NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
----------------------
NHIỆM VỤ KH&CN CẤP CƠ SỞ NĂM 2022
CHÍNH SÁCH THUẾ NHẰM HƯỚNG TỚI MỤC TIÊU
TĂNG TRƯỞNG XANH: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
MÃ SỐ: ĐTHV.08/2022
CHỦ NHIỆM NHIỆM VỤ KH&CN: TS. TRỊNH CHI MAI
HÀ NỘI - 2023
Tai ngay!!! Ban co the xoa dong chu nay!!! 17014125863801000000
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
------------
NHIỆM VỤ KH&CN CẤP CƠ SỞ NĂM 2022
CHÍNH SÁCH THUẾ NHẰM HƯỚNG TỚI MỤC TIÊU
TĂNG TRƯỞNG XANH: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
MÃ SỐ: ĐTHV.08/2022
Chủ nhiệm: TS. TRỊNH CHI MAI
Thư ký: TS. BÙI THỊ MẾN
Thành viên tham gia: Ths. NGUYỄN VĂN TÂM
TS. NGUYỄN THỊ LÂM ANH
Ths. TRẦN BÌNH MINH
HÀ NỘI - 2023
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
STT
Học hàm, học vị
Họ tên
Vai trị
Chức vụ, Đơn vị
cơng tác
1
TS. Trịnh Chi Mai
Chủ nhiệm đề tài
Giảng viên, HVNH
2
TS. Bùi Thị Mến
Thư ký đề tài
Giảng viên, HVNH
3
ThS. Nguyễn Văn Tâm
Thành viên
Giảng viên, HVNH
4
TS. Nguyễn Thị Lâm Anh
Thành viên
Giảng viên, HVNH
5
Ths. Trần Bình Minh
Thành viên
Nghiên
cứu
viên
chính, Viện nghiên
cứu Quản lý Kinh tế
Trung ương
MỤC LỤC
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, HÌNH
DANH MỤC VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH THUẾ HƯỚNG TỚI MỤC
TIÊU TĂNG TRƯỞNG XANH .................................................................................13
1.1. Cơ sở lý luận về tăng trưởng xanh ...................................................................13
1.1.1. Khái niệm tăng trưởng xanh .........................................................................13
1.1.2. Mục tiêu tăng trưởng xanh............................................................................16
1.2. Cơ sở lý luận về chính sách thuế ......................................................................19
1.2.1. Khái niệm chính sách thuế ............................................................................19
1.2.2. Nội dung chính sách thuế .............................................................................20
1.2.3. Nguyên tắc xây dựng chính sách thuế ..........................................................22
1.3. Cơ sở lý luận về chính sách thuế hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh .....23
1.3.1. Chính sách thuế đối với mục tiêu tăng trưởng xanh .....................................23
1.3.2. Tác động của chính sách thuế đối với mục tiêu tăng trưởng xanh ...............31
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách thuế đối với mục tiêu tăng trưởng xanh
................................................................................................................................37
CHƯƠNG 2: KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC TRONG SỬ DỤNG CHÍNH
SÁCH THUẾ NHẰM HƯỚNG TỚI MỤC TIÊU TĂNG TRƯỞNG XANH VÀ
BÀI HỌC CHO VIỆT NAM.......................................................................................40
2.1. Kinh nghiệm một số nước trong sử dụng chính sách thuế nhằm hướng tới
mục tiêu tăng trưởng xanh ......................................................................................40
2.1.1. Các nước châu Á ...........................................................................................40
2.1.2. Các nước châu Âu.........................................................................................57
2.2. Bài học cho Việt Nam ........................................................................................72
2.2.1. Xác định rõ các mục tiêu của tăng trưởng xanh ...........................................72
2.2.2. Hệ thống thuế thúc đẩy tăng trưởng xanh cần có sự liên kết rõ ràng và phục
vụ các mục tiêu cụ thể ............................................................................................72
2.2.3. Cần có kế hoạch cụ thể trong việc sử dụng số thu ngân sách từ các loại thuế
môi trường ..............................................................................................................73
2.2.4. Áp dụng kết hợp các chính sách thuế kết hợp với các chính sách tài chính
phù hợp ...................................................................................................................74
2.2.5. Xây dựng và áp dụng thuế carbon và Hệ thống giao dịch giảm phát thải ....75
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THUẾ NHẰM HƯỚNG TỚI MỤC
TIÊU TĂNG TRƯỞNG XANH TẠI VIỆT NAM ....................................................78
3.1. Chính sách thuế tại Việt Nam ..........................................................................78
3.2. Mục tiêu tăng trưởng xanh tại Việt Nam ........................................................83
3.3. Thực trạng chính sách thuế nhằm hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh tại
Việt Nam ....................................................................................................................89
3.3.1. Thực trạng chính sách thuế nhằm khuyến khích sản xuất, tiêu dùng xanh ..90
3.3.2. Thực trạng chính sách thuế nhằm hạn chế nguy hại đối với môi trường .....96
3.4. Đánh giá thực trạng chính sách thuế nhằm hướng tới mục tiêu tăng trưởng
xanh tại Việt Nam ....................................................................................................105
3.4.1. Kết quả đạt được .........................................................................................106
3.4.2. Hạn chế ....................................................................................................... 115
3.4.3. Nguyên nhân ...............................................................................................122
CHƯƠNG 4: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM HỒN THIỆN CHÍNH SÁCH
THUẾ ĐỂ THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG XANH TẠI VIỆT NAM ....................126
4.1. Quá trình cải cách hệ thống chính sách thuế theo mục tiêu “xanh hóa” cần
đáp ứng được các yêu cầu cơ bản và cần được xây dựng một cách đồng bộ ...126
4.2. Hồn thiện chính sách thuế xanh nhằm đảm bảo phù hợp với thực tiễn và đủ
mạnh để điều tiết hiệu quả hành vi của các chủ thể, góp phần đáp ứng được mục
tiêu tăng trưởng xanh. ...........................................................................................127
4.2.1. Đối với chính sách thuế BVMT.................................................................127
4.2.2. Đối với chính sách thuế TNDN .................................................................130
4.2.3. Đối với chính sách thuế GTGT .................................................................130
4.2.4. Đối với chính sách thuế tài nguyên ...........................................................130
4.3. Khuyến nghị xây dựng và ban hành thuế carbon ........................................132
4.4. Khuyến nghị khác ...........................................................................................136
KẾT LUẬN ................................................................................................................138
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG, HÌNH
Bảng 1.1. Các mục tiêu tăng trưởng xanh theo yếu tố ..................................................17
Bảng 3.1. Tỷ trọng thu thuế (theo hình thức thuế) trong NSNN từ 2012 - 2022 ..........79
Bảng 3.2. Tỷ trọng thu thuế (theo từng sắc thuế) trong NSNN từ 2012 -2022 ........... 811
Bảng 3.3. Biểu thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt theo quy định hiện hành ...................922
Bảng 3.4. Mức thuế bảo vệ môi trường hiện hành ....................................................9797
Bảng 3.5. Biểu thuế BVMT đối với tài nguyên hóa thạch thay đổi qua các giai đoạn ........ 9999
Bảng 3.6. Biểu khung thuế suất thuế tài nguyên ....................................................... 1011
Bảng 3.7. Tỷ trọng thu thuế tài nguyên so với thu NSNN 2012-2021 ......................1033
Bảng 3.8. Tỷ trọng thu thuế BVMT so với thu NSNN 2012 – 2021 ......................10707
Bảng 3.9. Tốc độ tăng trưởng lượng phát thải carbon hằng năm ............................ 11616
Hình 1: Thuế Pigou đối với ngoại ứng mơi trường .........................................................1
Hình 1.1. Các mục tiêu của tăng trưởng xanh theo Asmani, N & Ekadinata (2019) ....16
Hình 1.2. Xác định mức ơ nhiễm tối ưu ........................................................................24
Hình 1.3. Phân chia gánh nặng thuế trên thị trường ......................................................25
Hình 3.1. Tỷ trọng thu thuế (theo hình thức thuế) trong NSNN từ 2012 - 2022…….. 79
Hình 3.2. Các chỉ tiêu tăng trưởng xanh theo Quyết định số 1658/QĐ-TTg ............8787
DANH MỤC VIẾT TẮT
Chương trình trợ cấp thúc đẩy cơng nghệ tiên tiến với mục tiêu giảm
phát thải
APD
Thuế Hành khách Hàng khơng
BVMT
Bảo vệ mơi trường
CCL
Thuế biến đổi khí hậu
CERs
Chuyển nhượng chứng chỉ giảm phát thải
CPS
thuế suất hỗ trợ giá carbon
GGKP
Nền tảng tri thức tăng trưởng xanh
GGGI
Viện tăng trưởng xanh Toàn cầu
GHG
Khí nhà kính
GTGT
Giá trị gia tăng
ETS
Hệ thống giao dịch quyền phát thải
KH&CN
Khoa học và Công nghệ
MECD
Hội nghị Bộ trưởng về môi trường và phát triển
MOE
Bộ Môi trường
MOTIE
Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng
MRV
Hệ thống giám sát, báo cáo và thẩm tra
NCKH
Nghiên cứu khoa học
NNT
Người nộp thuế
SDGs
Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên hợp quốc
OECD
Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế
TMS
Hệ thống quản lý mục tiêu
TNDN
Thu nhập doanh nghiệp
TNCN
Thu nhập cá nhân
TTĐB
Tiêu thụ đặc biệt
TTX
Tăng trưởng xanh
UN
Liên hợp quốc
UNEP
Tổ chức Sáng kiến tăng trưởng xanh của Liên Hợp Quốc
UNESCAP Ủy ban Kinh tế - Xã hội châu Á và Thái Bình Dương của Liên hợp quốc
R&D
Hoạt động nghiên cứu và phát triển
XK, NK
Xuất khẩu, nhập khẩu
XNK
Xuất nhập khẩu
VED
Phương tiện vận tải
VOC
Hợp chất hữu cơ dễ bay hơi
ASSET
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tổng quan nghiên cứu
Chính sách thuế được coi là một công cụ kinh tế, tác động tới chi phí và lợi ích
của các thể nhân và pháp nhân nhằm điều chỉnh hành vi, hoạt động của các chủ thể có
liên quan, qua đó thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, trong đó có thúc đẩy tăng trưởng
xanh (TTX) và phát triển bền vững. Chính sách thuế nhằm hướng tới mục tiêu TTX còn
được gọi là thuế xanh. Thuế xanh cịn được gọi là thuế mơi trường, ơ nhiễm, sinh thái,
carbon, đây là một trong những công cụ quan trọng mà Chính phủ các quốc gia sử dụng
nhằm giúp giảm thiểu sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và ơ nhiễm, hay nói cách khác,
cơng cụ thuế xanh đang được sử dụng bên cạnh các công cụ tài chính khác để bảo vệ
mơi trường (BVMT) và ngăn chặn tác động tiêu cực của các doanh nghiệp. Việc thực
hiện thuế xanh chưa được chấp nhận hoàn toàn ở tất cả các nước, nhưng hầu hết được
áp dụng ở các nước phát triển.
Arthur C.Pigou (1877-1959) đã đề cập ý tưởng về việc đánh thuế đối với những
người gây ô nhiễm (thuế ô nhiễm) lần đầu vào năm 1920 trong tác phẩm "Kinh tế học
phúc lợi". Pigou đã nêu ra nguyên tắc đánh thuế: "Mức thuế ơ nhiễm sẽ được tính cho
mỗi một đơn vị sản phẩm gây ơ nhiễm, có giá trị bằng chi phí ngoại ứng do đơn vị sản
phẩm gây ô nhiễm gây ra tại mức sản lượng tối ưu xã hội Q*".
Loại thuế ô nhiễm này nhằm mục đích buộc các nhà sản xuất phải "tính chi phí
của các ngoại ứng tiêu cực vào trong giá thành sản xuất – gọi là nội hóa các ngoại ứng"
và sẽ được điều chỉnh mức hoạt động của mình về sản lượng tối ưu xã hội, vì thế người
ta gọi là "thuế ơ nhiễm tối ưu".
Hình 1: Thuế Pigou đối với ngoại ứng môi trường
1
Năm 1968, Dales - một nhà kinh tế học người Canada lần đầu tiên đưa ra đề xuất
về một cơ chế: trong đó một số lượng nhất định "quyền gây ô nhiễm" (bằng với mức ô
nhiễm mà xã hội mong muốn) có thể được mua đi bán lại giữa những người gây ơ nhiễm.
Như vậy, chính sách thuế, phí là cơng cụ điều tiết vĩ mơ của Chính phủ có thể được sử
dụng nhằm tác động tới hành vi sản xuất, tiêu dùng của các chủ thể trong nền kinh tế
thông qua việc ưu đãi thuế đối với các hoạt động kinh tế thân thiện với môi trường, đồng
thời đánh thuế và đánh thuế cao đối với hoạt động kinh tế làm tổn hại đến môi trường.
Một số nghiên cứu trong và ngoài nước
Carattini và cộng sự (2017) đã định nghĩa thuế xanh là thuế tiêu thụ đặc biệt
(TTĐB) đối với các chất gây ô nhiễm môi trường hoặc đối với hàng hóa, dịch vụ mà
việc sử dụng chúng góp phần gây ra ơ nhiễm. Thuế xanh, cịn được gọi là thuế môi
trường, thuế ô nhiễm, thuế sinh thái và thuế carbon được ban hành nhằm cải thiện môi
trường. Thuế mơi trường có tầm quan trọng lớn trong các chính sách môi trường. Việc
đánh thuế được sử dụng chủ yếu để hạn chế tác động tiêu cực đến môi trường từ các
hoạt động của con người, chủ yếu là doanh nghiệp – chủ thể đóng vai trị quan trọng
trong tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Khi Chính phủ tìm cách BVMT, một số
chính sách thuế xanh sẽ được ban hành nhằm tăng chi phí tài nguyên thiên nhiên - là
đầu vào cho hoạt động sản xuất và chế biến, chính vì vậy sẽ làm giảm bớt việc sử dụng
những đầu vào này. Với những nguy hiểm từ sự nóng lên tồn cầu, biến đổi khí hậu,
cộng đồng doanh nghiệp, Chính phủ và người tiêu dùng cùng các tác nhân khác trong
nền kinh tế đã nhận thức được tác động tiêu cực của các hoạt động sản xuất kinh doanh
đối với môi trường. Bên cạnh việc ban hành nhiều chính sách hướng tới việc hạn chế
các tác động tiêu cực đến mơi trường, nhiều nhóm hoạt động vì mơi trường cũng được
thành lập nhằm tạo ra sức ép buộc tất cả các bên liên quan phải hành động bền vững.
Đánh thuế xanh đã được thực hiện ở nhiều quốc gia cho dù chính sách này chưa
đạt được mục đích đề ra (Siebers và cộng sự, 2019). Tương tự nghiên cứu của Carattini
và cộng sự (2017), nghiên cứu này nhận định để giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi
trường và cần phải xây dựng các công cụ hỗ trợ để cho phép các doanh nghiệp hoạt động
bền vững mà vẫn tạo ra lợi nhuận. Các tác giả tìm hiểu phương thức đánh thuế xanh
thông qua việc đánh giá các chính sách mà Chính phủ đang thực hiện, những thách thức,
rủi ro mà hai bên phải đối mặt và đưa ra khuyến nghị nhằm sử dụng cơng cụ chính sách
thuế xanh hiệu quả nhất, qua đó đạt được mục tiêu của cả hai bên.
Về việc thực thi chính sách thuế xanh, trong nhiều năm qua, các quốc gia và tổ
chức quốc tế đã nghiên cứu để xây dựng hệ thống quản trị tồn cầu giúp họ đối phó với
biến đổi khí hậu. Trong khi một số quốc gia chọn cách thuế xanh, thì các quốc gia khác
lại muốn thực hiện các chính sách mềm hơn như trợ cấp năng lượng tái tạo. Carattini và
cộng sự (2017) cho rằng việc thực hiện chính sách thuế xanh cịn khó khăn ở nhiều quốc
2
gia. Nhưng bài học từ những thất bại trong quá khứ là cần tăng cường tuyên truyền thông
tin, phổ biến và mở rộng việc thực hiện các cải cách thuế xanh. Các chính sách thuế
xanh, tương tự như những cải cách khác về thuế đã vấp phải sự phản đối ở nhiều quốc
gia. Tuy nhiên, với những quốc gia tuân thủ và thực nghiêm những cải cách này, lợi ích
và thu từ thuế có sự cải thiện nhất định.
Almansoori và cộng sự (2019) cho rằng các doanh nghiệp có xu hướng tuân thủ
và lập báo cáo phát triển bền vững để cơng bố các hoạt động “vì mơi trường và phát
triển bền vững” và coi đây là một trong những cơng cụ quan trọng. Chính phủ có thể sử
dụng các báo cáo này để hỗ trợ việc xác định các chính sách thuế xanh phù hợp. Chẳng
hạn, tại EU, doanh thu từ thuế xanh đã tăng lên ở 5/25 quốc gia có cải tiến tích cực nhằm
xây dựng hệ thống phát triển bền vững. Ở các quốc gia khác, tăng trưởng kinh tế và tác
động của thay đổi cơ cấu là lý do chính dẫn đến chênh lệch thu thuế từ các công cụ thuế
xanh. Như vậy, hầu hết các quốc gia chưa thực hiện đầy đủ để cải cách thuế xanh và
chuyển từ lao động sang môi trường (Andreoni, 2019).
Một hướng nghiên cứu nữa là gắn kinh tế tuần hoàn với thuế xanh. Trung Quốc,
một trong những quốc gia có năng suất cao nhất trên tồn cầu, đã thực hiện sáng kiến
xây dựng mơ hình kinh tế tuần hồn, hỗ trợ bảo vệ tài nguyên và môi trường. Mô hình
này sẽ chuyển từ tài nguyên - sản phẩm - chất thải sang tài nguyên - sản phẩm - tái sản
xuất thông qua tái chế. Đối với Trung Quốc, để xây dựng kinh tế tuần hoàn hiệu quả
phải gắn chặt kinh tế tuần hồn với các chính sách đi kèm phát triển kinh tế. Sun (2013)
cho rằng Chính phủ cần thiết lập hệ thống thuế xanh để phát triển kinh tế tuần hồn gắn
với các chiến lược và cơng cụ thuế thích hợp.
Ấn Độ cũng đang hướng tới xây dựng kinh tế tuần hoàn chủ yếu dựa vào sản xuất
bền vững. Dựa trên cách tiếp cận bền vững từ ba khía cạnh mơi trường, kinh tế - xã hội;
phát triển bền vững đảm bảo phải có sự giao thoa của cả ba khía cạnh này. Mặc dù có
nhiều đối tác liên quan đến phát triển bền vững, nhưng Chính phủ đóng một vai trị quan
trọng, đặc biệt là trong việc đảm bảo hình thành kinh tế tuần hồn. Vai trị chính của
Chính phủ là hoạch định chính sách, địi hỏi phải tạo ra sự cân bằng phù hợp trong việc
thúc đẩy phát triển và giảm thiểu các tác động tiêu cực từ bên ngoài liên quan đến sử
dụng nguồn lực (Mishra và Mittal, 2019). Chính phủ cũng sử dụng các chính sách thuế
để đảm bảo rằng các nhà sản xuất phải tốn chi phí nhiều hơn với một số đầu vào, khơng
khuyến khích các nhà sản xuất sử dụng những đầu vào gây tác động tiêu cực đến môi
trường và khuyến khích sử dụng các đầu vào sản xuất sạch hơn.
Về tác động của thuế xanh đối với nền kinh tế, Kuralbayeva (2019) đã nghiên
cứu tác động của cải cách thuế mơi trường đối với tình trạng thất nghiệp và phúc lợi ở
các quốc gia đang phát triển – nơi đang chứng kiến q trình di cư khơng chính thức từ
nơng thơn ra thành thị. Chính phủ ở các quốc gia này đã xem xét liệu thuế môi trường,
3
ngồi việc giúp đạt được các mục tiêu về mơi trường, có giúp đạt được các mục tiêu
kinh tế và xã hội khác như giảm tỷ lệ thất nghiệp không. Kuralbayeva (2019) cũng cho
rằng, trước đây, các chính sách nhằm giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng tác động
tiêu cực đến mục tiêu chính sách khác do làm giảm thu nhập, đặc biệt là đối với những
người hưởng lợi từ Nhà nước. Do đó, về mặt chính trị, rất khó để thực hiện các chính
sách mơi trường. Tuy nhiên, để những cải cách liên quan đến thuế xanh được xã hội
chấp nhận, cần giảm thiểu các chính sách bổ sung như cắt giảm chi tiêu công nhằm giảm
gánh nặng thuế xanh đối với khu vực tư nhân. Kuralbayeva (2019) kết luận rằng thuế
xanh dẫn đến giảm phúc lợi xã hội và tác động nhiều hơn đến chi tiêu công nội sinh. Do
vậy, thực hiện cắt giảm chi tiêu cơng như một chính sách bổ sung để thúc đẩy tác động
của cải cách thuế xanh đến thị trường lao động ở các nước đang phát triển sẽ không
thành công. Các nhà hoạch định chính sách ở các quốc gia này phải tìm kiếm những giải
pháp khác giúp giảm gánh nặng thuế xanh đối với lao động, từ đó tạo thuận lợi cho thực
hiện cải cách thuế môi trường.
Để đạt được TTX, cần phát thải dựa trên nhu cầu, có thể thực hiện được thông
qua các đổi mới trong chuỗi cung ứng và sản xuất sạch hơn cùng với các cơng nghệ
xanh và chính sách vĩ mơ như thuế đối với sản xuất nhiều phát thải (Wiebe và Yamano,
2016). Hơn nữa, TTX có thể được thúc đẩy thơng qua các đổi mới trong sản xuất năng
lượng thông qua các công nghệ thân thiện với môi trường (Su et al., 2020; Umar et al.,
2020a). Điều này có thể giúp sản xuất năng lượng hiệu quả, giúp bảo tồn tài nguyên
thiên nhiên và kết quả là tạo ra lượng khí thải CO2 thấp. Là một chiến lược khả thi để
giảm phát thải CO2 cũng như tiết kiệm năng lượng, TTX được sử dụng rộng rãi để kiểm
sốt sự suy thối mơi trường (Ling Guo và cộng sự, 2017; Sandberg và cộng sự, 2019).
Giảm phát thải CO2 và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xanh thì việc thúc đẩy cơng nghệ
xanh đóng một vai trò tất yếu, nhưng nhu cầu năng lượng vĩnh viễn đặt ra những thách
thức nghiêm trọng về môi trường. Do đó, việc sử dụng các cơng nghệ sạch hơn để chống
lại những thách thức này và thúc đẩy giảm phát thải CO2 là nhu cầu cần thiết của thời
gian đối với cả các nước phát triển và đang phát triển. Rất nhiều tài liệu đã cho thấy rằng
để giảm sự phụ thuộc vào các nguồn năng lượng không thể tái tạo như khí đốt, than đá,
dầu thơ và dầu cùng với việc giảm phát thải thì việc sử dụng và sản xuất năng lượng
sạch hơn là điều bắt buộc (Bhattacharya et al., 2016; Khan và Ulucak, 2020). Mặc dù
một số nghiên cứu đã chứng thực rằng năng lượng sạch hơn có vai trị quan trọng trong
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, các tài liệu về việc xem xét vai trò của TTX đối với
phát thải CO2 thấp còn hạn chế (Alper và Oguz, 2016; Inglesi-Lotz, 2016; Shahbaz và
cộng sự, 2018).
Nghiên cứu về thuế môi trường đối với TTX ở các quốc gia thuộc nhóm G7 đã
thực hiện phân tích vai trị của TTX trong việc thúc đẩy một môi trường bền vững. Vai
4
trị của TTX đối với lượng khí thải carbon dioxide (CO2) khi kết hợp với các yếu tố như
thuế liên quan đến môi trường và sự phát triển của các cơng nghệ liên quan đến mơi
trường cịn khác hạn chế. Nghiên cứu này điều tra vai trò của tăng trưởng năng suất đa
yếu tố được điều chỉnh theo môi trường (tức là TTX) đối với phát thải CO2 ở các nước
G7 từ năm 1991 đến năm 2017. Kết quả của các phát hiện lý thuyết và thực nghiệm chỉ
ra rằng TTX đều làm giảm lượng khí thải CO2. Ngồi ra, thuế môi trường, vốn nhân lực
và sử dụng năng lượng tái tạo được cho là làm giảm lượng khí thải CO2. Tác động của
tăng trưởng GDP cả trong ngắn hạn và dài hạn là suy giảm môi trường. Kết quả nghiên
cứu có thể củng cố thêm niềm tin của các nhà hoạch định chính sách ở các nước phát
triển vào việc thúc đẩy TTX (Hao, L. N., Umar, M., Khan, Z., & Ali, W, 2021).
Nghiên cứu của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2019) về sử dụng
công cụ chính sách thuế nhằm điều tiết nền kinh tế hướng tới TTX và phát triển bền
vững ở Việt Nam. Đề tài đã làm rõ khái niệm TTX là mô hình tăng trưởng kinh tế sử
dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên bền vững – phát triển kinh tế gắn liền với BVMT.
TTX sẽ góp phần hướng tới nền kinh tế phát triển bền vững. Còn phát triển bền vững
được hiểu là: sự phát triển hài hòa về kinh tế, xã hội và môi trường nhằm đáp ứng được
các nhu cầu của các thế hệ hiện tại, nhưng không được làm tổn hại đến khả năng đáp
ứng các nhu cầu của các thế hệ trong tương lai. Trong đó chính sách thuế sẽ góp phần
giúp nền kinh tế TTX và phát triển bền vững thông qua việc Nhà nước sử dụng công cụ
thuế để thúc đẩy các hoạt động kinh tế có ngoại ứng tích cực (ưu đãi thuế đối với các
hoạt động kinh tế thân thiện với môi trường...) và hạn chế các hoạt động có ngoại ứng
tiêu cực (gây ô nhiễm mỗi trường, khai thác nhiều nguồn tài nguyên...). Đề tài chỉ ra
một số kinh nghiệm của các nước: Miễn thuế TNDN đối với thu nhập từ chuyển nhượng
chứng chỉ giảm phát thải như: Thái Lan, Malaysia, Nam Phi, Trung Quốc,…; Ưu đãi
thuế cho các doanh nghiệp có hoạt động khoa học và công nghệ như: Nhật Bản, Ba Lan,
Hàn Quốc…; Ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp ứng dụng
công nghệ cao như: Indonesia, Hàn Quốc. Chính sách thuế cũng sẽ góp phần hạn chế
sản xuất, tiêu dùng các sản phẩm gây nguy hại đối với mơi trường, chẳng hạn như: thuế,
phí mơi trường đánh vào nguồn gây ô nhiễm được áp dụng ở Hà Lan, Na Uy, Thụy Điển,
Đức, Italia hay thuế carbon áp dụng tại Phần Lan, Thụy Điển, Na-Uy, Đan Mạch, Anh,
Hà Lan, Mỹ, Canada, Trung Quốc... Trong giai đoạn nghiên cứu đến 2019, chính sách
thuế Việt Nam cũng đã đáp ứng để đạt được mục tiêu TTX như: để khuyến khích sản
xuất, tiêu dùng xanh, Nhà nước có chính sách miễn thuế TNDN đối với thu nhập từ
chuyển nhượng chứng chỉ giảm phát thải; Áp dụng thuế suất 10% đối với thu nhập của
doanh nghiệp từ thực hiện hoạt động xã hội hóa trong lĩnh vực mơi trường; 10% trong
15 năm đối với thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới, ứng dụng
công nghệ cao và 17% trong 15 năm đối với thu nhập từ thực hiện dự án đầu tư mới sản
5
xuất sản phẩm tiết kiệm năng lượng. Đồng thời, doanh nghiệp được miễn thuế 2 năm,
giảm 50% số thuế phải nộp tối đa 4 năm tiếp theo; mức thuế suất thấp hơn đối với xe ô
tô chạy bằng xăng kết hợp năng lượng điện, năng lượng sinh học và mức thuế suất thấp
nhất tương ứng là 7% đối với xăng sinh học E10 và 8% đối với xăng sinh học E5 (so
với mức thuế suất 10% đối với xăng khoáng)... Nhưng muốn hạn chế gây nguy hại đối
với môi trường thông qua việc áp dụng mức thuế suất cao và nhiều mức đối với xe ô tô
dưới 24 chỗ ngồi, có dung tích xi lanh khác nhau. Hay áp dụng phí BVMT đối với khai
thác khống sản, nước thải và chất thải rắn...
Trên cơ sở phân tích thực trạng, đề tài đã đưa ra đánh giá chung: Việt Nam đã ban
hành và vận dụng một số chính sách thuế liên quan đến mục tiêu TTX, phát triển bền
vững phù hợp với thơng lệ quốc tế. Chính sách thuế liên quan đến mục tiêu TTX ở Việt
Nam bao gồm cả chính sách ưu đãi về thuế nhằm khuyến khích sản xuất, tiêu dùng xanh;
chính sách thuế nhằm hạn chế sản xuất, tiêu dùng các sản phẩm gây nguy hại đến môi
trường và từ đó đề tài đã đề xuất các giải pháp hồn thiện chính sách thuế nhằm điều tiết
nền kinh tế thúc đẩy TTX, phát triển bền vững ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu được kỳ
vọng sẽ góp phần củng cố các luận cứ khoa học về sử dụng chính sách thuế nhằm điều
tiết nền kinh tế thúc đẩy TTX và phát triển bền vững ở Việt Nam phục vụ xây dựng
Chiến lược cải cách thuế giai đoạn 2021-2030 và Chiến lược tài chính 2021-2030 hướng
tới năm 2050.
Đề tài nghiên cứu cấp quốc gia năm 2020 của Trường ĐH Kinh tế - ĐHQGHN
thuộc chương trình nghiên cứu những vấn đề trọng yếu về khoa học xã hội và nhân văn
phục vụ phát triển kinh tế xã hội "Phát triển hệ thống tài chính xanh nhằm thúc đẩy kinh
tế xanh ở Việt Nam đã làm rõ cơ sở lý luận về kinh tế xanh, vai trị của Chính phủ trong
thúc đẩy kinh tế xanh, cũng như vai trò của hệ thống tài chính xanh trong thúc đẩy kinh
tế xanh... Đề tài đã làm rõ ba vai trị chính của Chính phủ trong việc thúc đẩy kinh tế
xanh, bao gồm: (i) Xây dựng chiến lược, tạo dựng thị trường và tạo điều kiện cho phát
triển kinh tế xanh; (ii) Dự báo, chia sẻ và hướng dẫn trong phát triển kinh tế xanh; (iii)
Chính phủ mang tinh thần doanh nghiệp trong khuyến khích phát triển kinh tế xanh. Đề
tài cũng đã phân tích rõ cơ chế hoạt động của hệ thống tài chính xanh, các thành phần
tham gia vào thị trường và các sản phẩm xanh của thị trường. Trong đó, đối với các
thành phần tham gia vào thị trường, nhóm nghiên cứu tập trung vào phân tích vai trị và
tác động của các trung gian tài chính xanh (gồm: ngân hàng thương mại, cơng ty chứng
khốn, quỹ đầu tư và các trung gian tài chính xanh khác). Đối với sản phẩm của thị
trường tài chính xanh, báo cáo tập trung vào hai khía cạnh chính là các cơng cụ huy
động vốn xanh (trái phiếu, cổ phiếu và các chỉ số xanh) và các hình thức đầu tư xanh.
Để thấy rõ hơn những cơ hội và thách thức khi triển khai kinh tế xanh, đề tài cũng phân
tích những rủi ro và thách thức cho các thành phần khi tham gia vào nền kinh tế xanh.
6
Từ đó có thể đưa ra góc nhìn khách quan, chân thực nhất về kinh tế xanh, qua đó nhóm
nghiên cứu đề xuất được các giải pháp thiết thực có tính ứng dụng cao, bao quát và khắc
phục được những hạn chế, khó khăn trong q trình xây dựng và phát triển kinh tế xanh
tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu kinh nghiệm từ các Quốc gia và vũng lãnh thổ như
Mỹ, Anh, Châu Âu, Nam Phi, Hàn Quốc và Trung Quốc cho thấy việc xanh hóa hệ thống
tài chính được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm nhằm khắc phục và hạn chế những
tác động tiêu cực của phát triển kinh tế tới môi trường, cải thiện môi trường thơng qua
xanh hóa nền kinh tế. Những kết quả nghiên cứu bước đầu là cơ sở khoa học quan trọng
cho việc đưa ra mơ hình phát triển tài chính xanh phù hợp với điều kiện của mỗi quốc
gia, trong đó có Việt Nam. Kết quả nghiên cứu thực trạng phát triển hệ thống tài chính
xanh và tác động của hệ thống tài chính xanh tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam cho thấy:
mức độ phát triển ngân hàng xanh ở Việt Nam đang ở mức 3 - hoạt động kinh doanh có
hệ thống, trong đó, hầu hết các quy trình, sản phẩm của ngân hàng đều tuân thủ nguyên
tắc “xanh”. Hiện tại ở Việt Nam chưa có một ngân hàng nào thực sự được coi là Ngân
hàng xanh, mà mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp các dịch vụ xanh của ngân hàng hay
các hoạt động cho vay gắn với các cam kết về môi trường. Nhiều Ngân hàng thương mại
Việt Nam có dịch vụ ngân hàng điện tử (Internet banking, SMS banking, Mobile
Banking…) hoạt động song song với các nghiệp vụ ngân hàng truyền thống. Có nhiều
nhân tố ảnh hưởng, trong đó thấy nhóm nhân tố thuộc về “năng lực cán bộ, nhân viên”
có tác động lớn nhất tới sự phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam. Xếp vị trí thứ hai về
vai trị đối với sự phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam là nhóm nhân tố thuộc về
“Nhận thức của lãnh đạo ngân hàng về phát triển ngân hàng xanh”. Nhóm nhân tố thuộc
về “Nhu cầu đầu tư xanh của các tổ chức kinh doanh” xếp vị trị thứ 3 và cuối cùng là
nhóm chỉ tiêu thuộc về “Chính sách hỗ trợ của nhà nước về phát triển ngân hàng xanh”.
Như vậy hệ thống tài chính xanh của Việt Nam mới đang ở trong giai đoạn phát triển rất
sơ khai. Trên cơ sở phân tích thực trạng ở trên, đề tài đã có những giải pháp nhằm phát
triển tài chính xanh đến năm 2050, theo đó, nhóm nghiên cứu đề xuất lộ trình phát triển
tài chính xanh chia làm ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: Lộ trình đến năm 2025 thành lập thí điểm mơ hình ngân hàng xanh,
quỹ đầu tư xanh, doanh nghiệp đầu tư xanh
Giai đoạn 2: Lộ trình đến năm 2040 áp dụng toàn diện hệ thống chỉ số đánh giá
mức độ xanh hóa của hệ thống tài chính GFI
Giai đoạn 3: Lộ trình đến năm 2050 tiến tới vận hành tồn diện hệ thống tài chính
xanh với 4 trụ cột chính: trung gian tài chính xanh, các cơng cụ huy động vốn xanh và
các doanh nghiệp đầu tư xanh và thị trường tài chính xanh.
Căn cứ trên lộ trình phát triển tài chính xanh đã đề xuất, Nhóm nghiên cứu sẽ đưa
ra một số khuyến nghị về: (i) Điều kiện thực hiện giải pháp bao gồm nhóm các điều kiện
7
về khung pháp lý, quản lý và giám sát thị trường; (ii) Đưa ra các đề xuất khuyến nghị
cụ thể đối với từng thành phần tham gia vào thị trường tài chính xanh gồm Chính phủ,
NHNN, NHTM, trung gian tài chính phi ngân hàng, doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Như vậy, sau khi rà sốt các cơng trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài nghiên
cứu đã cho thấy, thuế xanh và cải cách thuế xanh ngày càng được coi là những công cụ
mạnh mẽ và biện pháp quan trọng, cấp thiết để thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang các
nền kinh tế bền vững. Thuế xanh hiện nay thường được biết đến là một phương pháp
khắc phục hiệu quả về chi phí, góp phần giúp nền kinh tế tăng trưởng và phát triển bền
vững. Thuế xanh có thể được áp dụng cho hầu hết các vấn đề môi trường - giảm thiểu
biến đổi khí hậu - như một phần của quá trình cải cách thuế xanh rộng hơn. Nhiều nghiên
cứu nước ngồi đã đề cập đến những khía cạnh khác nhau của cải cách thuế xanh như
tác động của thực thi thuế xanh đến các mục tiêu kinh tế và xã hội, hay gắn thuế xanh
với kinh tế tuần hồn, phát triển bền vững. Đối với các cơng trình nghiên cứu trong
nước, khơng nhiều nghiên cứu đề cập đến nội dung này và còn một số khoảng trống nhất
định cho thực hiện các nghiên cứu bổ sung.
2. Tính cấp thiết của đề tài
Song song với tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội khá ấn tượng trong vài
năm trở lại đây, nhưng Việt Nam cũng lại là một trong những quốc gia đứng đầu tại
Đông Nam Á về lượng khí nhà kính phát thải. Bởi q trình phát triển kinh tế ở Việt
Nam trong thời gian qua dựa nhiều vào khai thác tài nguyên, xuất khẩu nguyên liệu thô
hoặc mới chỉ thông qua sơ chế nên đã gây thiệt hại nặng nề cho môi trường và gia tăng
tác động của biến đổi khí hậu. Theo báo cáo của UNEP (2013), Việt Nam có mức độ sử
dụng nguyên liệu thô trong nước (than, dầu, thép) để sản xuất ra một đơn vị GDP vào
loại cao nhất thế giới và ngày càng gia tăng tỷ lệ này, trong khi thế giới ngày càng ít sử
dụng ngun liệu thơ để tạo ra một đơn vị GDP.
Trong bối cảnh phải đối mặt với những vấn đề môi trường ngày càng bị ô nhiễm,
gia tăng hiệu ứng nhà kính, biến đổi khí hậu toàn cầu, cạn kiệt nguồn tài nguyên, TTX
(Green growth) đang là xu hướng và trọng tâm trong chiến lược phát triển của nhiều
quốc gia trong khu vực và trên thế giới. TTX hay kinh tế xanh là mơ hình phát triển
không những nâng cao chất lượng của tăng trưởng, thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng
theo hướng bền vững và cải thiện đời sống nhân dân, mà cịn ngăn chặn thiếu hụt tài
ngun và ơ nhiễm mơi trường, duy trì hệ sinh thái, giảm phát thải khí nhà kính, nâng
cao khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu.
Theo Báo cáo Chỉ số rủi ro khí hậu toàn cầu (2018), Việt Nam đứng thứ năm trên
thế giới về mức độ dễ bị tổn thương trước các tác động của biến đổi khí hậu. Trong báo
cáo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) và các văn bản cho UNFCCC và Chiến
lược quốc gia về biến đổi khí hậu (Quyết định 2139/QĐ-TTg ngày 5 tháng 12 năm 2011)
8
đều có nêu ra vấn đề: khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, vùng ven biển; sản xuất nông
nghiệp và đất lâm nghiệp; hạ tầng năng lượng; giao thông sẽ chịu ảnh hưởng đặc biệt
nặng nề bởi nhiệt độ tăng, mực nước biển tăng, lũ lụt và các hiện tượng thời tiết cực
đoan với tần suất ngày càng thường xuyên hơn. Các dự báo đều cho thấy, biến đổi khí
hậu sẽ làm giảm đà tăng trưởng kinh tế cao trong những năm gần đây và cho tương lai
(đặc biệt đối với các ngành chi phối kinh tế trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và
du lịch). Ngân hàng Thế giới (2010) ước tính nếu khơng thực hiện các biện pháp thích
ứng, tăng trưởng kinh tế giảm khoảng 0,7%-2,4% vào năm 2050.
Việc theo đuổi những mục tiêu phát triển trong điều kiện gia tăng đơ thị hóa, cơng
nghiệp hóa này ngày càng gây áp lực đối với các nguồn tài nguyên đang dần cạn kiệt;
chất lượng tăng trưởng vẫn chủ yếu dựa vào lao động giá rẻ và tài nguyên sẵn có, trong
khi sức cạnh tranh của nền kinh tế cịn thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa ổn định; chất
lượng mơi trường sống ít được cải thiện. Chính những điều này đã làm ảnh hưởng trực
tiếp đến sự phát triển bền vững của đất nước. Do vậy, Chính phủ Việt Nam cần có những
định hướng và điều chỉnh chính sách phù hợp theo hướng TTX, trong đó có sự điều
chỉnh và hồn thiện chính sách thuế.
Kể từ năm 2011 cho tới nay, Chính phủ Việt Nam đã có rất nhiều chương trình
và hành động thể hiện rõ yêu cầu phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, trong
đó đổi mới mơ hình tăng trưởng chuyển dịch từ nền kinh tế nâu sang nền kinh tế xanh
là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Theo quan điểm của Chính phủ Việt Nam, kinh
tế xanh, TTX đồng nghĩa với tăng trưởng bền vững, hay được hiểu là sự phát triển có
thể đáp ứng về mọi nhu cầu trong hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến khả năng
đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Chính bởi vậy, Việt Nam đã nhận thức khá
sớm sự cần thiết phải định hướng phát triển bền vững này và cũng có những hành động
nhất định trên nhiều mức độ, khía cạnh, phương diện khác nhau như: Việt Nam đã tích
cực tham gia các hội nghị thượng đỉnh và ký các cam kết quốc tế về môi trường và phát
triển bền vững, vấn đề biến đổi khí hậu tồn cầu như Tuyên bố Rio về Môi trường và
Phát triển, Chương trình nghị sự 21 tồn cầu,… Bên cạnh các cam kết quốc tế, hàng loạt
chính sách được ban hành, từ định hướng của Đảng tại Chỉ thị số 36-CT/TW (25/6/1998)
của Bộ Chính trị về tăng cường cơng tác BVMT trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; Nghị quyết số 41-NQ/TW (15/11/2004) của Bộ Chính trị nhằm tăng cường
công tác BVMT trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước. Quan điểm phát triển bền vững
cũng đã được thể hiện xuyên suốt trong các Chiến lược phát triển kinh tế xã hội tại các
kỳ đại hội Đảng những năm gần đây; Nghị quyết số 24-NQ/TW (3/6/2013) về chủ động
ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT, tại Hội nghị lần
thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI. Đồng thời Chính phủ cũng ban hành hàng
loạt các văn bản chính sách triển khai như Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg của Thủ
9
tướng Chính phủ về "Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam" (Chương
trình nghị sự 21 của Việt Nam); Quyết định số 1032/QĐ-TTg ngày 27/9/2005 về thành
lập Hội đồng Phát triển bền vững Quốc gia, sau đó là Ban Chỉ đạo/Hội đồng phát triển
bền vững; Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 về “Chiến lược Phát triển bền
vững Việt Nam giai đoạn 2011- 2020”; Quyết định số 1393/QĐ-TTg (25/9/2012) về
“Chiến lược quốc gia về TTX cho thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến 2050”; Quyết
định số 339/QĐ-TTg (19/2/2013) phê duyệt “Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với
chuyển đổi mơ hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực
cạnh tranh giai đoạn 2013 - 2020”; Quyết định số 1250/QĐ-TTg (31/07/2013) phê duyệt
“Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”;
Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020; Chiến lược
sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020; Chương trình mục tiêu quốc gia về
sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; Quyết định số 158/2008/QĐ-TTg
(02/12/2008) phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu
(NTP); Quyết định số 2139/QĐ-TTg (05/12/2011) phê duyệt Chiến lược Quốc gia về
biến đổi khí hậu (VCCS); Quyết định số 1474/QĐ-TTg (05/10/2012) phê duyệt Kế
hoạch hành động quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn 2012 – 2020 (NAP).
Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu của Việt Nam được phê duyệt vào tháng
12/2011, là nền tảng cho việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội dài hạn trước
những thách thức về biến đổi khí hậu. Chiến lược đưa ra các mục tiêu tổng thể và coi
nền kinh tế carbon thấp và TTX như các nguyên tắc để giúp nền kinh tế phát triển bền
vững, nhưng đi kèm với thích ứng và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính - một chỉ số bắt
buộc trong phát triển kinh tế-xã hội.
Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội là một trong những định hướng phát triển quan
trọng của Việt Nam. Trong Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2021-2025,
Chính phủ đề ra 23 mục tiêu kinh tế vĩ mô, xã hội và môi trường. Kế hoạch phát triển
kinh tế-xã hội nhấn mạnh việc thực hiện mục tiêu kép vừa phòng, chống dịch bệnh
COVID-19, vừa phục hồi, phát triển kinh tế-xã hội đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn
với đổi mới mơ hình tăng trưởng; phát triển kinh tế số, xã hội số; tăng cường quản lý tài
nguyên và môi trường; thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng cường huy động, phân bổ
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
Việt Nam đã thông qua Chiến lược quốc gia về TTX giai đoạn 2021-2030, tầm
nhìn 2050 (Chiến lược TTX) vào tháng 10 năm 2021 nhằm thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh
tế gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng chống
chịu trước các cú sốc từ bên ngoài, giúp giảm thiểu tính dễ bị tổn thương của con người
trước biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính để hướng tới nền kinh tế trung hòa
carbon trong dài hạn, dựa vào thể chế và quản trị hiện đại, khoa học và công nghệ tiên
10
tiến, chuyển đổi số, tạo động lực để đầu tư tư nhân đóng vai trị ngày càng quan trọng
trong nền kinh tế xanh.
Chiến lược TTX là một nỗ lực tổng hợp các kế hoạch hành động xanh của các
lĩnh vực kinh tế và xã hội gồm: (i) Thúc đẩy “sản xuất xanh” thông qua sử dụng hiệu
quả hơn các nguồn lực và công nghệ mới. Mục tiêu này nhằm mục đích tạo thuận lợi
cho sản xuất kinh doanh bền vững, dựa trên những nguyên tắc xanh, thân thiện với môi
trường và hình thành các doanh nghiệp xanh mới; (ii) Đến năm 2030 và 2050 giảm
cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP ít nhất 15% và 30% so với năm 2014 và
giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 1-1,5% mỗi năm. Mục tiêu này nhấn mạnh
cam kết của Việt Nam đối với tăng trưởng theo hướng các-bon và các nỗ lực tồn cầu
để giảm thiểu biến đổi khí hậu; (iii) Khuyến khích xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu
dùng bền vững.
Như vậy, có thể khẳng định rằng hệ thống các văn bản pháp luật về định hướng
và các chính sách liên quan đến vấn đề phát triển nền kinh tế bền vững và ứng phó với
biến đổi khí hậu của Việt Nam đã được ban hành liên tục và xuyên suốt. Trong số đó,
chiến lược TTX được coi là một nỗ lực gần đây nhất của Việt Nam nhằm thúc đẩy quá
trình tái cấu trúc nền kinh tế và hoàn thiện thể chế kinh tế (theo hướng sử dụng hiệu quả
hơn tài nguyên thiên nhiên); nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế thông qua tăng
cường vào đổi mới đầu tư vào công nghệ mới, công nghệ tiên tiến, cơng nghệ sạch ….,
từ đó góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm nghèo và đảm bảo phát triển nền
kinh tế bền vững. Để đạt được chiến lược quốc gia về TTX, cần thiết có vai trị của
Chính phủ. Chính phủ sẽ cùng các tổ chức quốc tế thực hiện các bước cần thiết để xây
dựng các công cụ thúc đẩy sự thay đổi trong hoạt động của con người đối với môi
trường nhằm mục đích giúp chuyển đổi sang nền kinh tế có ít khí thải và sử dụng tài
ngun hiệu quả cao.
Có rất nhiều biện pháp, công cụ bên cạnh các thể chế, khuôn khổ pháp luật để
Nhà nước hướng tới mục tiêu TTX, như đầu tư xanh; cấp tín dụng xanh; hỗ trợ huy động
nguồn vốn xanh; chính sách hỗ trợ, miễn giảm, ưu đãi thuế/phí khuyến khích các hoạt
động đầu tư xanh..., trong đó cơng cụ thuế là một trong những cơng cụ quan trọng góp
phần đạt được mục tiêu này. Trong những năm qua, chính sách thuế đã có nhiều thay
đổi theo hướng đơn giản hóa và phù hợp hơn với xu thế hội nhập, đồng thời giúp Nhà
nước đáp ứng được nhiều mục tiêu khác nhau trong đó có mục tiêu TTX (như chính
sách ưu đãi về thuế TNDN, nhằm khuyến khích sản xuất, tiêu dùng xanh; chính sách ưu
đãi thuế GTGT nhằm khuyến khích tiêu dùng xanh, chính sách thuế TTĐB, BVMT
nhằm hạn chế sản xuất, tiêu dùng một sản phẩm gây nguy hại đến môi trường...), tuy
nhiên, liệu chính sách thuế hiện hành tại Việt Nam đã thực sự đủ mạnh để khuyến khích
sản xuất và tiêu dùng xanh hay các chính sách thuế nhằm hạn chế sản xuất, tiêu dùng
11
các sản phẩm gây nguy hại đối với môi trường đã phù hợp với thực tiễn, đáp ứng được
mục tiêu đã đặt ra? Chính vì vậy, việc xem xét kinh nghiệm quốc tế trong việc áp dụng
chính sách thuế nhằm hướng tới mục tiêu TTX để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam, đồng thời đề xuất một số khuyến nghị đối với Chính phủ Việt Nam nhằm
hồn thiện chính sách thuế xanh, qua đó góp phần giúp Nhà nước Việt Nam đạt được
mục tiêu TTX và phát triển bền vững đến năm 2030 và hướng tới năm 2050.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về TTX; chính sách thuế nhằm hướng tới mục
tiêu TTX
- Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước sử dụng chính sách thuế nhằm hướng
tới mục tiêu TTX và bài học cho Việt Nam
- Đánh giá thực trạng chính sách thuế nhằm hướng tới mục tiêu TTX tại Việt Nam
- Đề xuất một số khuyến nghị về chính sách thuế nhằm hướng tới mục tiêu TTX
tại Việt Nam đến năm 2030
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Chính sách thuế nhằm hướng tới mục tiêu TTX
- Phạm vi nghiên cứu: Chính sách thuế nhằm hướng tới mục tiêu TTX tại Việt
Nam năm 2030. Kinh nghiệm quốc tế - bài học cho Việt Nam và đề xuất một số khuyến
nghị cho Nhà nước.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp định tính truyền thống để phân tích và đánh giá các
vấn đề mang tính lý thuyết và thực tiễn. Phương pháp nghiên cứu cơ bản và xuyên suốt
quá trình nghiên cứu là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương
pháp thống kê so sánh và tổng hợp để phân tích kinh nghiệm quốc tế trong việc sử dụng
cơng cụ thuế nhằm hướng tới mục tiêu tăng trưởng và đánh giá thực trạng chính sách
thuế hiện hành nhằm hướng tới mục tiêu TTX tại Việt Nam.
Quy trình nghiên cứu bao gồm các bước cụ thể như sau:
Bước 1:Tổng quan nghiên cứu;
Bước 2: Nghiên cứu thực trạng;
Bước 3: Xác định kết quả nghiên cứu.
12
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH THUẾ HƯỚNG TỚI MỤC TIÊU
TĂNG TRƯỞNG XANH
1.1. Cơ sở lý luận về tăng trưởng xanh
1.1.1 Khái niệm tăng trưởng xanh
Khái niệm “tăng trưởng xanh” có nguồn gốc từ khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương, được nêu ra chính thức đầu tiên tại hội nghị lần thứ 5 Hội nghị Bộ trưởng về
môi trường và phát triển (MCED) năm 2005 tại Seoul, Hàn Quốc, 52 Chính phủ và các
bên liên quan khác từ Châu Á - Thái Bình Dương đã đồng ý mục tiêu vượt lên những
quan điểm về phát triển bền vững và theo đuổi con đường "TTX" (UN, 2012). Để làm
như vậy, họ đã áp dụng một tuyên bố của bộ trưởng (Mạng Sáng kiến Seoul về TTX) và
kế hoạch thực hiện khu vực để phát triển bền vững (UNESCAP, 2008). Điều này khởi
đầu cho một tầm nhìn rộng lớn hơn về TTX như một sáng kiến khu vực của UNESCAP,
nơi nó được coi là chiến lược quan trọng để đạt được phát triển bền vững cũng như các
Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (liên quan đến giảm nghèo và bền vững mơi trường)
(UNESCAP, 2012). Theo đó, MCED cho rằng cách tiếp cận TTX là “tìm cách hài hịa
giữa tăng trưởng kinh tế với bền vững về môi trường, đồng thời nâng cao hiệu quả sinh
thái của tăng trưởng kinh tế và tăng cường hiệp đồng giữa môi trường và kinh tế. Cũng
như nền kinh tế xanh, TTX thu hút sự chú ý đáng kể như một cách thoát khỏi tình trạng
kinh tế ảm đạm ngày nay do hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 (Green
Growth Leaders, 2011).
Năm 2008, trong việc đối phó với khủng hoảng tài chính tồn cầu, Hàn Quốc đã
áp dụng “TTX carbon thấp" làm tầm nhìn phát triển mới của đất nước, và sau đó là ban
hành Chiến lược Quốc gia về TTX vào năm 2009, kế hoạch 5 năm về TTX (đi kèm với
việc ban hành Đạo luật khung về TTX carbon thấp. Hàn Quốc cũng chính là quốc gia
đẩy khái niệm TTX được thùa nhận rộng rãi hơn, trong đó là việc thúc đẩy thông qua
quan điểm này ở Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD). Tại cuộc họp của Hội
đồng Bộ trưởng OECD vào tháng 6 năm 2009 đã phê chuẩn một tuyên bố thừa nhận
“xanh” và “tăng trưởng” có thể đi đơi với nhau. Kể từ đó, OECD đã trở thành một người
đề xuất chính cho TTX và hỗ trợ các nỗ lực của các quốc gia để thực hiện TTX
Vào năm 2010, Hội nghị cấp cao Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)
tại Hà Nội đã thông qua Tuyên bố của các nhà lãnh đạo ASEAN về phục hồi và phát
triển bền vững, trong đó nêu quan điểm về thúc đẩy TTX, bao gồm đầu tư bền vững, lâu
dài vào môi trường và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên nhằm đa dạng
hóa nguồn nguyên liệu đầu vào mà vẫn đảm bảo khả năng phục hồi của nền kinh tế.
(UN, 2012)
13