MỤC LỤC
A. Một số vấn đề chung .............................................................................................. 3
I. Khái quát về thể loại phóng sự .......................................................................... 3
1. Khái niệm: ........................................................................................................ 3
2. Nội dung:........................................................................................................... 3
3. Nghệ thuật: ....................................................................................................... 3
II. Tác giả và tác phẩm .......................................................................................... 3
1. Tác giả: ............................................................................................................. 3
1.1 Cuộc đời ........................................................................................................... 3
1.2 Sự nghiệp và phong cách nghệ thuật ............................................................. 5
1.2.1 Sự nghiệp: ...................................................................................................... 5
1.2.2 Phong cách nghệ thuật: ............................................................................... 5
2 Tác phẩm: ............................................................................................................ 6
B. Giá trị tác phẩm “Kĩ nghệ lấy Tây” ..................................................................... 7
I. Nội dung ............................................................................................................. 7
Tóm tắt tác phẩm: ............................................................................................................ 7
1. Phản ánh hiện thực xã hội một cách chân thực .............................................. 8
1.1. Sức mạnh của thế lực đồng tiền .................................................................... 9
1.1.1. Sự tha hóa của người phụ nữ trước thế lực đồng tiền .............................. 9
1.1.2. Xuất hiện những cảnh học nghề, dạy nghề, dắt mối ăn tiền .................... 10
1.2. Sự xuống cấp đạo đức của con người bởi những thủ đoạn phi nhân phi
nghĩa – phi luân thường đạo lý ............................................................................. 10
2. Số phận của những me Tây ............................................................................... 11
2.1. Cô đơn, bơ vơ lạc lõng khi nhan sắc tàn phai .............................................. 11
2.2. Bị chà đạp trong vũng bùn nhơ vật chất và làm “ nô lệ” cho những dục
vọng thấp hèn của bọn lính Tây .................................................................................... 12
3. Thái độ của nhà văn. .......................................................................................... 12
3.1. Thái độ lên án, bài trừ cái xấu ....................................................................... 13
3.2. Thái độ thương cảm , xót xa đối với số phận Me tây ................................... 14
3.3. Xót thương cho số phận của những đứa trẻ con lai hồn nhiên và đáng
thương. ........................................................................................................................... 16
II. Nghệ thuật ........................................................................................................ 17
1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật: ....................................................................... 17
2. Giọng điệu, ngôn ngữ ......................................................................................... 17
2.1. Giọng điệu ........................................................................................................ 17
2.1.1 Giọng điệu trào phúng .................................................................................. 18
2.1.2. Giọng điệu thông cảm, chia sẻ..................................................................... 21
1
2.2. Ngôn ngữ ........................................................................................................ 22
3. Kết cấu ................................................................................................................. 23
3.1. Kết cấu kiểu mảnh ghép ............................................................................... 24
3.2. Kết cấu chương hồi ....................................................................................... 26
III. Bình luận về giá trị của tập phóng sự “Kỹ Nghệ Lấy Tây” ......................... 27
IV. Tổng kết ........................................................................................................... 29
Tài liệu tham khảo ................................................................................................. 31
2
A. Một số vấn đề chung
I. Khái quát về thể loại phóng sự
1. Khái niệm:
Phóng sự là thể loại ghi chép kịp thời sự việc nhằm sáng tỏ trước công luận một vấn
đề có liên quan đến đời sống cộng đồng. Vấn đề này có tính thời sự và cung cấp thơng tin
đầy đủ, chính xác. Phóng sự có giá trị văn học đi sâu khắc họa thế giới nội tâm, miêu tả
tính cách nhân vật với lời văn giàu chất hình ảnh và cảm xúc.
2. Nội dung:
Phóng sự thường chính xác và khách quan. Phóng sự phải biểu đạt đúng bản chất sự
việc, hiện tượng trong từng thời khắc nhất định, trong bối cảnh cụ thể nhằm tạo ra một
văn bản đơn nghĩa, dễ hiểu.
Mặt khác, phóng sự phải miêu tả, kể lại câu chuyện một cách cô đọng, logic, hàm
súc, cung cấp một lượng thông tin cao, không dư thừa về cuộc sống và sự kiện.
Phóng sự cịn biểu đạt chân thực những trạng thái tình cảm, cảm xúc, tâm lí, thái độ,
ý kiến của đối tượng được miêu tả và chính tác giả có thể tác động đến nhận thức tình
cảm của đối tượng tiếp nhận.
3. Nghệ thuật:
Phóng sự sử dụng kết cấu, ngơn ngữ, bút pháp tạo ra sự uyển chuyển trong q trình
tiếp nhận thơng tin.
Ngôn ngữ: là phương tiện biểu đạt và biểu cảm chủ đề cũng như nội dung phản ánh.
Ngơn ngữ phóng sự phải chính xác, hàm súc, phải là ngơn ngữ của nhân dân: đúng, rõ
ràng, sinh động, hình ảnh sạch gọn, dễ hiểu, đa dạng, đa góc độ để tạo nên sự sinh động
cho bài phóng sự.
Kết cấu: phóng sự được tác giả nhào nặn rất linh hoạt phụ thuộc vào đối tượng phản
ánh và ý đồ riêng của tác giả. Kết cấu thường chặt chẽ và logic, hoàn chỉnh và rõ ràng,
chất phát và bình dị. Nó chi phối nội dung và sự sáng tạo của tác giả.
Biện pháp tu từ: trong thể loại phóng sự, các biện pháp như: so sánh, tương phản,
ẩn dụ, châm biếm, hài hước…luôn được sử dụng triệt để.
II. Tác giả và tác phẩm
1. Tác giả:
1.1 Cuộc đời
Vũ Trọng Phụng (1912-1939) quê ở làng Hảo (Bần Yên Nhân), huyện Mỹ Hào, tỉnh
Hưng Yên nhưng ông sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Xuất thân trong một gia đình nghèo,
lại phải mồ cơi cha từ khi ông mới 7 tháng tuổi, Vũ Trọng Phụng được bà mẹ tần tảo nuôi
cho ăn học.
3
Sau khi đỗ bẳng tiểu học, 16 tuổi Vũ Trọng Phụng phải thôi học để đi làm kiếm
sống. Sau hai tháng làm thư kí đánh máy cho hãng bn Goddard, ông bị đuổi và thất
nghiệp. Ít lâu sau, ông đánh máy chữ cho Nhà in Viễn Đông nhưng hai năm sau lại bị
đuổi.Từ đó ơng chuyển hẳn sang làm báo, viết văn chuyên nghiệp.
Vũ Trọng Phụng viết nhiều thể loại nhưng nổi tiếng trên hai lĩnh vực phóng sự và
tiểu thuyết.
Năm 1930, Vũ Trọng Phụng đã có bài đăng trên tờ Ngọ Báo. Bắt đầu ông viết một
số truyện ngắn, nhưng không được chú ý. Năm 1931, ông viết vở kịch Khơng một tiếng
vang, thì bắt đầu gây được sự quan tâm của bạn đọc. Năm 1934, Vũ Trọng Phụng mới
cho ra mắt cuốn tiểu thuyết tâm lý đầu tay Dứt tình đăng trên tờ Hải Phịng tuần báo.
Năm 1936, ngịi bút tiểu thuyết của ơng nở rộ, chỉ trong vòng một năm, bốn cuốn
tiểu thuyết lần lượt xuất hiện trên các báo, thu hút sự chú ý của công chúng. Cả bốn tiểu
thuyết Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê và Làm đĩ đều hiện thực, đi sâu vào các vấn đề xã hội.
Trong đó Số đỏ xuất sắc hơn cả, được xem như tác phẩm lớn nhất của Vũ Trọng Phụng,
một vài nhân vật, câu nói trong Số đỏ đã đi vào ngôn ngữ đời sống hằng ngày.
Là một nhà báo, Vũ Trọng Phụng đã viết nhiều phóng sự nổi tiếng. Với phóng sự
đầu tay Cạm bẫy người (1933) đăng báo Nhật Tân dưới bút danh Thiên Hư, Vũ Trọng
Phụng đã gây được sự chú ý của dư luận đương thời. Năm 1934, báo Nhật Tân cho đăng
Kỹ nghệ lấy Tây. Với hai phóng sự đó, Vũ Đình Chí và Vũ Bằng đã cho ông là một trong
hàng vài ba “nhà văn mở đầu cho nghề phóng sự của nước ta”. Những phóng sự tiếp theo
như Cơm thầy cơm cơ, Lục xì đã góp phần tạo nên danh hiệu “ơng vua phóng sự của đất
Bắc” cho Vũ Trọng Phụng.
Những tiểu thuyết và phóng sự của ơng cũng nhận được nhiều ý kiến phản bác. Từ
năm 1936 đến khi Vũ Trọng Phụng qua đời năm 1939, đã nổ ra cuộc tranh luận xung
quanh vấn đề “Dâm hay không Dâm” trong các tiểu thuyết, phóng sự của ơng.
Cả đời Vũ Trọng Phụng sống trong nghèo khổ. Vì cịn bà nội và mẹ già nên dù lao
động cật lực, ngòi bút của ông vẫn không đủ nuôi gia đình. Tuy viết về nhiều các tệ nạn,
thói ăn chơi nhưng Vũ Trọng Phụng là một người đạo đức và sống rất kham khổ. Khoảng
năm 1938, ơng bị lao phổi, nhưng khơng có tiền chữa bệnh. Nghe theo lời thầy thuốc, ông
hút thuốc phiện để kéo dài cuộc đời mình. Những ngày cuối đời, trên giường bệnh ông
từng phải thốt lên với Vũ Bằng: “Nếu mỗi ngày tơi có một miếng bít tết để ăn thì đâu có
phải chết non như thế này”.
Ngày 12 tháng 10 năm 1939, ông chết trong một căn nhà tồi tàn ở Ngã Tư Sở Hà
Nội, khi mới 27 tuổi.
4
1.2 Sự nghiệp và phong cách nghệ thuật
1.2.1 Sự nghiệp:
Vũ Trọng Phụng suốt đời nghèo – “nghèo gia truyền”, nhưng về văn học, ông được
xem là một kiện tướng xuất sắc của dịng văn học hiện thực phê phán. Ơng viết văn rất
sớm, viết nhiều và nhanh chóng nổi tiếng, Vũ Trọng Phụng là một tài năng đa dạng. Ông
viết truyện ngắn, phóng sự, tiểu thuyết, kịch nói, phê bình văn học, bình luận thời sự,
chính trị, dịch thuật… Nhưng Vũ Trọng Phụng đặc biệt thành công ở hai thể loại: phóng
sự và tiểu thuyết.
- Về thể loại phóng sự: Ơng được báo chí đương thời suy tơn là: “Ơng vua phóng sự
đất Bắc”. Đáng chú ý là các tác phẩm: “Kỹ nghệ lấy Tây” (1934) viết về cái “nghề” lấy
Tây để nuôi thân; “Cơm thầy cơm cô” (1936) viết về cảnh đời những người đi ở,…
- Về thể loại tiểu thuyết: có “Trúng số độc đắc”; Năm 1936, Vũ Trọng Phụng cho ra
đời cùng một lúc ba cuốn tiểu thuyết “Vỡ đê”, “Giơng tố”, “Số đỏ”. Trong đó tiểu thuyết
trào phúng “Số đỏ” là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo vả đặc sắc hơn cả, xứng đáng là
một kiệt tác bất hủ của nền văn học nước nhà.
Tuy có nhiều mâu thuẫn trong tư tưởng và sáng tác song có thể nói, tồn bộ sáng
tác của Vũ Trọng Phụng là tiếng nói căm hờn, mãnh liệt, ném thẳng vào cái xã hội thực
dân, phong kiến tư sản hết sức bất công, tàn bạo, thối nát, cái xã hội mà ơng gọi là “Chó
đểu” và “Khốn nạn” thời bấy giờ.
- Hạn chế đáng tiếc của cây bút đầy tài năng này là tình cảm u thương gắn bó của
ơng với quần chúng lao động chưa có chiều sâu cần thiết để có cái gốc nhân đạo vững
chắc. Vì vậy, ông thường hoài nghi, bi quan về con người và có một số chỗ trong tác
phẩm sa vào chủ nghĩa tự nhiên.
Ngồi hai thể loại chủa yếu nói trên, Vũ Trọng Phụng còn để lại nhiều chuyện ngắn
tập hợp trong “Cái ghen đàn ông” - xuất bản năm 1938 và vở kịch “Không một tiếng
vang” (1931).
1.2.2 Phong cách nghệ thuật:
Qua những tác phẩm xuất sắc, Vũ Trọng Phụng đã khẳng định mình là “ơng vua
phóng sự đất Bắc” (Mai Xn Nhân), “nhà tiểu thuyết trác tuyệt” (Nguyễn Đình Thi), nhà
phân tích xã hội sắc sảo – một nhà văn hiện thực chủ nghĩa lớn gắn bó mật thiết với thời
đại của ông. Phong cách nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng được biểu hiện qua một số khía
cạnh sau:
- Vũ Trọng Phụng là một nhà văn hiện thực. Ông là người hăng hái nhất trong việc
cổ vũ, khẳng định cho quan điểm nghệ thuật hiện thực; khẳng định một cách đầy nhiệt
tình, hăm hở, quyết liệt. Khẳng định “tiểu thuyết là sự thật ở đời, ơng muốn tiểu thuyết
nói riêng và văn học nói chung phải nói lên sự thật đời sống, nhìn thẳng vào sự thực,
dung cảm mổ xẻ phanh phui phơi bày thực trạng của xã hội. Đó khơng chỉ là miêu tả cuộc
5
sống của người dân lao động mà cùng với đó là phanh phui tội ác của bọn địa chủ, tư sản,
quan lại. Khát vọng phản ánh sự thật ở đời cũng gắn liền với tư tưởng vị nhân sinh,
hướng tới nhân loại cần lao.
- Vũ Trọng Phụng là nhà văn bậc thầy của nghệ thuật trào phúng. Bị chi phối nặng
nề bởi tư tưởng bi quan định mệnh chủ nghĩa, ông quan niệm đời là một tấn đại hài kịch
mà kẻ đạo diễn chính là đồng tiền vạn năng và số mệnh. Trong quan niệm của ông, con
người nếu không hiện ra như những kẻ vơ nghĩa lí, sống một cách máy móc, trái với quy
luật tự nhiên thì cũng là những kẻ mang tính cách vơ ln: dâm – đểu – bịp, vậy là lại
toàn gặp vận may. Trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng, trào phúng như một đặc điểm nổi
bật, là một sở trường, là yếu tố tạo nên sức mạnh nghệ thuật. Yếu tố trào phúng được thể
hiện nhiều trong những sáng tác của ông từ phóng sự, đến kịch vui, truyện ngắn, tiểu
thuyết (nhân vật trào phúng, tình huống trào phúng, giọng điệu trào phúng, ngôn ngữ trào
phúng,….)
- Nhân vật trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng là những nhân vật điển hình, được
xây dựng tuân theo nghệ thuật của sáng tác trào phúng: hầu như không chú ý miêu tả nội
tâm, thường tô đậm chất hài của ngoại hình nhân vật ( Ví dụ qua những nhân vật điển
hình bất hủ…..)
- Ngơn ngữ nghệ thuật thấm đẫm cá tính sáng tạo: phong phú, sinh động, đầy góc
cạnh, thực sự sắc sảo. Một thứ ngơn ngữ vừa gai góc, sắc nhọn, vừa mỉa mai, chua chát
như được tuôn trào từ một mối căm phẫn, uất ức cao độ với xã hội đương thời đầy bất
công, phi nhân tính. Cũng là thứ ngơn ngữ hướng tới sự phô bày, lên án, tố cáo những
mặt trái của xã hội nhưng ngơn ngữ Vũ Trọng Phụng quả có gai góc, “nóng” hơn, chua
chát, phũ phàng hơn, cay độc, dữ dội hơn so với các cây bút hiện thực khác.
2 Tác phẩm:
Trong hàng loạt các bài phóng sự của Vũ Trọng Phụng bắt đầu từ năm 1933, ta thấy
tác giả rất xơng xáo nhiệt tình, tìm tịi những tư liệu để viết nên những thiên phóng sự đặc
sắc để đời. Ông cứ viết điều đặn cứ như mọi thứ đã nằm sẵn trong đầu mình chỉ cần cầm
bút lên rồi viết một mạch là xong vậy. Mỗi năm ông cho ra đời một thiên phóng sự, đặc
biệt chỉ trong vịng một năm (1934) ơng cho ra đời 3 tập phóng sự đình đám nổi danh, mà
một trong số ấy đã làm nổi danh ông trên văn đàn nghệ thuật đó là thiên phóng sự “kỹ
nghệ lấy Tây”. Thật ra với những ai đã đọc thiên phóng sự này rồi thì mới biết được giá
trị thật sự của nó. Một bức tranh xã hội hiện ra đang làm mất dần đi giá trị của những
người phụ nữ An Nam lúc bấy giờ. Điều đáng quan tâm hơn nữa đó là những đứa trẻ con
lai vô thừa nhận kia đang lang thang đầu đường xóa chợ khơng nơi nương tựa, rồi đây số
phận của chúng sẽ ra sao nếu nạn lấy Tây còn vẫn tiếp diễn như thế. Để thực hiện thành
cơng thiên phóng sự này, tác giả đã khơng ngần ngại vất vả, tìm tịi và bỏ rất nhiều thời
gian và công sức để thu thập cho bằng được những tài liệu quý giá. Với một tài năng khéo
6
ăn nói và khơn ngoan, ơng khơng hề nóng vội mà theo từng bước, tuần tự tiếp xúc từng
người trong cuộc từ những anh chàng Tây cho đến những mụ “me Tây” khét tiếng, rồi
những bà mai mối trong giống như những mụ tú bà đầy quyền lực như bà Kiểm Lâm, bà
Cai bu-Dích, bà Ách Nhống,… cịn có cả những đứa trẻ con lai nữa như Suzanne. Tác
giả đã xâm nhập vào thực tế để tìm ra nguyên nhân vì sao một số phụ nữ lúc bấy giờ lại
theo phong trào “lấy Tây”. Và dần dần phong trào ấy đã trở thành một kỹ nghệ, một cái
nghề để kiếm sống hẳn hoi. Rồi những mối luân duyên như được “sắp đặt” theo đồng tiền
mà “đàn bà chỉ vì tiền, đàn ông chỉ nghĩ đến nhục dục” mà thôi. Không những thế Vũ
Trọng Phụng cịn tìm hiểu về cuộc sống cũng như chiến tích uy quyền lừng danh của
những bà mai mối mà những bà ấy khơng ưa ai thì người đó khơng thể nào lấy được
chồng Tây trên mảnh đất này. Xuyên suốt bài phóng sự gồm mười chương, mỗi một
chương là một q trình tìm tịi thu thập tài liệu của tác giả, và càng về sau thì cốt truyện
sự việc càng hấp dẫn hơn, được khắc họa rõi nét hơn. Tác giả đã làm rõ những nghi vấn.
Ngay từ đầu bài ơng đã nói “phải chăng lấy Tây được cho là một kỹ nghệ”, rồi dần dần
nó trở thành một nghề kiếm sống hẳn hoi vì vậy mà nhiều chị em phụ nữ bấy giờ tranh
đua nhau kiếm chồng Tây để bươn chải cuộc sống. Rồi sự cạnh tranh nhau của những
người trong cuộc từ những bà mai cho đến những thằng Tây, me Tây, rồi những cuộc ngã
giá theo quan niệm “thuận mua vừa bán”.
B. Giá trị tác phẩm “Kĩ nghệ lấy Tây”
I. Nội dung
*Tóm tắt tác phẩm:
“Kỹ nghệ lấy Tây” (đăng báo 1934) là thiên phóng sự dài, mơ tả những mối quan
hệ mà thơng thường vẫn được gọi là sự hôn nhân, giữa những phụ nữ bản xứ Việt với
những anh lính Tây viễn chinh đồn trú tại xứ này. Giống như hôn nhân nhưng khơng
đáng gọi thế, là vì nó khơng đáp ứng tình u, cũng khơng nhằm sinh con – những mục
đích vốn có của hơn nhân – mà chỉ là phương cách đáp ứng nhu cầu tình dục, ở phía
những anh lính viễn chinh, hoặc đáp ứng phương tiện kiếm sống, tức là kiếm tiền, ở phía
những phụ nữ bản xứ. Lấy Tây, vì vậy, trở thành một nghề nghiệp, một kỹ nghệ. Mô tả
sinh động hiện trạng của thứ kỹ nghệ ấy, Vũ Trọng Phụng đã sớm phát hiện ra một trong
những nét méo mó phi nhân, hậu quả của thời đại viễn chinh thực dân, báo trước những
hậu quả tương lai của sự di dân, nhập cư. Thiên phóng sự mang đến cho người đọc một
góc nhìn sâu về nạn mại dâm mang hình thức của những cuộc hơn nhân vợ chồng, góp
phần quan trọng cho việc hồn thiện bộ mặt của xã hội mà Vũ Trọng Phụng tường bước
đã vạch ra qua các phóng sự: Cạm bẫy người, Cơm thầy cơm cô, Số đỏ, Kỹ nghệ lấy
Tây…
7
1. Phản ánh hiện thực xã hội một cách chân thực
Không phải ngẫu nhiên nhà báo Phùng Tất Đắc, ngay từ đầu, đã xem tác phẩm Kỹ
nghệ lấy Tây này như một trong những “cơng trình có ảnh hưởng xa rộng, … giúp được
tài liệu cho đời sau khảo xét về buổi nàỳ”. Vì nó chắc chắn là hiện thực, một hiện thực
được viết theo lối tả chân. Hiện thực về kỹ nghệ lấy Tây hay nói trắng ra là nạn mại dâm
được Vũ Trọng Phụng vạch ra thẳng thắn, không che đậy. Mang lại tác động lớn, không
chỉ với xã hội đương thời, khi thiên phóng sự được đăng trên báo Nhật Trình, mà cho đến
bây giờ cái xã hội ấy vẫn làm ta khơng khỏi bàng hồng, nhưng vẫn chấp nhận nó là hiện
thực của xã hội.
Xã hội những năm đầu của thập niên 30 – 40 của thế kỉ XX, những cuộc đấu tranh
dân tộc, đấu tranh giai cấp diễn ra gay gắt, dẫn theo những cuộc đấu tranh về tương
tưởng, về ý thức hệ. Bên cạnh đó, chính sách cai trị bóc lột của thực dân về kinh tế, đầu
độc về mặt văn hoá xã hội càng nặng nề hơn khi cuộc khủng hoảng kinh tế 1919 -1933
diễn ra trên toàn thế giới, nhân dân thuộc địa như Việt Nam, khộ lại càng thêm khổ.
Phong trào Xô Viết Nghệ TĨnh do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo nổ ra rầm rộ nhưng
nhanh chóng bị dập tắt trong bể máu. Giai cấp thống trị quay lại siết chặt chính sách cai
trị, đàn áp dã man hơn các cuộc nổi dậy. Nông dân ở nông thân bị bần cùng hoá kéo nhau
ùn ùn ra thành thị kiếm kế sinh nhai, nhưng kết quả lại bị đẩy vào chỗ khổ cực bần cùng
hố khác. Làn sóng Âu hố rộ lên ở các thành thị, sự nhốn nháo trong cuộc sống càng bộc
lộ rõ bản chất gải dối, lố bịch, “dơ bẩn” của từng hạng người cai trại, lại càng cùng cực
của những người ở tầng lớp thấp bị bần cùng hoá, tha hoá về mặt đạo đức, nhân phẩm.
Tất cả “ quay cuồng, điên đảo đến chóng mặt, biết bao tình huống trớ trêu, lên voi xuống
chó, xuống chó lại lên voi, ơng hố ra thằng, thằng hố ra ơng…”. Nói như Vũ Trọng
Phụng là xã hội vơ nghĩa lý, “chó đểu”…
Ở Kỹ nghệ lấy Tây, từ cuộc điều tra công phu của tác giả ở một làng me Tây “mọc”
lên bên cạnh rại lính Lê dương ở Thị Cầu, Bắc Ninh, Vũ Trọng Phụng đã cho ta thấy việc
lấy Tây thực tế đã thực sự trở thành một “nghề”, một “kỹ nghệ” – sản phẩm của chủ
nghĩa thực dân ở Việt Nam, mà ở đó : "Cái giường của một me tây cũng như cái dùi khui
của một thầy cảnh sát, cũng như cái búa của bác thợ rèn, cũng như cái cổ của một ông
nghị viên Việt Nam. Trong cái kỹ nghệ lấy Tây, thợ chỉ làm việc trên giường".Những so
sánh có tính cách khiêu khích này làm đỏ mặt một cộng đồng chuộng nền nếp trật tự, có
trên, có dưới, có sang, có hèn, nhưng chúng phản ảnh sự thực chua cay nhất.
Thực chất đó chỉ là những cuộc “hôn nhân” thực dụng: “vợ chỉ coi chồng là cái tủ
bạc”, còn chồng ngược lại, lấy vợ cũng chỉ là những tính tốn thực dụng “ nuôi đầy tớ sợ
họ ăn cắp, thà lấy một người vợ để vừa sai bảo được, vừa được… chuyện khác nữa”, cốt
cho qua thời gian làm lính ở Việt Nam. Hôn nhân do vậy chỉ là những cuộc chung đụng
theo “hợp đồng”. Bởi thế, mỗi me thường lấy nhiều chồng, và ngược lại mỗi ông chồng
8
Tây cũng thay vợ như thay áo. Vũ Trọng Phụng đã chua chát vạch rõ thực tế, việc lấy
chồng Tây chỉ là một “nghề”, một thứ mại dâm mạt hạng: làm “điếm” cho bọn lính viễn
chinh dâm ơ, hung dữ và thô lỗ.
Và đằng sau cái kỹ nghệ ấy là bao hậu quả tai hại: sự suy thoái về phong hố, đạo
đức, nhân phẩm; sự cạn kiệt về nhân tính, sự bi đát của các cuộc “hợp cẩn”, một khi
“người đàn bà chỉ nghĩ đến tiền và người đàn ông chỉ nghĩ đến nhục dục”, và biết bao sộ
phận đắng cay, lỡ dở, tủi nhục, ê chề thậm chí khơng lối thoát của những người đàn bà
khốn khổ làm nghê này. Đây chính là hiện thân cho số phận bi thương của những người
nô lệ một thời. Kỹ nghệ lấy Tây do vậy ẩn chứa một giá trị phản ánh hiện thực sâu sắc.
1.1. Sức mạnh của thế lực đồng tiền
Có thể nói đồng tiền chính là sợ dây ràng buộc, tuy nhìn thì mong manh nhưng thực
chất là vơ cùng bề vững trong những cuộc hôn phối giữa các me và chồng Tây. Chính các
me thừa nhận rằng, họ lấy chồng Tây đơn giản vì tiền, chứ chẳng hề có tình cảm gì, hoặc
chính các ơng chồng Tây của các me cũng biết thế. Nhưng cái danh ái tình vẫn được
xướng lên, để khách hàng được ru ngủ mụ mị, để các me dễ dàng có được thứ mình cần,
chính là tiền. Anh chàng ĐI-mi-tơp đã giãi bày tâm sự cùng nhân vật xưng tơi, về chuyện
tình trường, về mười bốn bà vợ của hắn, trong đó có 9 người vợ Bắc Kì, thì người vợ Bắc
Kì đầu tiên bỏ ơng cũng vì tiền, từ đó ơng nhận ra “Ở đây, tình nghĩa vợ chồng phải đi
theo đồng tiền”, rằng “ tiền bạc có thế lực làm suy vong quả tim của người ta”.
Thậm chí thế lực đồng tiền cịn bao trùm cả những người trí thức, viên giáo học con
rể của bà Tư đã khẳng định lấy con gái bà vì tình chứ chẳng vì tiền. Vậy mà chủ được
dăm ba năm chàng rể An Nam đó đã “ngày đêm cứ cầu trời khấn Phật vật chết mẹ vợ”, đã
chẳng thừa nhận ngay từ đầu lấy cô gái lai ấy chỉ vì tiền, dù nhục nhã nhưng vẫn lấy.
Hay chính những anh chồng Tây – những người lính lê dương nhìn chung cũng là
lính đánh th với đủ mọi quốc tịch. Chẳng cứ quá khứ là bất cứ hạng người nào nghèo
hèn hay đốn mạt, giết người, những người lính này chấp nhận ơm súng đi xâm chiến
thuộc địa chỉ, bất chấp sống chết nơi đất khách quê người cũng chỉ vì đồng tiền.
Đồng tiền trong xã hội đương thời có tính vạn năng, trong các phóng sự khác của
Vũ Trọng Phụng như Cơm thầy cơm cô, Làm đĩ, Lục xì…cho tới các tiểu thuyết dài như
Giống Tố, Số đỏ… đồng tiền luôn là thuốc chữa bách bệnh.
1.1.1. Sự tha hóa của người phụ nữ trước thế lực đồng tiền
Những người đàn bà bả xứ, thuộc nhiều tầng lớp và đủ mọi lứa tuổi… vì cùng
đường mà phải “đổ xô” đi lấy “chồng Tây”. Họ đánh mất không chỉ thể xác mà cịn đánh
mất cả tâm hơn của người phụ nữ. Làm điếm đã là một nỗi nhục, thì là me Tây nỗi nhục
ấy cịn lớn gấp bội phần, vì vừa làm điếm mà cịn vừa làm đầy tớ cho Tây, nhất là Tây lê
dương, một thứ lính viễn chinh, thành phần cặn bã của xã hôi tư sản. Chung quy tất cả
cũng chỉ vì ma lực của đồng tiền.
9
Khơng ít những phụ nữ sau những năm lăn lộn trong cái “kỹ nghệ” làm me đầy bi
hài đã trở thành những “con quoái vật”, những thứ “đàn bà ma bùn” như lời của chính họ
“tổng kết” cái cuộc đời “bỏ đi” của mình. Thậm chí bà Đội Chóp sau cuộc đời lăn lộn với
nghề, trở thành người khóc mướn, về bà Vũ Trọng Phụng đã viết: "Bốn mươi năm trước
đây, người Việt Nam ngoài sự lo tưới nước luộc lợn vào xác người chết lại còn muốn
người chết phải cảm động bởi những câu khóc lóc khéo của kẻ sống ở sau chiếc quan tài!
Nhà nào sợ vì lẽ gì tang gia bối rối mà khơng đủ lời lẽ thảm thiết thì mời bà Đội Chóp
giúp hộ một ... miệng. Bà Đội Chóp, một người có lịng từ thiện, đã vui vẻ mà khóc, tươi
cười mà khóc, khóc một cách chu đáo, mà lại khơng tính tiền, nghiã là khóc ga-tuýt vậy.
Ối ai ơi là ai ơi...."
1.1.2. Xuất hiện những cảnh học nghề, dạy nghề, dắt mối ăn tiền
Như đã nói ở trên,lấy Tây thời đó đã trở thành mộ “nghề” thực thụ và đã có một lịch
sử đầy những bước thăng trầm. “Tổ sư” của nghề là bà Đội Chóp, người đã có can đảm
đánh trống ra lệnh cho chị em hậu sinh” khơng làm gì phải “nơm nớp sợ những ơng
khổng lồ tóc đỏ mắt xanh”, cứ “lấy bừa đi”, đừng đắn đo suy nghĩ.
Là một nghề có chiều dày “ truyền thống” nên từng cơng đoạn như đã được “chun
mơn hố”: có hẳn một lớp “thợ già” như bà Ách Nhống, bà Kiểm Lâm, Đội CHóp…
chun tiếp nhận những “cô thợ trẻ” như Duyên , Ái, Tích… và truyền cho họ những
món nghề, sửa sang dung nhan cho họ, sao cho có nét “me”, rồi gả bán họ cho Tây để lấy
hoa hồng. Sự cạnh tranh trong nghề này cũng rất dữ dội. Họ “dèm pha”, “phát giá”, “hớt
tay nhau”. Luật “cung cầu” cũng chi phối mạnh mẽ cái “thị trường” quoái gở này, cuốn
hút những “khách hàng” (đám Tây lê dương đủ mọi quốc tịch) vào những pha đụng đầu
gay gắt, chẳng khác nào cuộc chiến Sơn Tinh Thuỷ Tinh trong truyền thuyết như Vũ
Trọng Phụng đã viết.
Vậy khơng cịn lý do gì mà lại không công nhận việc lấy Tây của các me đã trở
thành một nghề, có đầy đủ các yếu tố của một nghề, thậm chí là một “kỹ nghệ”: với
truyền thống, tổ sư, ngón nghề, có sự truyền dạy, có dắt mối…
1.2. Sự xuống cấp đạo đức của con người bởi những thủ đoạn phi nhân phi
nghĩa – phi luân thường đạo lý
Nhìn tệ nạn xã hội đơ thị dưới góc độ đạo đức học, ta thấy ở đó sự băng hoại đạo
đức và sự tha hoá nhân cách của một bộ phận người trong xã hội. Ở đây chính là nạn mại
dâm với sự tha hoá về mặt đạo đức của những người phụ nữ . Sự khủng hoảng kinh tế của
đất nước, sự du nhập của lối sống phương Tây, lối sống vị kỷ, hưởng lạc, nhu cầu tồn tại
trước xã hội lang sói là những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự trượt dài của những
người phụ nữ này, nhưng me Tây.
Đi sâu vào làng me Tây, gặp gỡ các nhân chứng, tác giả phát hiện ra nhiều ngun
nhân vào nghề lấy Tây. Dù có vì ngun nhân nào thì các me cũng chỉ coi các ơng chồng
10
là cái “tủ bạc”. Mối quan hệ vợ chồng ở làng me Tây dựa trên giá trị của đồng tiền.Giá trị
của tác phẩm khơng phải dừng lại ở tình thương le lói của tác giả đối với thân phận thấp
hèn của người phụ nữ, nạn nhân của cuộc chiến tranh thuộc địa, mà ý nghĩa sâu sắc hơn
là lời cảnh tỉnh tồn xã hội về sự tha hố lương tâm, đạo đức của lớp người này lời cảnh
tỉnh toàn xã hội về sự tha hoá lương tâm, đạo đức của những người phụ nữ này vang lên.
Họ chẳng những học cách dở những chiêu trò để dành giật khách mà cịn để lương tâm
mình trở nên chai lì, vơ cảm. Bộ mặt trơ lì của bà Kiểm Lâm trong đêm tân hôn là một
trong những dẫn chứng đắt giá biểu thị sự xu`ống cấp về nhân phẩm: “Cái mặt thản nhiên
đến nỗi tơi thấy nó cứ trơ như đá, vững như đồng... cứ gan lì tướng quân như mặt Từ Hải
lúc chết đứng... Tơi chợt thấy trong trí nhớ lại hiện ra cái cảnh tượng bà Kiểm Lâm bị anh
chồng Đức đánh đập. Cái mặt ấy với cái mặt bây giờ của bà cũng thản nhiên như vậy mà
thôi.” .
Chẳng những thế cái “kỹ nghệ” ấy đã dạy họ cách dở những chiêu trò để dành giật
khách, để làm sao moi được tiền từ những ông chồng Tây. Việc lấy Tây lê dương chẳng
qua cũng là nghề buôn son bán phán, làm đĩ mạt hạng phục vụ tình dục cho đội quan viễn
chinh. Nhưng các me lại đội lốt ái tình để hành nghề, dùng ái tình để làm bùa mêm làm
cho nhiều gã lê dương phải “gục ngã”. Phương châm của các me là “cứ gãi về mặt tình
cảm là các cậu bị ngay”. Họ thành công trong những pha giả đánh ghen, hoặc tỏ ra mình
“có một mảnh hồn u uất và một trái tim đau thương” khi viết những lá thư tình rất “mùi”
để tỏ tình, xin tiền…
Đặc biết là những me Tây có tuổi nghề cao trong làng vì dục vọng cá nhân, vì cuộc
sống an nhàn của bản thân mà trượt dài trên con đường băng hoại về nhân tính là những
mảng tối sẫm trong bức tranh ảm đạm đô thị Việt Nam. Sự băng hoại ấy đi ngược lại
thuần phong mỹ tục của dân tộc. Nó là hệ quả tất yếu của lối sống lai căng, đua đòi.
Kỹ nghệ lấy Tây củaVũ Trọng Phụng đã dóng lên một hồi chng cảnh tỉnh về sự
băng hoại của lối sống, của phẩm giá con người, góp phần đánh thức những thiên lương
vốn bị cuộc sống mưu sinh làm chìm lấp.
2. Số phận của những me Tây
2.1. Cô đơn, bơ vơ lạc lõng khi nhan sắc tàn phai
Me Tây- là cả “một thế giới riêng”. Nhưng họ có khác gì nhau đâu. Đằng sau cái
“kỹ nghệ” ấy là biết bao cuộc đời lỡ dở, những số phận tối tăm, những linh hồn sa ngã và
tha hố “vơ phương cứu chưa”. Tất cả đều là những nạn nhân của sự phụ tình của những
lễ nghi Nho giáo phong kiến, của xã hội suy đồi để rồi phải dấn thân vào kiếp me Tây.
Nhưng cái nghề ấy cũng bạc bẽo, khi các me cịn trẻ, đắt khách thì chẳng nói, đến
khi về già có người may mắn được mấy ơng chồng tây để lại cho ít tài sản, có người kém
may mắn thì chẳng được gì. Bà Ách Nhống chính là một người kém may mắn. Khi “hồi
ấy”, hồi bà còn trẻ bà đã từng muốn “chấn hưng kỹ nghệ” hay muốn “hối lộ” mà có cái
11
oai rằng ai lên Việt Trì kiếm chồng đều phải vào chịu lệnh bà, thế nhưng chẳng được lâu
thì cái “tuých” ấy bị ngay bà cai Phăng-xoa làm cho mất đi. Từ đó bà như hồng hậu mất
ngơi, cuộc đời xuống dốc. Về già thì chỉ cịn được một đứa con. Mà theo như cơ con gái
lai ấy nói thì mẹ cô nghèo quá nên mới điên. Mà cứ mỗi khi điên lại lột sạch đồ cô ra mà
đánh.
Đáng chú ý nhất trong mối liên quan đến số phận của những me Tây này là con cái
của họ. Những đứa con lai vô thừa nhận, mà tiêu biểu trong tác phẩm hiện lên đó chính là
cơ con gái lai của bà Ách Nhoáng, Suzanne. Nỗi nhục nhã me Tây như một bản án xã hội
được "truyền" đến cả đời con, đời cháu me Tây. Suzanne cô gái 17 tuổi nhưng mang một
mặc cảm nặng nề về xuất thân. Cô vẫn tự hỏi sau này sẽ lấy ai, lấy chồng Tây hay chồng
An Nam, khi cơ khơng có Tổ Quốc. Ở An Nam, hay ở Pháp cô đều không được thừa
nhận, đề bị khinh bỉ vì dịng máu lai. Những đứa trẻ vơ thừa nhận có số lượng khơng nhỏ
và câu hỏi lớn đặt ra, sản phẩm của những cuộc “hôn phối” nghiệt ngã kia rồi sẽ có tương
lai ra sao?
2.2. Bị chà đạp trong vũng bùn nhơ vật chất và làm “ nô lệ” cho những dục
vọng thấp hèn của bọn lính Tây
Theo tác giả viết thì các me chia chồng Tây ra làm ba hạng: Xi-vin, cô-lô-nhần và lê
dương, tác giả đã cố ý đến với loại hạ giá nhất, là hạng lính lê dương. Xuất thân của
những anh lính Lê dương này thì thật phong phú. Ba trăm lính Lê dương đóng đồn tại Thị
cầu, như tác giả viết thì “biết bao nhiêu thứ người khác nhau”, “ba trăm cái tiểu sử”. Họ
là lính đánh th vì tiền, hầu hết đó là những kẻ nát rượu và lấy vợ bản xứ để mua vui, để
thoả mãn thú vui nhục dục. Những cuộc hơn phối mang tính thực dụng từ hai phía đã
khơng có tính ái thì việc làm “nơ lệ” cho bọn lính lê dương là điều hiển nhiên mà các me
phải chấp nhận. Có lẽ phải ngoại trừ những me có tuổi nghề dày dặn như bà Kiểm Lâm,
bà Đội Chóp để dùng những chiêu trị mà nắm thóp được các ơng chồng Tây, cịn lại thì
đều chịu số phận như nhau. Như Ách và Tích, hai me học nghề phàn nàn: “ cái kiếp lấy
Tây ngán lắm… Nó ứ hay rượu chè, hay sừng sộ,lắm lúc tưởng có thể mình chỉ bị một cái
thụi cũng bở đời…” thậm chí đến mức “liệu có tay tàn ác đến giết mình”. Phận đàn bà
xưa nay trong xã hội Việt Nam đã chịu nhiều cay đắng khi họ lấy chồng, huống chi
những ơng chồng này cịn là những ơng chồng Tây. Đến ngơn ngữ cịn khác biệt thì hạnh
phúc chỉ là giấc mơ xa vời. Chẳng những thế họ cịn bị chính những người chung chăn
gối khinh rẻ là “ngu dốt”, là “độc ác”… Họ chỉ là thứ hàng hố, khi mua thì lựa, thì trả
giá rồi khi lấy về chỉ để thoả mãn những nhục dục dơ bẩn của những chồng Tây trong
khoảng thời gian đóng quân ở đây.
3. Thái độ của nhà văn.
Cùng với Nam Cao, Vũ Trọng Phụng là nhà văn lớn của dòng văn học hiện thực
phê phán Việt Nam trước 1945. Nếu tác phẩm Nam Cao thường lấy cuộc sống của nông
12
dân và người trí thức làm đề tài thì tác phẩm Vũ Trọng Phụng thường khai thác đời sống
thị thành. Ở đó, nhà văn đã chứng kiến một xã hội Việt Nam bị thay đổi, rúng động trong
mọi mối quan hệ xã hội. Nho giáo phong kiến bị thất thế nhưng vẫn ngự trị ngấm ngầm,
cịn làn sóng văn minh phương Tây cưỡng ép đã tạo nên những sự thay đổi lố lăng, kệch
cỡm với đủ trò giả trá, mị dân… Xóm Thị Cầu trong Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng
Phụng là một nơi của sự biến đổi đầu đau đớn, chua chát đó. Nhà văn đã ẩn mình vào
nhân vật tơi đồng thời có lúc tách ra khỏi nhân vật tơi để có cái nhìn khách quan, đa dạng
nhiều chiều về những con người và xã hội thời bấy giờ.
3.1. Thái độ lên án, bài trừ cái xấu:
Khi được nghe Đi-mi-tốp kể chuyện về cuộc đời ơng tính đến nay đã lấy 14
người đàn bà,mỗi người một nét tính cách, ngoại hình khác nhau và đều bỏ ơng hay ơng
bỏ theo cách này hay cách khác thì nhân vật tôi luôn lắng nghe ông Đi-mi-tốp như muốn
đi vào từng ngóc ngách về đời sống của me Tây. Họ đều đến với ơng hầu như là vì tiền.
Đó là một bộ phận những hạng đàn bà đáng phê phán. Khi hơn nhân trở thành thị trường
thì tất cả mọi thứ trong tình cảm vợ chồng đều bị quy về giá trị vật chất. Người phụ nữ đã
kinh tế hóa nhân phẩm và danh dự của mình. Cịn đâu vẻ đẹp giản dị trong đức tính hy
sinh mà người phụ nữ Việt Nam đã dành cho gia đình:
“Chồng em áo rách em thương”
Chồng người áo gấm xông hương mặt người”.
Một trong những vẻ đẹp đáng trân trọng của người phụ nữ Việt Nam là thủy chung,
son sắc. Nhưng trong làn sóng “lấy Tây” ồ ạt, nhiều phụ nữ đã bỏ quên phụ đạo chỉ để
thỏa mãn nhu cầu vật chất. Trong phóng sự “kỹ nghệ lấy Tây” này một me lấy ít nhất là
ba đời chồng. Mỗi khi người lính kia hết hạn về nước hoặc chuyển đi nơi khác thì các me
này xem như đã hết một đời chồng. Họ tiếp tục lấy người chồng khác để kiếm tiền. Có
thể nói mục đích của việc thay chồng như thay áo của những me này là chỉ để kiếm tiền,
chỉ vì tiền chứ khơng phải vì một ngun nhân nào khác. Ví dụ điển hình đó là bà Đồng
Đền hết lấy người này đến người kia.
Ngòi bút của tác giả còn thẳng thắn lên án những kẻ ham dục vọng, vì dục vọng
mà sẵn sàng lấy người mình khơng u
Phải chăng ẩn đằng sau đó nhà văn mn phê phán cái xã hội thực dân thời bấy
giờ, đồng tiền trở thành một thế lực khiến cho bao kẻ phải u mê, điêu đứng. con người bị
vịng xốy của đồng tiền làm mất đi nhân cách. Đọc tác phẩm ta thấy rõ ràng nhà văn
không tránh khỏi “tả thực cái xã hội khốn nạn, cơng kích cái xa hoa dâm đãng của bọn
người có nhiều tiền” gửi gắm lời nhắn nhủ:muốn cho xã hội cơng bình hơn nữa, đừng có
những chuyện ô uế, dâm đãng”
13
Tính chất trào phúng càng đưa ơng đi xa hơn nữa, khiến ơng có thể nhìn những đau
thương qua lăng kính trào lộng, tạo thêm một sức mạnh, một sức đớn đau chua chát mới
mà các tác giả cùng thời chưa đạt được, ví dụ:
"Cái giường của một me tây cũng như cái dùi khui của một thầy cảnh sát, cũng như
cái búa của bác thợ rèn, cũng như cái cổ của một ông nghị viên Việt Nam. Trong cái kỹ
nghệ lấy Tây, thợ chỉ làm việc trên giường" (Kỹ nghệ lấy Tây, tuyển tập Vũ Trọng Phụng
trang 568).
Những so sánh có tính cách khiêu khích ấy làm đỏ mặt một cộng đồng chuộng nền
nếp trật tự, có trên, có dưới, có sang, có hèn, nhưng chúng phản ảnh sự thực chua cay
nhất.
Hoặc:
"Bốn mươi năm trước đây, người Việt Nam ngoài sự lo tưới nước luộc lợn vào xác
người chết lại còn muốn người chết phải cảm động bởi những câu khóc lóc khéo của kẻ
sống ở sau chiếc quan tài! Nhà nào sợ vì lẽ gì tang gia bối rối mà khơng đủ lời lẽ thảm
thiết thì mời bà Đội Chóp giúp hộ một ... miệng. Bà Đội Chóp, một người có lịng từ
thiện, đã vui vẻ mà khóc, tươi cười mà khóc, khóc một cách chu đáo, mà lại khơng tính
tiền, nghiã là khóc ga-tt vậy.
Ối ai ơi là ai ơi...." (Kỹ nghệ lấy Tây, sđd, trang 571).
Còn gì thật hơn và trào lộng hơn về tục khóc mướn của dân ta.
3.2. Thái độ thương cảm , xót xa đối với số phận Me tây
Đi sâu và khám phá từng ngóc ngách và mảnh đời của số phận Me Tây, đã giúp
nhà văn đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, từ việc có cái nhìn trắc ẩn, khinh
thường đến sự xót xa, thơng cảm, trân trọng những người có số phận, hồn cảnh đáng
thương. Thật sự, những kỹ nghệ lấy Tây đáng thương hơn là đáng trách. Nhà văn đã ẩn
mình trong nhân vật tơi để đi vào đời sống của những kỹ nghệ lấy Tây.
Thứ nhất, cũng như cái nhìn của người khác về me Tây, nhân vật tơi cũng có cái
nhìn nghi ngờ. Vốn xưa nay, nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ
được đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản
phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội.Vậy mà
nghề lấy Tây cũng được gọi là nghề. Trong đoạn hội thoại phiên tòa hỏi bà Ba về nghê
nghiệp, bà Ba trả lời:
- Thế làm nghề gì?
- Làm nghề gì? Làm nghề… làm nghề lấy Tây!
Thế là cả phiên tòa cười, khiến nhân vật tơi khơng hiểu vì sao họ lại cười với cái
nghề me Tây ấy. Lúc đầu tìm đến Thị Cầu để thực hiện loạt phóng sự cũng khơng tránh
khỏi thái độ lên án, phê phán. Nhưng khi tiếp cận những mảnh đời me Tây, xâm nhập vào
số phận con người, thái độ nhân vật tơi đã có sự thay đổi hẳn
14
Gặp bà Kiểm Lâm, là một me chuyên nghiệp trong làng, nhân vật tôi thấy ngỡ
ngàng khi không những không đuổi nhà báo đi mà còn cẩn trọng mời ngồi và bà kể về
cuộc đời người me Tây như một điều bình thản, khơng sợ ai khinh thường. Đến nhân vật
tôi phải thốt lên: “Con đường “công danh” của những thợ đàn bà trong kỹ nghệ lấy Tây
này thật là gập ghềnh, khuất khúc lầy lội và quanh co. Phái đàn ơng ta, khơng ai lại có thể
đỗ cử nhân trước, rồi đỗ thành chung sau, rồi đỗ sơ học sau cùng. Nhưng cái công danh
của một người đàn bà đi lấy Tây có thể ví như thế được đấy. Vì mỗi một người chồng –
nói đúng ra, mỗi một đời chồng – cũng có giá trị như một cái giấy chứng chỉ để tiện việc
kiếm chồng, nghĩa là sinh nhai.” Vâng, vì cuộc đời của những kỹ nghệ lấy Tây gập
ghềnh, quanh co nên mới khiến nhân vật tôi có cái nhìn thương cảm đến vậy.Khi nghe bà
kiểm Lâm giải thích về việc cãi nhau với chồng và bỏ chồng:
- Ơng chớ tưởng tơi cạn tàu ráo máng với người ta quá. Dẫu rằng để cho mình bị
đánh đập, tơi cũng là người khơn. Nếu cứ nhận, có phen họ giết mình. Vì rằng lấy chồng
là vì tiền, như thế họ tha thứ mình được. Nếu tơi nhận, họ có thể cho tơi là đĩ, mà vợ đã đĩ
thì có thể họ vắng nhà, vợ ngủ với những thằng đẹp hơn. Lúc nãy ấy à? Nếu tơi ừ thì biết
đâu họ chẳng giết tơi chứ khơng phải chỉ có đánh!
Đến đây nhân vật tơi có lẽ vỡ lẽ ra được nhiều điều, làm me Tây không phải chỉ yêu
mà chỉ vì tiền, đơi khi cũng phải giả vờ đáng thương để bảo vệ bản thân mình. Xâm nhập
vào đời sống me Tây đâu phải là điều dễ dàng gì, nhưng phải mạo hiểm thì đó chính là tư
liệu bổ ích cho một nhà báo muốn khai thác và tì tịi cái mới. Khi về xã Thị Cầu này, có
đơi lúc nhân vật tôi không tránh khỏi nỗi sợ rệt: Khơng phải tự nhiên tơi có cái tính xấu:
tị mị. Nếu khi bà Ách dọn giường cho tôi nghỉ tạm mà chẳng thì thào: “Này, bên cạnh
cũng có mấy đám đang tìm chồng đấy!” thì tơi đã chẳng phải nhịn thở mạnh, vén bức câu
đối để nhòm sang…
Khi tiếp xúc với Suzanne, nhân vật tơi có cái nhìn đồng cảm hơn với những người
làm nghề me Tây. Đây cũng là cơ hội để nhân vật tôi bộc lộ những thắc mắc của mình: Tại sao phần nhiều các me Tây vẫn già, vẫn xấu, mà vẫn đắt chồng? Nhận được câu trả
lời của Suzanne nói rằng người phương Tây quan niệm về cái đẹp khác với người phương
Đơng mình, họ ln u thích cái đẹp đẫy đà, mặ mà hơn là thân hình mảnh mai. Người
phương Tây bao giờ cũng ưa cái đẹp lâu bền hơn là cái đẹp mong manh. Điều này cũng
giúp nhân vật tôi ngộ nhận ra được nhiều điều, đã khéo léo gợi ý cho Suzanne kể thêm về
một người phụ nữ lấy Tây chẳng nhẽ chỉ cần cái đẹp mặn mà mà không để ý đến cái
phẩm chất, nhân cách?. Suzanne đã giúp nhân vật tơi hóa giải điều đó:
- Ơng tưởng thế chứ tiếng đức phụ không bao giờ nên để tặng cho một người đã đi
lấy Tây. Tại làm sao xấu họ cũng lấy, già họ cũng lấy? Những người Tây ấy là những
người chán đời. Ni đầy tớ sợ nó ăn cắp, thà lấy một người vợ, vừa được sai bảo vừa
được... việc khác nữa. Đã khơng cùng nói một thứ tiếng, người vợ lại chỉ coi ông chồng là
15
cái tủ bạc thì người chồng dễ mỗi lúc đã đem tấm thân ái tình ra tặng vợ hay sao? Vả lại,
một người Tây đã sang đây thì ai biết rõ đoạn đời về trước của người ấy thế nào? Khối óc
họ khơng nhẽ chỉ để làm việc cho ái tình! Hai người đều có địa vị, cùng chí hướng, cảnh
ngộ cần nhau, mà yêu nhau, đó mới là yêu. Muốn có ái tình thì hai bên khơng ai có thể
khinh được ai. Chứ còn yêu để mà “một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng” thì đó là u vì
thương chứ cịn đâu là u vì u nữa?
Rồi nhân vật tôi lại được nghe nỗi khổ của Suzanne khi khơng lấy chồng, vì dù lấy
người Tây hay lấy người An Nam thì cơ vẫn khơng được thừa nhận. Một người mang hai
dịng máu thì khơng có tổ quốc. Suzanne là con của bà Ách- một me Tây có thể xem là
chuyên nghiệp.Cuộc đời và những câu chuyện mà Suzanne kể cho nhân vật tơi nghe đã
giúp “ tơi” có cái nhìn khác về những kỹ nghệ lấy Tây.Bi kịch của những me Tây lúc thể
hiện cao trào như đoạn đối thoại giữa Kiểm Lâm và người tình, lúc âm thầm mà tàn phá
như tâm lý bà Ách, nhưng đến Suzane thì cái bi kịch ấy càng được nhận rõ: Nỗi nhục nhã
me Tây kia như một bản án xã hội được "truyền" đến cả đời con, đời cháu me Tây.Bản án
đó được gọi bằng tên Tây, nhưng nó được "thực thi" bởi đạo đức truyền thống. Vậy
những me Tây ấy có thực đáng trách chăng? Vở kịch một lần nữa cảnh tỉnh: Hãy nhìn
vào hồn cảnh, thân phận mỗi con người, trước khi ban hành một bản án luân lý. Phải
chăng đó là điều mà nhân vật tơi đang ngộ nhận ra.
Nhân vật tôi đã tiếp xúc với nhiều mảnh đời me Tây khác nhau: “Tôi đã được trông
thấy hẳn hoi một cuộc “ly dị” chồng với một buổi cưới chồng của bà Kiểm lâm, đã được
rõ cái tâm sự phân vân của Suzanne, đã được nghe một đoạn đời lấy chín người vợ của
Đi-mi-tốp. Tơi đã được mục kích bà Đội Tứ, người chơn các me, con sư tử mất ngôi, dạy
dỗ con em ấy cái “tuých” cho khỏi bị chạy làng… Tơi chỉ cịn ao ước được bà Ách
Nhống tiếp nữa là đã có thể lượm lặt đủ những “mẫu hàng" trong cái kỹ nghệ lấy Tây.”
Đã giúp nhân vật tơi có cái nhìn đa chiều đối với những Kỹ nghệ lấy Tây. Rằng họ có thật
sự đáng xấu xa như chúng ta nghĩ, khi sống trong một xa hội rối ren thời bấy giờ.
3.3. Xót thương cho số phận của những đứa trẻ con lai hồn nhiên và đáng
thương.
Nhân vật tôi cảm thấy lo lắng cho số phận của những đứa trẻ : Tôi buồn rầu vì chợt
nghĩ đến bố mẹ chúng. Bọn trẻ ấy sau này sẽ có tương lai ra sao?.Trước những đứa trẻ
khơng được ba mẹ yêu thương, lại mang tiếng là con của Me Tây nhẽ ra chúng phải được
sự yêu thương của người mẹ thế mà: “Khốn nỗi, không phải ai cũng có gan dùng đến
cách đề phịng sự sinh dục cả. Từ những cuộc... cẩu hợp đó có những kết quả là bọn trẻ
kia. Có con là sự quý báu đối với ai, chứ đối với hạng vợ chồng này, có con là một cái
hoạ. Người đàn bà hầu như chửa đẻ để rồi mà hối hận. Anh đàn ông, nếu khơng hối là đã
điên có khi cũng bán tín bán nghi đánh mấy cái dấu hỏi: có phải chính đó là lũ con cùng
máu với mình?Sự nghi hoặc đã sinh ra lịng căm hờn, mà bao nhiêu lẽ cơng phạt của lòng
16
căm hờn đều chỉ trút lên đầu những đứa bé ngây thơ và vô tội!Những đứa trẻ kia rất đáng
yêu thương”.Trẻ em sinh ra ai mà chẳng muốn được yêu thương, những đứa trẻ đó suy
cho cùng đều là nạn nhân của hồn cảnh. Nên lời nói hồn nhiên và sự đùa nghịch của các
em lại trở thành cái gai trong mắt của người mẹ. Thật xót thương thay.
II. Nghệ thuật
1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
Một trong những thành cơng của nhà văn khi xây dựng nên phóng sự đó là xây
dựng đươc hệ thống nhân vật sống động, điển hình qua ngoại hình và qua hành động.
Thơng qua đó, khiến người đọc có cái nhìn bao qt, tồn diện nhân vật. Nhà văn thường
tập trung miêu tả, khắc họa tỉ mỉ từ ngoại hình, nội tâm, quá trình phát triển tính cách của
nhân vật. Qua đó, nhà văn thường nêu lên những vấn đề và những mâu thuẫn cơ bản
trong tác phẩm và từ đó giải quyết vấn đề, bộc lộ cảm hứng tư tưởng và thẩm mĩ. Ví dụ
như khi lột tả được tâm trạng của Đi-mi-tốp khi lấy và chia tay những mười bốn người
vợ, từng người ông kể đều bộc lộ tâm trạng. Hay nhân vật suzenne đầy suy tư, ẩn đằng
sau người con gái ấy là nỗi đau đớn tột cùng rằng cô cũng chẳng thể nào bứt ra được hoàn
cảnh là con của một me Tây.Hay khi xây dựng bà Ách, một me Tây có tiếng ở xã Thị
Cầu, khơng ai muốn tồn tại ở đây mà không đến thỉnh giáo bà, bà có biết bao của chìm
nổi giành cho đứa con gái u q của mình nhưng bà vẫn khơng thể giúp cô vứt bỏ đi
mặc cảm là con của một me Tây. Betông Brecht cho rằng: "Các nhân vật của tác phẩm
nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của những con người sống mà là những
hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả". Thông qua việc khắc
họa thành công những con người làm nghề me Tây ở xã Thị Cầu, đó cũng là hình ảnh thu
nhỏ của thực trạng xã hội lúc bấy giờ khi mà nhu cầu Tây hóa nó đã ăn sâu vào mỗi con
người, đồng tiền trở thành thế lực vạn năng để chi phối đời sống vật chất cũng như tình
cảm của con người.Nhưng đằng sau tất cả, nhà văn đã mạnh dạn đi vào đời sống thực của
me Tây để nhận ra một điều rằng không phải ai làm nghề me tây đều xấu, không phải bản
tính họ xấu xa mà ở họ, đều có nỗi khổ tâm của riêng mình, và cái xã hội ấy đã chèn ép
con người, khiến họ khơng thể làm gì khác hơn. Mỗi người một hoàn cảnh và phải chăng
chúng ta nên đặt họ vào cái thời đạt mà họ đang sống để thấy rằng họ là những con người
đáng thương hơn là đáng trách. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn đã giúp chúng
ta hình dung rõ hơn về nhân vật và đó cũng là một thành cơng lớn của một nhà văn chân
chính.
2. Giọng điệu, ngơn ngữ
2.1. Giọng điệu
Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với
hiện tượng được miêu tả thể hiện qua âm hưởng của tác phẩm.
17
Giọng điệu nghệ thuật mang đến cho độc giả sự lơi cuốn, gây cấn, hồi hộp đầy kịch
tính cho tác phẩm phóng sự. Ở đây tác giả nói về sự việc ở nhiều góc độ với những giọng
điệu khác nhau. Khi thì Vũ Trọng Phụng bơng đùa hài hước, khi thì châm biếm mỉa mai,
lúc cảm thơng, lúc lạnh lùng,… Nhưng dù nói bằng giọng điệu nào, Vũ Trọng Phụng
cũng thể hiện sự trăn trở trước hiện thực xã hội và số phận con người.
2.1.1 Giọng điệu trào phúng
Giọng điệu trào phúng trước hết thể hiện một tiếng cười châm biếm mỉa mai và sau
đó thể hiện sự cảm thơng chia sẻ của tác giả. Mục đích tác giả sử dụng giọng điệu này là
để tạo nên những tình huống gây cười, thơng qua tiếng cười đó cho người đọc thấy những
hành vi lọc lừa, dối trá và sự đảo lộn của xã hội nhằm cảnh tỉnh mọi người. Giọng điệu
trào phúng trong thiên phóng sự này rất đa dạng. Có lúc thì giọng đùa vui hóm hỉnh, khi
thì giọng mỉa mai châm biếm và mạnh hơn nữa là giọng đả kích.
Giọng điệu hóm hỉnh, đùa cợt là một giọng đùa vui nhẹ nhàng. Trước hết giọng
điệu này tạo nên tiếng cười châm biếm bằng những tình huống nghịch lí, câu nói giễu cợt
của tác giả và nhân vật. Giọng điệu này được tác giả thể hiện rõ nét qua các tình huống
trong phóng sự làm cho người đọc vừa thắc mắc vừa ngỡ ngàng trước lối miêu tả đầy
dụng ý của tác giả.
Trước hết tác giả đã xây dựng các tình huống lạ, đối lập. Cảnh gặp nhau giữa hai
gia đình, một bên là gia đình Pháp trăm phần trăm, cịn bên là gia đình có chồng là người
Pháp và vợ là người An Nam cùng hai đứa con lai. “cặp vợ chồng quý phái người
Pháp trăm phần trăm kia đã bắt tay bà “đầm ta” một cách kính cẩn không ngờ. Bà này cứ
khanh khách cả cười, tiếng Pháp làu làu, tiếp chuyện đã tự nhiên, mà bệ vệ, mà sang
trọng!”. Tác giả đã khéo xen vào đó những lời bình luận của mình:
“Một cảnh như thế khiến ta có cái cảm tưởng dễ chịu khi thấy một người đàn bà là
dân một nước còn “dãm man”, lấy chồng người bảo hộ mình hẳn hoi mà cũng khơng lép
vế.”
Lấy tây như thế hẳn là không phải làm một kỹ nghệ.” Hai bên gia đình hầu như
bình đẳng. Người đàn bà An Nam ấy đã quên hẳn mình là dân một nước đang bị bảo hộ.
Dường như tác giả “đề cao”, tự hào về người vợ An Nam. Nhưng những chữ “đầm ta”,
“kính cẩn khơng ngờ”, “lấy chồng người bảo hộ mình hẳn hoi mà cũng khơng lép vế đã
để lại cho độc giả sự cảm nhận về thái độ mang tính châm biếm, buồn cười. Tác giả thấy
lạ vì nó khác với phong tục nước ta. Phụ nữ nước ta dịu dàng, kín đáo, khơng có cái kiểu
“khanh khách cả cười”, lả lơi với người khác giới. Đồng thời, dân nước An Nam – một
nước bị Pháp bảo hộ khơng thể ơn hịa, nhã nhặn với giặc ngoại xâm. “Cảm tưởng dễ
chịu” một cách nói khiêm tốn nhẹ nhàng. Một cảnh trái ngược với sự thật, lại đang xảy ra
trước mắt Vũ Trọng Phụng thì làm sao ơng ta nhìn sự việc đó dễ chịu cho được.
18
Lại một câu hỏi đầy hài hước và không kém phần dí dỏm, trêu đùa khi chứng kiến
tên lính cãi nhau với bà Kiểm Lâm. Dù biết đó là cuộc cãi nhau có liên quan đến kỹ nghệ
lấy Tây và cũng đốn biết được quan hệ của hai người đó ra sao. Họ là hai vợ chồng
nhưng với một cách nói đùa vui dí dởm: “Người lính…chồng hay là khách hàng”. Vì
những hành động ngỗ ngược của người đàn bà kia đã để vũ Trọng Phụng đặt một nghi
vấn về mối quan hệ giữa hai người và nhằm tạo nên sự lơi cuốn và hấp dẫn cho người
đọc.
Khi nói về những cuộc nhân duyên giữa cô gái An Nam với lính Tây, Vũ Trọng
Phụng gọi đó là “những cuộc phối hợp”. Bình thường chúng ta hay phối hợp đồ (quần với
áo) xem chúng có hợp nhau khơng để khi mặc vào sẽ làm cho mình thêm đẹp hơn. Cịn ở
đây Vũ Trọng Phụng gọi hôn nhân là “những cuộc phối hợp giữa người với người”. Quần
áo ta lựa đến khi thích hợp thì sẽ mặc, cịn người với người trong kỹ nghệ lấy Tây thì
khơng cần biết hợp hay khơng, hễ đáp ứng được diều kiện thì thành đơi. Những cuộc hôn
nhân ấy gần giống như một kỹ nghệ để kiếm sống vì rằng kỹ nghệ ấy có đủ các chiêu trị
mánh khóe để cướp đoạt, lừa dối nhau. Trong những cuộc hơn nhân ấy khơng hề có tình
u thương mà thay vào đó là vì tiền, vì miếng ăn. Cách nói của Vũ Trọng Phụng đã lột tả
hết được bản chất của sự việc.
Khi nói về những người lính Tây Vũ Trọng Phụng có cách ví von ngộ nghĩnh. Tác
giả ví họ như một con hổ đầy uy quyền và sức mạnh: “Dù xưa kia là (…)một kẻ sát nhân
xồng, một người lê dương thì ít ra cũng đã là một ơng cọp. Họ thường có những lá gan,
quả mật to phi thường. Nếu họ phải lấy một người vợ đất Nam Việt thì đó là hùm thiêng
khi đã sa cơ.” Những người lính dũng mãnh, xơng pha trận mạt, từng giết biết bao
người. Với họ, khơng có gì là đáng sợ nữa, nhưng khi đặt chân đến vùng đất An Nam và
lấy một người vợ An Nam thì như là “Hùm thiêng khi đã sa cơ”. Dù con hổ ấy có dũng
mãnh, bạo ngược và đầy uy quyền thì khi đặt chân đến đây cũng gặp thất bại thảm hại
dưới tay của những người vợ. Có lẽ anh hùng thì làm sao qua được ải mỹ nhân.
Một bức tranh biếm họa được tác giả vẽ ra. Một bên là những me Tây đang thản
nhiên nằm chờ chồng đến cưới, còn một bên là Khương Tử Nha điềm tĩnh ngồi câu chờ
đấng minh quân xuất hiện. Tuy khác nhau về mục đích nhưng giống nhau ở vẻ bình thản
ngồi chờ và chờ bất chấp thời gian. Trước hiện thực cuộc sống phũ phàng, những người
phụ nữ khơng cịn con đường lựa chọn nào khác. “Cũng răng trắng cẩn thận đấy, song nó
vẫn quê kệch thế nào! Chỉ được cái bình tĩnh là đáng phục! Ơi! Lã Vọng! Cụ thử sống lại
mà xem vẻ mặt một người đàn bà khi ngồi bó tay chờ…cơng danh mà thản nhiên đến thế,
rồi cụ nghĩ lại những lúc có cái tâm thần thư thái lúc ngồi câu, xem cụ có phải kính phục
cái“triết học” của me ấy khơng!”. Mượn điển tích “Lã Vọng” của Trung Hoa để bày tỏ
thái độ của mình trước vẻ bình thản của các me Tây khi chờ chồng. Cuộc sống đã làm
19
cho con người như trơ ra trước mọi tình huống. Theo đó, nhân phẩm và lịng tự trọng
cũng bị phớt lờ. Cách nói của tác giả là kiểu “gọi trời không thấu”.
Một giọng điệu châm biếm nhẹ nhàng trong cuộc bình luận về trận chiến giữa bà
Kiểm Lâm với tên lính. Bà Kiểm Lâm bị tên lính ấy tát vào mặt rất đau đớn và tủi phận.
Những tác giả nói bằng một kiểu khác, kiểu nói ngược: “tặng vợ những cái (quay
hàm)”. Như muốn làm giảm đi sự đau đớn cho người đọc vậy. Cách nói bị động nhằm tạo
cho người đọc sự lôi cuốn, hấp dẫn và đầy kịch tính của câu chuyện “Ơng hàng xóm đang
bị cái“ơng chồng bị vợ đuổi” đấm đá cho một trận không tiếc tay.” Tác giả không những
mang cái cười mỉa mai đối với anh chồng thơ bạo mà cịn cho thấy sự hỗn loạn, đảo lộn
trong các mối quan hệ của con người.
Một giọng điệu khác mà tác giả sử dụng cũng mang tính trào phúng nhưng khơng
phải chỉ cười hóm hỉnh mà đầy sự mỉa mai, châm biếm. Sự châm biếm, mỉa mai là một
cách nói trái ngược với thái độ châm chọc, chế giễu qua đó thể hiện quan điểm phê phán
của người nói. Sự mỉa mai, châm biếm trong tác phẩm có khi là lời của tác giả, cũng có
khi tác giả mượn lời của nhân vật để thể hiện. Như trong cơn ghen tng, tên lính Tây kia
đã hắt một gáo nước lạnh vào mặt Vũ Trọng Phụng “Phải! Một trăm thằng”. Lời nói đó
thể hiện sự mỉa mai của hắn ta. Đó là sự vơ đủa cả nắm như muốn chụp mũ đối phương
và phản bác lại lý lẽ của người khác. Hắn cho rằng mình biết tất cả, lý lẽ của mình là
đúng. Cuối tình huống trước khi đi tên lính kia cịn để lại lời hăm dọa nhẹ nhàng bằng hai
chữ “hầu hạ” như hứa hẹn một cuộc xô xát đẫm máu. Hành động ghen tng của tên lính
kia lại được tác giả hiểu được và thông cảm cho hắn với lý do “Điều tôi cầm chắc là bác
lính lê dương ấy, thấy một người trẻ tuổi lạ mặt ở giang sơn mình mà đã nổi nóng, tất
nhiên có phen bị vợ, hạng phụ nữ Việt Nam đi lấy Tây lừa dối hẳn hoi rồi.”. Thông
thường từ “hạng người” để chỉ những loại người xấu xa nhưng ở đây tác giả lại chỉ đích
danh vào “hạng phụ nữ Việt Nam chuyên lấy Tây”. Sự mỉa mai như vậy đủ để người đọc
thấy được hành động ghen tng của tên lính kia là có cở sở.
Bằng giọng điệu châm biếm sắc sảo, Vũ Trọng Phụng đã đưa những người lính ấy
từ những bậc nam nhi “đầu đội trời chân đạp đất” thành những kẻ phải chịu khuất phục
dưới chân của những me Tây ở đây vùng đất Thị Cầu.
Trong giọng trào phúng của Vũ Trọng Phụng, người đọc cịn nhận ra giọng đả kích
rất mạnh mẽ. Đả kích là sự phê phán, lên án một cách gay gắt về một việc trái với đạo lý
cuộc sống. Ở đây tác giả dùng giọng điều đả kích để phê phán, lên án những hành động
của các me Tây và những tên lính. Tác giả để cho Đi-Mi-Tốp kể về những người vợ của
mình. Những người vợ ấy như những “đứa trẻ ốm yếu và mười hai lần nhơ bẩn”. Vì bị
lừa gạt hết mười hai lần nên Đi-Mi-Tốp rất đau khổ và hận thù những người đàn bà ấy.
Hễ nhắc tới thì dường như hắn ta có vẻ tức tối và căm thù lắm. Trong những người vợ mà
ơng kể thì có một vài trương hợp thể hiện thái độ chà đạp sỉ nhục nhân cách một cách thê
20
thảm: “Ngày nào cũng thường cãi cọ nhau: nó mắng tơi là khốn nạn vì ghen tng, tơi
mắng nó là khốn nạn vì đĩ thỗ.”. Trong lúc cãi nhau giữa hai vợ chồng, lúc tức giận họ
có thể nói nặng lời với nhau nhưng cũng không bao giờ dành tặng cho nhau những lời
như vậy cả. Nhưng những cặp vợ chồng này thì họ “dành tặng” cho nhau những từ “khốn
nạn, đĩ thỏa” là chuyện bình thường vì họ muốn lên án đối phương nên ngôn ngữ càng
nặng nề càng thể hiện rõ thái độ. Khi Đi-Mi-Tốp đề cập đến trí tuệ của vợ mình “Hai nữa,
cả hai đều xấu q. Ơng Trời của tơi! Xấu mà lại ngu, thật là những cái kỷ lục của sự
ngu.”. Những lời của Đi-Mi-Tốp đã đánh mạnh, đánh thẳng vào một bộ phận me Tây xấu
xa lúc bấy giờ. Đó là một hiện thực, dù khơng có gì tốt đẹp, tác giả vẫn phải thể hiện để
người đọc thấy rõ hiện trạng xã hội.
2.1.2. Giọng điệu thông cảm, chia sẻ
Cảm thông, chia sẻ nghĩa là có thể hiểu được hồn cảnh khó khăn và số phận của
một cảnh đời bất hạnh, qua đó chia sẻ phần nào khó khăn, tâm tư tình cảm,.. để giúp đỡ
họ vượt qua khó khăn ấy. Trong thiên phóng sự này tác giả thể hiện sự cảm thơng chia sẻ
của đối với một số me Tây như bà Kiểm Lâm, Dun, Ái và Tích,… Đặc biệt ơng ln
quan tâm đến những đứa trẻ lai “vô thừa nhận” bởi vì tương lai của chúng mập mờ u tối
và cả những người lính Tây. Sự cảm thơng chia sẻ ấy được tác giả thể hiện bằng một
giọng thoáng buồn và có chút băn khoăn về hiện thực cuộc sống. Vũ Trọng Phụng sinh ra
và lớn lên trong hoàn cảnh đầy khó khăn, gian khổ. Gia đình ơng là gia đình “nghèo gia
truyền”. Ơng mồ cơi cha từ lúc được bảy tháng tuổi nên cuộc sống khó khăn. Mặc dù ham
học nhưng ông phải nghỉ để phụ giúp mẹ phần nào gánh nặng gia đình. Do sớm bươn
chải với đời để kiếm sống nên ông hiểu được và thông cảm, chia sẻ với những người có
hồn cảnh khó khăn, nghèo khổ. Qua đó ơng muốn thay đổi xã hội. Ơng viết lên và chỉ ra
cho mọi người thấy những cái xấu xa, thối nát của xã hội đương thời nhằm cảnh tỉnh mọi
người. Từ đó ta có thể cảm nhận được văn chương của Vũ Trọng Phụng giàu tình cảm
chân thật.
Mở đầu tác phẩm tác giả đã thể hiện sự cảm thơng cho một người lính Tây, mặc dù
hắn ta đã có những hành động khơng mấy thiện cảm lắm với Vũ Trọng Phụng. Tác giả
đứng ở vị thế của người khác để hiểu họ: “Nghĩ kỹ ra người ta cũng có quyền nghi ngờ
mình và sinh sự với mình. Lẽ thứ nhất vì người Âu ở Đơng Dương có cái thói quen hễ cứ
thấy một người bản xứ làm báo thì nghi cho là làm hội kín cũng như thấy một người ăn
vận âu phục lại gần nhà mình là chỉ có một nghề đi chim vợ Tây! Và lẽ thứ hai là vì ở
cái…“Kỹ nghệ lấy Tây” nữa.”. Bị ghen tuông, hăm dọa một cách vô cớ mà ông
lại bênh vực cho người đã hăm dọa mình, điều này thật kỳ lạ. Phải chăng trước khi đặt
chân đến nơi đây Vũ Trọng Phụng đã tìm hiểu đơi điều về lối sống nơi đây và đã có sự
chuẩn bị tâm lí trước nên đã xử lý tình huống ấy một cách bình tĩnh và đúng mực. Dù là
kẻ “ngoại bang” nhưng tác giả cũng không quá gay gắt khi tiếp xúc với họ.
21
Qua việc tìm hiểu thơng tin, ơng đã chứng kiến nhiều cảnh học nghề dạy nghề của
những me Tây có nhiều kinh nghiệm truyền đạt lại cho “học trò” của mình. Chứng kiến
mà phải chạnh lịng vì cách đối xử theo kiểu “dì ghẻ con chồng”. “- Cái gì? Kiến vào bơ
à? Tiên nhân mẹ nhà mày nữa! Làm với ăn! Chỉ được cái bộ ngồi lỳ ra như mẹ người ta
ấy, chứ khơng cịn biết trơng đến một cái gì cả!”. Thật xót xa cho cơ gái kia, phải chịu tủi
nhục, ngậm đắng nuốt cay mà chờ cơ hội lấy được chồng. Giọng tác giả lúc này nhẹ
nhàng, thoáng buồn cho số phận của cô gái ấy, ông muốn can thiệp nhưng đành bất lực
chỉ đứng nhìn.“Một...nàng tên Duyên là đến nỗi bị chửi như thế việc ấy khiến động
lịng...trắc ẩn của tơi. Tơi chỉ muốn can thiệp. Chưa thể can thiệp được ngay, tôi hãy chạy
ra chỗ cái mành mà nhịm. Thế cũng đủ tỏ lịng săn sóc rồi: tôi đã bỏ cốc cà phê. ”. Thấy
sự bất cơng ngang trái đó ơng “động lịng” thương xót. Tuy xót xa, cảm thơng cho thân
phận cơ gái, muốn bênh vực cho cơ nhưng cũng phải bình tĩnh lại mà cho qua. Người phụ
nữ đáng thương ấy làm việc cực lực, vất vả như một đầy tớ để chờ được chồng cưới, cơ
hội chưa thấy đâu nhưng cay đắng, tủi nhục cô phải gánh chịu mỗi ngày. Tác giả dường
như thở dài trước tình cảnh của cơ gái ấy: “Ấy một người như thế mà người ta nuôi
để chỉ chờ đến lúc là... quăng cho Tây phương.”.Thân phận người con gái lúc này giống
như một món hàng chờ đến lúc “xuất kho”, chờ để “quăng” cho lính Tây lấy làm vợ.
Dù đang viết phóng sự để phản ánh hiện thực nhưng điều đáng trân trọng là tác giả
đã bày tỏ chân thành những cảm xúc của mình. Điều này làm cho phóng sự khơng khơ
khan và cịn thể hiện được tâm hồn đầy tình cảm của tác giả.
2.2. Ngơn ngữ
Ngơn ngữ trong thiên phóng sự này thường đi kèm với những hành động của nhân
vật. Qua đó tác giả đã khái quát nên tính cách và phẩm chất của họ. Ngơn ngữ trong
thiên phóng sự này được tác giả sử dụng chủ yếu là ngôn ngữ đối thoại. Trong ngôn ngữ
đối thoại này ta thấy có sự phân định rõ ràng về vai vế giữa các nhân vật, ai là chủ, ai là
người bị phụ thuộc và trong những cuộc đối thoại ấy cịn có sự xen vào ngơn ngữ miêu tả
cử chỉ và những lời bình luận của tác giả. Qua đó cho thấy được sự đa dạng trong cách sử
dụng ngôn ngữ của Vũ Trọng Phụng.
Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật mang tính khn phép và phân định rất rõ ràng
giữa người trên kẻ dưới. Người trên có thể la mắng, dạy bảo như thế nào cũng được cịn
kẻ dưới thì phải khép nép và phục tùng. Khi Dun nói chuyện với bà Cẩm thì phải “dạ,
thưa”, dù có bị la mắng hay bị đánh cũng khơng được trả lời, cãi lại. Mặc dù bị bà Cẩm la
mắng một cách thậm tệ trước mọi người nhưng Duyên vẫn đứng im, khơng khóc lóc, cãi
cọ hay tỏ ra tức giận gì cả mà vẫn giữ một thái độ chịu đựng: “Chợt thấy tiếng bà Cẩm
gắt:
- Làm gì mà lâu thế? Lúi húi mãi thế? Có thấy mẩu bánh không? Đến cái giọng thản
nhiên không run sợ đáp lại:
22
- Thưa cơ, có bánh, nhưng hộp bơ đặc cả kiến rồi...
- Cái gì? Kiến vào bơ à? Tiên nhân mẹ nhà mày nữa! Làm với ăn! Chỉ được cái bộ
ngồi lỳ ra như mẹ người ta ấy, chứ không cịn biết trơng đến một cái gì cả!
……
Dun chỉ đứng im cúi đầu. Không cãi là nhận lỗi”.
Sự đan xen ngôn ngữ miêu tả cử chỉ trong những cuộc đối thoại của nhân vật trong
phóng sự này gớp phần thể hiện rõ tính cách từng nhân vật với dáng vẻ bình thản ngồi
“ngấm nghía” cuộc hội kiến giữa Đi-Mi-Tốp với Ái và Tích cho thấy sự lão luyện bà Đội
Tứ: “Những lời tiến cử như vậy khiến tôi chẳng dám coi thường một bà già trạc 60tuổi,
tóc mun đã pha màu bạc, một mắt hỏng, cái mũi dọc dừa tô điểm cho bộ mặt có cái vẻ
Tây phương, răng lại nhuộm đen, ngồi thản nhiên nhai trầu bỏm bẻm ngắm nghía
cuộc“hội kiến” của Đi-mi-tốp với Ái và Tích. Cái vẻ thản nhiên của bà Đội Tứ lúc này
thế mà đáng sợ, vì Đi-mi-tốp cứ vừa nói với Ái vừa nhìn trộm bà ta. Đi-mi-tốp có dáng
diều hâu bay cao lăm le nhìn bọn gà con, song cũng nơm nớp sợ mỏ và cánh của con gà
mẹ.”. Sự “ngắm nghía” ấy là một cách nhìn chăm chú, quan sát một cách tỉ mỉ để giữ thế
cân bằng cho cuộc hội kiến trên. Cách miêu tả cử chỉ như vậy cho thấy sự quan sát một
cách bao quát của tác giả qua từng hành động của các nhân dù lớn hay nhỏ, dù nhiều hay
ít thì ơng cũng chú ý miêu tả và xây dựng một cách chân thực.
Có những cuộc trị chuyện hay đối thoại xen có vào những lời bình luận của tác giả.
Như sự bình luận về cuộc cãi nhau giữa bà Kiểm Lâm với tên lính Tây tác giả đưa ra
nhận định của mình: “Bốp một cái, cái tát đã vội chấm câu cho những câu mắng nhiếc với
đe doạ“lăng loàn”. Người vợ lùi lại đằng sau hai bước, hai tay bưng giữ lấy mặt và cúi
đầu đứng im. Nhưng, than ôi! Anh chồng bây giờ lại muốn cho vợ nói nữa. Vì rằng lú
cấy nó mới xơng vào, hai bàn tay nắm lại mà tặng vợ những cái “quai hàm” hình như
trên sân đánh bốc nó muốn cho kẻ địch bị một miếng “nốc ao”để mình chiếm giả vậy!”.
Lời bình luận ấy giống như vẽ ra trước mắt người đọc một trận đấu võ thật đang diễn ra
giữa hai bên không cân sức. Thế thắng đã nghiêng về một bên, lúc này tác giả vào vai
một nhà bình luận quan sát trực tiếp rồi nói về diễn biến của trận đấu một cách chân thực
và khách quan làm cho người đọc dễ hình dung và nắm bắt được diễn biến câu chuyện.
Bằng lối viết phóng sự dầy dặn kinh nghiệm, tác giả đã xây dựng được ngôn ngữ
nhân vật qua các màn đối thoại trực tiếp. Các màn đối thoại ấy có đủ các hình thức như
có sự phân định vai vế, hay có sự đan xen vào ngôn ngữ miêu tả cử chỉ và xen những lời
bình luận. Từ đó tạo nên một sự đa dạng trong nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ, hành động
làm nổi bật những cá tính đặc trưng của các nhân vật.
3. Kết cấu
Nói đến nghệ thuật của phóng sự văn học thì khơng thể bỏ qua được nghệ thuật kết
cấu. Nghệ thuật này giúp cho tác giả liên kết các tình tiết sự kiện trong tác phẩm trở nên
23
logic, chặc chẽ hơn. Sự liên kết các sự kiện và tình tiết trong phóng sự văn học có thể
tn theo một trật tự không gian và thời gian từ đầu đến cuối và cũng có thể phá vỡ đi trật
tự ấy. Trong phóng sự “Kỹ nghệ lấy Tây” này thì lối kết cấu được chia thành hai loại. Kết
cấu theo kiểu mảnh ghép và kết cấu chương hồi.
3.1. Kết cấu kiểu mảnh ghép
Đây là lối kết cấu quan trọng nhất trong phóng sự “ Kỹ nghệ lấy Tây”. Kết cấu theo
kiểu mảnh ghép nghĩa là tác giả ghép các sự kiện gần giống hoặc giống nhau thành một
chương nhằm mục đích gợi mở hoặc lý giải hoặc dẫn nhập vào tác phẩm để tạo nên sự lôi
cuốn hấp dẫn cho người đọc. Kết cấu này khơng có sự bó buộc về không gian và thời gian
nên các sự kiện được tác gải sắp xếp theo dụng ý riêng của mình. Trong phóng sự này,
việc Vũ Trọng Phụng sử dụng lối kết cấu theo kiểu mảnh ghép cũng nhằm mục đích thay
đổi khơng gian và thời gian diễn ra sự kiện. Khơng những thế tác giả cịn sáng tạo thêm
các sự kiện đan lồng vào nhau để làm nổi bật quan niệm của mình hoặc làm nổi bật quan
niệm của nhân vật. Đọc qua chương đầu của bài phóng sự ta thấy kết cấu này thể hiện rất
rõ nét.
Ngay từ lúc đặt chân đến đất Thị Cầu thì Vũ Trọng Phụng đã phải “đụng độ” với
một tên lính Tây với bộ mặt đầy hung tợn và ghen tuông. Sự việc ấy đã được tác giả xử lý
một cách khéo léo và êm xui. Qua sự việc đó tác giả đã rút ra được một cái nhìn thẳng
thắng về nghề lấy Tây này. Hành động ghen tng ấy vừa nói lên tầm nhìn hạn hẹp của
tên lính kia vừa đặt dấu chấm hỏi vì sao tên lính Tây kia lại làm như vậy. “Những cuộc
phối hợp của một số đông phụ nữ nước nhà với những người Tây phương liệu có đáng là
những cuộc nhân dun hẳn hoi khơng? Hay đó chỉ là, chỉ như…, chỉ hao hao giống…
chỉ phảng phất…đáng gọi là một thứ “kỹ nghệ”?”. Tác giả còn đặt ra một dấu chấm hỏi
đầy mỉa mai và nghi ngờ về kỹ nghệ ấy. Việc đặt một câu hỏi như thế tác giả cũng không
quên đưa ra những dẫn chứng để thuyết phục người đọc. Những dẫn chứng không xảy ra
cùng thời diểm, không theo trật tự không gian và thời gian mà đã được tác giả sắp xếp lại
thành những dẫn chứng để lý giải về kỹ nghệ ấy.
Ban đầu tác giả nói về cuộc gặp gỡ của hai gia đình Pháp và gia đình Pháp –Việt.
Thời gian là vào một buổi sáng với những tiếng chuông vang cả một vùng trời. Địa điểm
ngay trước nhà thờ chính Hà Nội. “Bà này cứ khanh khách cả cười, tiếng Pháp làu làu,
tiếp chuyện đã tự nhiên, mà bệ vệ, mà sang trọng!”. Cuộc trò chuyện diễn ra rất tự nhiên,
lịch sự. Họ cứ thản nhiên nói chuyện với nhau mà khơng cần biết đâu là dân nước bảo hộ,
cịn đâu là dân nước bị bảo hộ. Phải chăng ý tác giả muốn nói đây là một thứ kỹ thuật
giao tiếp mà kỹ nghệ lấy Tây đã mang đến cho họ.
Ngay lập tức tác giả chuyển sang một cảnh khác nữa. Lúc này không gian và thời
gian đã được thay đổi. Sự việc lúc này không nối tiếp theo sự việc trước, không xảy ra
cùng thời gian và địa điểm. Không cịn khơng gian thời gian của một buổi sáng tại nhà
24
thờ chính Hà Nội nữa mà thay vào đó là “một buổi sáng kia”. Tại một phiên tòa xét xử
một me Tây đã mạnh dạng, can đảm khi thú nhận mình là nghề lấy Tây. Câu trả lời ấy đã
phần nào lý giải thuyết phục người đọc hơn về câu hỏi ở trên của tác giả. Và cũng giúp
cho người đọc tin rằng nghề lấy Tây là có thật. Đó là một kỹ nghệ hẳn hoi. Sự thay đổi về
không gian và thời gian diễn ra rất rõ ràng. Ban đầu tác giả đang trò chuyện với bà hàng
nước sau đó tác giả thay đổi hàng loạt các đại điểm diễn ra sự kiện. Theo sự sắp xếp thay
đổi không gian thời gian của tác giả bắt đầu đang trò chuyện với bà hàng nước “Nhà bà
hàng nước” rồi sau đó ơng kể đến Khơng gian bối cảnh “trước nhà thờ chính, Hà Nội” ,
tiếp theo lại chuyển sang “một cái nhà Tây nhỏ ở vùng Châu Thành”, rồi sau đó đến
khơng gian và thời gian ở “ở làng Cổ Mễ” và cuối cùng thì ơng quay lại tiếp tục câu
chuyện ở chỗ cũ là “nhà bà hàng nước”. Liên tiếp những thay đổi về không gian và thời
gian diễn ra sự kiện những vẫn đảm bảo sự logic của tác phẩm.
Không chỉ xếp các sự kiện theo chủ ý của tác giả mà ơng cịn có sự sáng tạo hơn
nữa là lồng vào các sự kiện để góp phần làm rõ quan điểm của mình hoặc của nhân vật.
Như cuộc gặp gỡ bà Cẩm – một me Tây đã về hưu, qua đó tác giả cũng biết được kha khá
về quá trình hoạt động của các me Tây khác. Rồi còn chứng kiến cảnh học nghề và truyền
nghề của bà Cẩm nữa. Bà này đang tập tàng cho Duyên - một me Tây chập chững bước
vào nghề bị bà Cẩm quát la mắng đủ điều và tiếp theo là sự sắp xếp các tình tiết, sự kiện
và thay đổi cả khơng gian thời gian chen vào đó là đoạn đời của Duyên. Đoạn đời ấy đã
tố cáo Duyên về tội khơng thủy chung với chồng mình. Đoạn đời được bắt đầu từ
“mộtbuổi chiều…”dù đã có chồng nhưng Duyên vẫn cịn tính lẵng lơ dám trêu chọc trai
giữa đám đơng:
“Hỡi anh đi đường cái quan… Dừng chân đứng lại em than một lời!”
Một người vợ với một tiểu sử đầy những tội lỗi như vậy thì ai có thể cưới cho được.
Thế nên nàng ấy mới dấn thân vào nghề lấy Tây để tìm chốn dung thân.
Bằng cách ghép nối các sự kiện, tác giả đã cho thấy cuộc đời những me Tây cũng
lắm gian truân. Đang trò chuyện với bà Đội Tứ, tác giả dẫn dắt vào một câu chuyện khác
nữa là quãng đời của Ái và Tích. Sự dẫn dắt ấy nhằm lý giả cho người đọc về hoàn cảnh
và con đường đã đẩy đưa hai chị em họ bước vào con đường lấy Tây này. Còn số phận
của Ái và Tích thì khốn đốn hơn bà Kiểm Lâm nhiều vì gia cảnh của hai người này nghèo
khổ phải đi làm thuê kiếm sống. Ái vừa xinh đẹp vừa giỏi giang hơn Tích nên được ơng
bà chủ thương. Người xưa vẫn nói “hồng nhan bạc mệnh”. Ái bị ông chủ gạ gẫm cướp đi
cái trinh trắng của người con gái. Chưa hết đau khổ, tủi nhục thì Ái đã bị bà chủ đuổi
việc. Tích cũng ra đi cùng với Ái. Từ đó Ái suy nghĩ bi quan hơn rằng khơng một người
chồng An Nam nào có thể chấp nhận một người vợ của mình đã trao thân cho người khác.
Mất cái trinh trắng của mình Ái xem đó là một nỗi tủi nhục, một vết nhơ của đời mình.
25