Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Hệ thống Chính trị Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.07 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
Trang
A – MỞ ĐẦU……………………………………………………………………1
B – NỘI DUNG ………………………………………………………………...2
I. Một số vấn đề về quyền lực chính trị và hệ thống chính trị …………..2
1. Quyền lực chính trị………………………………………………………..
2. Hệ thống chính trị…………………………………………………………
3. Bản chất và đặc điểm của hệ thống chính trị ……………………………..
4. Vị trí, vai trị, nhiệm vụ của tổ chức chính trị trong hệ thống chính trị…..
II. Nội dung, phương hướng, cơ bản đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị. 8
1. Đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của Đảng……………………
2. Đổi mới nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước……………………..
3. Đổi mới và kiện tồn các đồn thể chính trị - xã hội……………………..
C- KẾT LUẬN…………………………………………………………………..10


A- MỞ ĐẦU
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của
Đảng ta năm 1991 đã khẳng định.”Tồn bộ hệ thống chính trị ở nước ta trong giai
đoạn mới là nhằm xây dựng và hoàn thiện từng bước nền dân chủ XHCN, đảm bảo
quyền lực thuộc về nhân dân”.
Thực hiện quan điểm trong Cương lĩnh của Đảng , những năm qua trong khi
lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm , chúng ta cũng đã từng bước đổi mới hệ thống
chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng , hiệu lực quản lý của Nhà nước , tính tích cực
chủ động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội ngày càng
được nâng lên , ý thức và quyền làm chủ của nhân dân tham gia vào công việc quản
lý Nhà nước ngày càng phát triển và mở rộng. Nhờ vậy nhịp độ tăng trưởng kinh tế
nhanh, chính trị ổn định,đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện nâng lên.
Trong khi khẳng định những bước tiến đó,chúng ta cũng thấy rằng so với yêu
cầu thực tiễn , sự lãnh đạo của Đảng chưa được nâng cao đúng mức; Mặt trận tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cịn kém năng động, đội ngũ cán bộ đồn thể


vẫn chưa khắc phục được tình trạng” cơng chức hóa, hành chánh hóa”. Một bộ
phận cán bộ có biểu hiện suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống “ tự diễn
biến”, “ tự chuyển hóa”. Trong khi cả thời cơ lẫn thách thức lớn đang đặt ra trước
hệ thống chính tri nước ta những vấn đề cấp bách cần được giải quyết. Những yếu
kém đó dẫn tới vi phạm nghiêm trọng. Chỉ bằng cách tiếp tục đổi mới hệ thống
chính trị mới có thể nâng cao quyền làm chủ của nhân dân, với tư cách vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của quá trình đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, để đi sâu tìm hiểu vấn đề quyền lực
chính trị của nhân dân lao động trong tiến trình đổi mới hệ thống chính trị và có
một những giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo quyền lực chính tri của nhân dân lao
động ở nước ta hiện nay, đó là lý do để em chọn đề tài viết bài thu hoạch “ Quyền
lực chính trị và đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta ”.


B- NỘI DUNG
I- Một số vấn đề về Quyền lực chính trị và Hệ thống chính trị.
1- Quyền lực chính trị.
Quyền lực chính trị là quyền lực của một giai cấp hay của liên minh giai
cấp, tập đoàn xã hội, (hoặc của nhân dân – trong điều kiện CNXH), nó nói lên khả
năng của một giai cấp thực hiện lợi ích của mình.
Mác – Ăngghen đã chỉ ra rằng: “ Quyền lực chính trị theo ngun nghĩa của
nó , là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp giai cấp khác”.
Là một bộ phận quyền lực trong xã hội có giai cấp, quyền lực chính trị bao
giờ cũng mang tính giai cấp. Nó ln mang tính thống nhất về cơ bản trong sự biểu
hiện ra bên ngồi của mình : Trong quan hệ nội bộ của giai cấp hay liên minh giai
cấp, quyền lực chính trị có thể chứa đựng những mâu thuẩn , thậm chí cả những đối
kháng. Quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền được tổ chức thành nhà nước .
Do vậy xét về bản chất, quyền lực nhà nước là quyền lực của giai cấp thống trị . Nó
được thực hiện bằng cả một hệ thống chuyên chính do giai cấp đó lập ra. Cho nên
quyền lực nhà nước được thực hiện bằng nhiều công cụ khác nhau.

Là bộ phận quan trọng nhất của quyền lực chính trị, sự thay đổi căn bản của
quyền lực Nhà nước bằng việc chuyển chính quyền Nhà nước từ tay giai cấp này
sang giai cấp khác sẽ trực tiếp dẫn tới thay đổi căn bản tính chất chế độ chính trị.
Bất kỳ quyền lực Nhà nước nào cũng mang tính chính trị, nhưng khơng phải mọi
quyền lực chính trị điều mang tính Nhà nước.
2- Hệ thống chính trị.
Một số quan niệm về hệ thống chính trị .
Quan niệm thứ nhất: Xem hệ thống chính tri chỉ bao gồm những tổ chức
chính trị - xã hội mang bản chất của giai cấp cầm quyền , hoặc là phục vụ cho
quyền lực chính trị của giai cấp đó. Với cách hiểu như vậy ,” hệ thống chính trị”,
chỉ là cách gọi khác của phạm trù “ hệ thống chuyên chính của giai cấp cầm


quyền”. Đó là những phạm trù đồng nhất – xét về ngoại diên và nội hàm của chúng.
Hệ thống chính trị trong CNTB chính là hệ thống chuyên chính tư sản. Hệ thống
chính trị trong CNXH là hệ thống chuyên chính vơ sản.
Quan niệm thứ hai: Xem hệ thống chính trị là một phạm trù có ngoại diên rộng
hơn so với phạm trù hệ thống chuyên chính của giai cấp cầm quyền . Trong hệ
thống chính trị, ngồi hệ thống chuyên chính của giai cấp cầm quyền với tư cách là
bộ phận cơ bản, quan trọng nhất, quy định bản chất và chức năng cơ bản của toàn
bộ hệ thống, cịn các tổ chức , các thiết chế chính trị hợp pháp khác.
Phù hợp với quan điểm này, hệ thống chính trị được hiểu là một phạm trù
dung để chỉ chỉnh thể bao gồm Nhà nước, các đảng phái chính trị hợp pháp, những
ưu thế cơ bản và vai trò chủ đạo thuộc về các thiết chế của giai cấp cầm quyền để
tác động vào các quá trình kinh tế - xã hooijnhawmf cũng cố, duy trì và phát triển
chế độ xã hội đương thời. Như vậy ta có thể hiểu:
- Hệ thống chính

×