5 Bài Thuốc Chữa Chảy Máu Cam
Mùa thu, khi tiết trời bắt đầu chuyển sang
hanh khô. Độ ẩm không khí thường thấp, nhất
là trong điều kiện đường sá có nhiều bụi bặm,
bên cạnh đó, thời tiết lại thường có các đợt gió
mùa đông bắc, se lạnh.
Đó là điều kiện thuận lợi cho chứng “chảy máu cam” xuất hiện. Bệnh có thể
xuất hiện ở nhiều lứa tuổi, song ở trẻ em tỷ lệ thường cao hơn.
Tại sao lại gọi là chảy máu cam?
Chữ cam ở đây có nghĩa là “ngọt”, có nghĩa là chứng chảy máu gây ra do
một thứ bệnh có tên chung là “Bệnh cam”. Bệnh thuộc chứng cam thường
chỉ xuất hiện ở trẻ em. Vì trẻ em thường thích ăn nhiều đồ ngọt. Và sau mỗi
lần ăn như vậy, các em lại không có thói quen súc miệng sạch. Chính điều
đó là điều kiện tốt cho các yếu tố gây viêm nhiễm ở các bộ phận họng, mũi,
lưỡi, niêm mạc miệng, răng, lợi… Khi bị viêm niêm mạc mũi bị sưng tấy,
sung huyết. Các mao mạch ở niêm mạc mũi do viêm nhiễm dẫn đến xơ giòn,
dễ bị đứt. Mặt khác về khí hậu mùa thu và đầu đông khô hanh, kèm theo thời
tiết lạnh, làm cho các mao mạch bị co lại, mà gây ra xuất huyết, tức “chảy
máu cam”. Đương nhiên, điều đó sẽ xảy ra nhiều hơn đối vơi những trẻ em
có sức khỏe đề kháng kém hơn, và trong tình trạng cơ thể thiếu một số
vitamin, liên quan đến tính thấm của thành mạch, như vitamin C, P,
K…Những chất có tác dụng làm cho thành mạch dẻo dai, bền chắc.
Thuốc cổ truyền trị chảy máu cam
Chảy máu cam là chứng thường gặp, thường không có dấu hiệu gì báo trước,
cũng không kể về thời gian. Có khi trẻ em đang nô đùa cũng chảy máu cam,
có khi đêm ngủ máu cam ra lúc nào cũng không hay…Nếu bị chảy với
lượng ít, sô lần ít, thì ảnh hưởng cũng không lớn. Song nhiều trẻ việc chăm
sóc và quan tâm của gia đình không chu đáo, hiện tượng chảy máu cam sẽ
xuất hiện nhiều lần, ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe và đến việc học tập
của các cháu.
Y học cổ truyền (YHCT) cho rằng, chảy máu cam là do nguyên nhân “huyết
nhiệt” gây ra “huyết nhiệt sinh phong”, tức cơ thể ở trạng thái nhiệt sẽ làm
cho “bức huyết vong hành”, tức là gây xuất huyết; mà trong trường hợp này
là xuất huyết ở mũi. Do vậy mà YHCT thường sử dụng các vị thuốc và
phương thuốc mang tính lương huyết, chỉ huyết, kèm với bổ huyết để điều
trị chứng bệnh này.
Một số bài thuốc thường dùng
Khi chảy máu cam, trước hết lấy ngón tay trỏ và ngón tay cái ấn vào chỗ
phía trên cánh mũi, hơi ngửa cổ về phía sau. Đồng thời lấy một ít tóc rối, tên
vị thuốc là “loạn phát”, loạn là “rối”, phát là “tóc”. Trường hợp không có tóc
rối thì cắt ngay một nhúm tóc cũng được. Đem tóc đốt cháy thành than, vò
cho thành bột mịn, và đặt ngay vào bên trong lỗ mũi bị chảy máu, hít sâu
vào trong, máu sẽ ngừng chảy ngay.
Sau đó hãy dùng các bài thuốc sau đây:
Bài 1: Ngó sen tươi 40g , móng giò lợn 1 cái. Ninh nhừ, ngày ăn một lần.
Cách hai ngay ăn lại. Làm liền như vậy hai tuần là được. Cách này dễ làm và
tiện cho trẻ nhỏ.
Bài 2: Lá sen tươi 50g, hoặc 20 g khô. Sắc uống. Để tăng tác dụng, cần đem
lá sen sao cháy.
Bài 3: Lá cây huyết dụ 12 – 16 g, cỏ nhọ nhồi, lá trắc bách diệp, đồng
lượng, sao đen, sắc uống, ngày một thang, 2 lần, uống sau bữa ăn 1 giờ 30
phút. Uống liền hai tuần lễ.
Bài 4: Hoa hòe (sao cháy) 12g, trắc bách diệp (sao cháy) 12g, kinh giới tuệ
(sao cháy) 12g, chỉ xác (sao vàng xém cạnh) 12g. Dùng dưới dạng thuốc sắc,
ngày một thang, chia hai lần uống, sau bữa ăn 1 giờ 30 phút, uống liền hai
tuần.
Bà 5: Thực địa 16g, trạch tả 6g, hoài sơn 8g, bạch linh 6g, sơn thù du 8g,
mẫu đơn bì 6g.
Có thể dùng dưới dạng thuốc sắc, ngày một thang, chia 3 lần uống sau bữa
ăn khoảng 1 giờ 30 phút. Uống liền 3 tuần lễ. Cũng có thể làm dưới dạng
viên hoàn với mật ong, ngày uống 2 lần mỗi lần 9g. Phương thức này thích
hợp cho những trường hợp cơ thể bị huyết nhiệt, do chứng âm hư hảo
vượng, chứng chảy máu cam nhiều lần, cơ thể gầy và xanh…
Ngoài việc dùng thuốc YHCT ra, cần có chế độ dinh dưỡng hợp lý, nhất là
bổ xung thêm các loại rau quả tươi, chứa nhiều vitamin, nhất là vitamin C.
Trong trường hợp cần thiết uống thêm vitamin C và hoa hòe sao đen hàng
ngày, dưới dạng chè hãm. Vì trong hoa hòe chứa rutin, một chất có hoạt tính
vitamin P, có tác dụng làm giảm tính thấm của thành mạch, làm tăng sự bền
vững của hồng cầu, làm giảm trương lực cơ trơn, chống co thắt. Do đó, nó là
thành phần hữu hiệu để đề phòng những yếu tố của bệnh xơ vữa động mạch
và suy yếu tĩnh mạch, gây chảy máu cam, ho ra máu và các chứng sốt huyết
khác.