Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.92 KB, 3 trang )
Vài Nghi Thức Cần Biết Khi Uống
Rượu Cần
Nếu như uống trà trở thành một loại nghệ thuật
ẩm thực độc đáo ở các nước châu Á như Nhật
Bản, Trung Quốc thì rượu cần của đồng bào
dân tộc thiểu số miền núi miền Trung Tây
Nguyên cũng có những quy luật riêng, khi
thưởng thức được nâng lên thành nghi lễ uống
rượu cần của đồng bào miền núi nước ta.
Mỗi vùng đất ở nước ta đều có một loại rượu mang hương vị độc đáo riêng
biệt. Miền Bắc có rượu làng Vân, hoặc rượu cúc, rượu sen, rượu hoa cau; ở
Bình Định là rượu Bàu Đá, rượu nếp nức tiếng nhiều nơi; còn miền Nam là
rượu nếp than, Gò Đen Hầu hết các loại rượu miền xuôi đều được chưng
cất từ cơm gạo hoặc ủ từ hoa quả. Còn ở miền núi, đồng bào dân tộc có loại
rượu cần ủ bằng bắp, mì hoặc cơm gạo đựng trong ghè không kém phần độc
đáo, hấp dẫn.
Nồng độ rượu cần không cao như rượu gạo miền xuôi, thế nhưng khi đã say
thì cũng không kém phần dữ dội. Có lẽ tên gọi rượu cần là xuất phát từ cách
uống vô cùng độc đáo. Đồng bào dân tộc dùng loại cây trúc, tre thân rỗng,
dài gần 1 mét cắm vào tận đáy ghè để uống. Trong cùng một ghè nhưng có
chỗ ngon hoặc chua, nhạt vì vậy, nếu không ưng ý, có thể rút cần và găm
vào chỗ khác ngon hơn.
Ghè rượu làm bằng đất, tráng men sành sứ với nhiều hình ảnh, họa tiết mang
nét văn hóa riêng của từng dân tộc. Trước khi vào cuộc, người ta buộc ghè
rượu vào cột nhà, rửa sạch bó cần và chuẩn bị bầu nước sạch. Để mời rượu,
chủ nhân cởi bỏ lớp lá ở miệng ghè, đổ nước đầy ghè và cắm cần vào. Rượu
cần được uống từng đôi nên khi nhập cuộc thường có mối giao hòa, thân