Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

TÍNH ĂN CỦA CÁ RÔ PHI pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.59 KB, 3 trang )

TÍNH ĂN CỦA CÁ RÔ PHI


Thức ăn tự nhiên của cá rô phi rất đa dạng, gồm sinh vật phù du,
lá xanh, sinh vật đáy, động vật không xương sống ở nước, ấu
trùng cá, mùn bã hữu cơ và vật chất hữu cơ đang phân hủy. Ở
những ao có bổ sung thêm nhiều thức ăn, thức ăn tự nhiên
thường đóng góp khoảng 30 – 50% sự tăng trưởng của cá. Trong
khi đó, ở những ao nuôi cá nheo có cho ăn đầy đủ, thức ăn tự
nhiên chỉ giúp khoảng 5 – 10% tăng trưởng mà thôi. Khả năng
sử dụng được nhiều loại thức ăn tự nhiên (và cả thức ăn chế
biến) của cá rô phi làm cho việc nuôi ghép chúng với các loài cá
khác trở nên không quan trọng khi so với cá chép hay các loài cá
chép Trung Quốc.


Cá rô phi thường được coi như loài ăn lọc vì chúng thu gom sinh
vật phù du trong nước rất hữu hiệu. Tuy nhiên, gọi cá rô phi là
loài ăn lọc có lẽ không chính xác vì chúng không thực sự lọc
nước qua lược mang một cách hiệu quả như cá mè trắng và cá
mè hoa. Mang cá rô phi tiết ra chất nhầy kết dính các sinh vật
phù du lại tạo thành những hạt chứa đầy những sinh vật phù du
để chúng sử dụng. Cơ chế bắt mồi như vậy cho phép cá rô phi ăn
được những hạt có kích thước nhỏ tới 5 µm. Người ta cũng
thường hiểu lầm rằng, vào cuối buổi sáng và đầu buổi chiều cá
rô phi đang bị căng thẳng do thiếu Oxy khi chúng hớp nước ăn
mồi ở tầng mặt nơi có rất nhiều thực vật phù du. Sự tiêu hóa và
hấp thu thức ăn có nguồn gốc thực vật xảy ra trong ống tiêu hóa
có chiều dài ít nhất cũng khoảng 6 lần chiều dài than. Khả năng
sử dụng tảo của cá rô phi đen Oreochromis mossambicus kém
hơn cá rô phi vằn O. niloticus và cá rô phi xanh O. aureus.




Một vài loài cá rô phi khác, bao gồm Tilapia rendallii và T.
zillii, ăn lá xanh một cách chủ động nhưng tăng trưởng chậm và
không có khả năng ăn sinh vật phù du nên bị loại khỏi danh
sách những đối tượng nuôi phù hợp. Thực vật thượng đẳng thủy
sinh không được coi là thức ăn ưa thích của cá rô phi vằn và rô
phi xanh. Những loài có giá trị kinh tế quan trọng này không thể
tiêu diệt một cách hữu hiệu các loài cỏ nước đã mọc vững từ
trước, nhưng có thể ngăn chặn sự phát sinh các loại rong bèo
chìm hay nổi ở trong ao.

Việc cá sử dụng được mô thực vật không phải đương nhiên hàm
ý chúng có khả năng tiêu hóa và hấp thu dưỡng chất cho cơ thể.
Đa số các loài cá không thu được dinh dưỡng từ những mô thực
vật được ăn vào một cách ngẫu nhiên. Nhưng cá rô phi lại thu
được dinh dưỡng từ thức ăn thực vật. Sự tiêu hóa tảo sợi, phù du
và thực vật bậc cao được thực hiện bằng 2 cách: xay nghiền các
mô thực vật bằng cơ học nhờ 2 phiến răng hầu chắc khỏe, hoặc
nhờ vào độ pH nhỏ hơn 2 trong dạ dày sẽ làm vỡ nát vách tế bào
của tảo lam và vi sinh vật. Các loài kinh tế quan trọng thuộc
giống Oreochromis tiêu hóa 30 – 60% đạm có trong tảo, và
chúng tiêu hóa tảo lam hữu hiệu hơn nhiều so với tảo lục.

Phân chuồng vừa có chức năng là phân bón vừa có chức năng là
thức ăn trong ao nuôi cá rô phi. Phân gà, phân heo chứa ít
Carbohydrate mà cá rô phi có thể tiêu hóa được. Tuy nhiên chỉ
có một nửa lượng đạm trong phân heo được cá rô phi tiêu hóa.

Khi ăn cá rô phi không xáo trộn nền đáy nhiều như cá chép. Ban

ngày chúng tìm kiếm các loài động vật không xương sống ở đáy
ao và các mảnh vụn hữu cơ chứa đầy vi khuẩn. Cá rô phi cũng
ăn các động vật không xương sống sống tạm thời trong nước.
Chúng không được xếp vào nhóm động vật ăn cá, nhưng cá rô
phi con cũng chủ động tấn công cá con mới nở. Tập tính ăn mồi
sống này là điều đáng lưu tâm chính trong chiến lược quản lí sản
xuất giống cá rô phi

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×