mặt hàng này của Việt
Nam thay cho các nước khác.
Việc Việt Nam thành công trong đạt được Quy chế Thương mại bình
thường vĩnh viễn (PNTR) với Mỹ, đạt được thỏa thuận gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), trở thành thành viên không thường trực của Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009,... đều không thể thiếu dấu
ấn của hoạt động vận động hành lang, thậm chí trong những hồn cảnh cụ thể,

hoạt động này đóng vai trị rất quan trọng. Do đó, với những kinh nghiệm hội
nhập quốc tế, trong thời gian tới chúng ta cần phải chủ động nghiên cứu và
tiến hành hoạt động vận động hành lang một cách chuyên nghiệp hơn, tránh
bị động giải quyết tình thế (việc đã rồi mới tiến hành vận động). Khi chủ động
sẽ giảm chi phí vận động và mang lại thành cơng thậm chí ngồi sự mong đợi.
Như vậy, hoạt động vận động hành lang ở Việt Nam khơng chỉ cần
thiết cho q trình ra các quyết định chính trị của các tổ chức Đảng, cơ quan
nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, mà nó cịn cần thiết cho q trình hội
nhập, bn bán, làm ăn với các đối tác nước ngoài của Việt Nam. Điều cần
thiết là chúng ta phải làm rõ hoạt động này, cả về lý luận và thực tiễn, tận
dụng những giá trị tích cực của nó, tiến tới ban hành những quy định cụ thể về
hoạt động vận động hành lang ở Việt Nam.
2.3 Một số kiến nghị nhằm công nhận và đẩy mạnh hoạt động vận
động hành lang ở Việt Nam
Chúng ta cần xem xét vận động hành lang như một giá trị chính trị
chung cho tất các các chế độ chính trị, và nên thừa nhận nó, vận dụng nó một
cách sáng tạo để tận dụng những giá trị tốt đẹp. Trên cơ sở nghiên cứu hoạt

16


động vận động hành lang ở các nước phương Tây, có thể thấy được một số
gợi mở đối với hoạt động vận động hành lang ở Việt Nam như sau:
a. Cần đẩy mạnh nghiên cứu để làm rõ lý luận về hoạt động vận động
hành lang ở nước ta trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm các nước phương Tây
Trước hết căn cứ vào những quy định trong Hiến pháp1992:
Công dân Việt Nam có quyền “tham gia vào quản lý nhà nước và xã
hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến
nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý
dân” (Điều 53). Ở mức độ tham gia cao hơn, Hiến pháp ghi nhận quyền làm

chủ ở cơ sở của công dân: “Công dân thực hiện quyền làm chủ của mình ở
cơ sở bằng cách tham gia công việc của Nhà nước và xã hội... tổ chức đời
sống cơng cộng”. Về vai trị và nghĩa vụ hợp tác của người đại biểu nhân
dân với cử tri trong thực hiện “quyền tham gia”, Điều 97 Hiến pháp năm
1992 - sửa đổi năm 2001 quy định: “Đại biểu Quốc hội... không chỉ đại diện
cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình, mà cịn đại diện cho nhân dân cả
nước”. Như vậy, về nguyên tắc, mọi công dân đều có quyền tiếp xúc và yêu
cầu đại biểu Quốc hội lắng nghe ý kiến của mình và phản ánh trung thực ý
kiến đó với Quốc hội và các cơ quan nhà nước hữu quan. Trong khi đó, tại
địa phương, đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ chủ động “động viên
nhân dân tham gia quản lý Nhà nước” (Điều 121).
Như vậy, Hiến pháp đã ghi nhận quyền tham gia đầy đủ của nhân dân
vào đời sống chính trị và quá trình ra quyết định của các cơ quan nhà nước,
đặc biệt là quyền yêu cầu đại biểu Quốc hội lắng nghe và truyền đạt ý kiến
của nhân dân đến các cơ quan có thẩm quyền. Đây là căn cứ pháp lý quan
trọng để khẳng định vai trò của nhân dân tham gia hoạch định chính sách,
pháp luật của Nhà nước:

17


+Pháp luật do Quốc hội ban hành theo sự ủy nhiệm của người dân; do
đó người dân có quyền tham gia ý kiến trong quá trình xây dựng pháp luật.
Đây là ý nghĩa chính trị của sự ủy quyền trong chế độ dân chủ đại diện. Ủy
quyền không chỉ là nhân dân trao tồn bộ quyền lực của mình cho Quốc hội
mà cịn giám sát và góp ý hoạt động của Quốc hội.
+ Pháp luật được ban hành như một mặt bằng chuẩn chung nhằm điều
chỉnh hành vi của các thành viên trong xã hội vốn không đồng nhất về lợi ích,
quyền lợi và địa vị kinh tế, chính trị cũng như những khác biệt khác (về giới,
về nhóm dân tộc, các nhóm lợi ích khác nhau trong xã hội). Do tính chất

khơng đồng nhất này, hay cịn gọi là sự khơng cân xứng về vị thế và lợi ích
của đối tượng áp dụng, nên các nhóm xã hội cần được bày tỏ quan điểm và
vận động các quan chức nhà nước chú ý tới mặt bằng không đồng đều này để
ban hành những quy phạm ngoại lệ, quy phạm ưu đãi có điều kiện hoặc chọn
một giải pháp lập pháp giản tiện và hiệu quả hơn nhằm cân bằng lợi ích.
Xuất phát từ hai luận điểm trên đây, sự tham gia ý kiến một cách chủ
động của những đối tượng bị điều chỉnh bởi chính sách và pháp luật sẽ giúp
bảo đảm tính thực tế của pháp luật và qua đó bảo đảm tính khả thi cao.
Vận động hành lang là một trong những hình thức hoạt động chính trị
cơ bản của các nước phương Tây, nhưng chưa được công nhận ở Việt Nam.
Đây là vấn đề phức tạp và nhạy cảm, đòi hỏi phải tập trung nghiên cứu một
cách cơng phu trong một cơng trình lớn. Cơng trình đó phải là sự kết tinh trí
tuệ của các nhà khoa học chính trị, các nhà luật học, các nhà lập pháp và thực
thi chính sách, các nhà ngoại giao, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức xã
hội... Trên cơ sở khảo sát kinh nghiệm hoạt động vận động hành lang của các
nước tiên tiến trên thế giới, cơng trình phải tập trung làm rõ khái niệm cũng
như các phương thức vận động hành lang chủ yếu ở Việt Nam, bản chất của
vận động hành lang, vận động hành lang có phụ thuộc vào bản chất chế độ

18



×