BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
SAR SOKPHARUTH
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ
LIÊN QUAN Ở TRẺ EM BỊ SẨN CỤC
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
HÀ NỘI - 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
SAR SOKPHARUTH
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ
LIÊN QUAN Ở TRẺ EM BỊ SẨN CỤC
Chuyên ngành: Da liễu
Mã số: 02220893
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
TS. BS. Trần Thị Huyền
HÀ NỘI - 2023
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CGRP
: Calcitonin gene-related peptide
(peptid liên quan đến gen calcitoin)
ECP
: Eosinophil cationic protein (protein cation của bạch cầu ái toan)
IL-31
: Interleukin 31
NK1R
: Neurokinin-1 receptor (thụ thể neurokinin-1)
NGF
: Nerve growth factor (yếu tố tăng trưởng thần kinh)
NGFr
: Nerve growth factor receptor (thụ thể yếu tố tăng trưởng thần kinh)
PGP
: Protein gene product (sản phẩm protein của gene)
PNRS
: Pruritus Numeric Rating Scale
(thang điểm đánh giá mức độ ngứa)
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
1
CHƯƠNG 1: TỔNG RQUAN TÀI LIỆU
3
1.1. Tổng quan về bệnh sẩn cục ở trẻ em
3
1.2. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh sẩn cục
3
1.3. Đặc điểm lâm sàng, phân loại mức độ và chẩn đoán phân biệt trên lâm sàng
bệnh sẩn cục ở trẻ em
6
1.4. Đặc điểm cận lâm sàng bệnh sẩn cục
8
1.5. Điều trị sẩn cục
9
1.6. Các nghiên cứu ở Việt Nam và trên thế giới về bệnh sẩn cục nói chung và
bệnh sẩn cục ở trẻ em
10
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
12
2.1. Đối tượng nghiên cứu
12
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
12
2.3. Phương pháp nghiên cứu
12
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
12
2.3.2. Cỡ mẫu và chọn mẫu
12
2.3.3. Nội dung/các bước tiến hành nghiên cứu
12
2.3.4. Các biến số và chỉ số nghiên cứu
15
2.3.5. Công cụ và phương pháp thu thập số liệu
17
2.3.6. Xử lý và phân tích số liệu
17
2.4. Đạo đức nghiên cứu
17
CHƯƠNG 3: DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
20
3.1. Đặc điểm lâm sàng, một số yếu tố liên quan đến sẩn cục
20
3.2. Một số yếu tố liên quan
24
CHƯƠNG 4: DỰ KIẾN BÀN LUẬN
27
DỰ KIẾN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
28
TÀI LIỆU THAM KHẢO
29
PHỤ LỤC
32
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2. 1 Đánh giá mức độ ngứa theo thang điểm pnrs (pruritus numeric
rating scale)......................................................................................................14
Bảng 2. 2 Đánh giá mức độ tổn thương theo iga - cpg stage (investigator
global assessment - chronic prurigo stage)...................................................14
Bảng 2. 3 Đánh giá mức độ hoạt động của bệnh sẩn cục theo iga - cpg activity
(investigator global assessment - chronic prurigo activity).........................15
Bảng 2. 4 Các biến số và chỉ số nghiên cứu..........................................................16
BẢNG 3.1. PHÂN BỐ BỆNH SẨN CỤC THEO GIỚI..........................................20
BẢNG 3.2. PHÂN BỐ BỆNH SẨN CỤC THEO TUỔI.........................................20
BẢNG 3.3. PHÂN BỐ BỆNH SẨN CỤC THEO ĐỊA DƯ...................................20
BẢNG 3.4. CÁC BỆNH PHỐI HỢP.......................................................................21
BẢNG 3.5. THỜI GIAN MẮC BỆNH....................................................................21
BẢNG 3.6. ĐẶC ĐIỂM THƯƠNG TỔN SẨN CỤC.............................................21
BẢNG 3.7. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ NẶNG CỦA BỆNH SẨN CỤC THEO IGA CPG STAGE.....................................................................................................22
BẢNG 3.8. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HOẠT ĐỘNG CỦA BỆNH SẨN CỤC THEO
IGA-CPG ACTIVITY.......................................................................................22
BẢNG 3.9. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ NGỨA THEO THANG ĐIỂM PNRS............23
BẢNG 3.10. VỊ TRÍ TỔN THƯƠNG.....................................................................23
BẢNG 3.11. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CẬN LÂM SÀNG..........................................23
BẢNG 3.12. MỨC ĐỘ NGỨA THEO THANG PNRS THEO MỘT SỐ ĐẶC
ĐIỂM.................................................................................................................24
BẢNG 3.13. MỨC ĐỘ HOẠT ĐỘNG CỦA BỆNH SẨN CỤC THEO IGA-CPG
ACTIVITY THEO MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM........................................................25
DANH MỤC HÌNH
Hình 1. 1 Cơ chế bệnh sinh của sẩn cục do rối loạn về miễn dịch và thần kinh......4
Hình 1. 2 Hình ảnh bệnh nhân bị sẩn cục........................................................................7
Hình 1. 3 Hướng dẫn điều trị sẩn cục theo ifsi (international forum for the study of
itch).............................................................................................................................10
Hình 2. 1 Sơ đồ nghiên cứu..............................................................................................18
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sẩn cục (prurigo nodularis) là một thể hay gặp của sẩn ngứa, được xác định
trên lâm sàng bởi các thương tổn da ngứa, sẩn hoặc cục đối xứng hai bên, thường
gặp ở chi thể hoặc thân mình1–3. Bệnh có thể cấp tính, bán cấp hoặc mạn tính. Ở trẻ
em, sẩn cục chủ yếu được mô tả là sẩn ngứa hoặc mày đay dạng sẩn và được xem
là phản ứng quá mẫn1. Theo báo cáo, sẩn cục ở trẻ em có thể diễn biến mạn tính,
kéo dài vài tháng đến nhiều năm, được kích hoạt và duy trì bởi các chất gây dị ứng
trong môi trường. Sẩn cục cấp tính phổ biến ở những vùng có điều kiện vệ sinh
kém, có liên quan đến vết đốt hoặc nhiễm trùng của cơn trùng 2. Mặt khác, sẩn cục
mạn tính có thể được khởi phát bởi các yếu tố nội sinh gây ngứa3.
Điều trị sẩn cục có thể gặp nhiều thách thức, đặc biệt là ở trẻ em do thiếu
phương pháp điều trị tiêu chuẩn2. Mặt khác, các dữ liệu về đặc điểm lâm sàng và
cận lâm sàng ở trẻ em mắc sẩn cục không đầy đủ do bệnh thường gặp chủ yếu ở
người trung niên và người cao tuổi1,2, trong khi tỷ lệ mắc ở trẻ em chỉ vào khoảng
21,6/100.000 trẻ4. Sẩn cục ở trẻ em thường liên quan đến các yếu tố môi trường và
cơ địa, ảnh hưởng lớn tới chất lượng cuộc sống của trẻ. Khía cạnh lâm sàng của sẩn
cục thay đổi rất ít, tuy nhiên, vấn đề nảy sinh là nguyên nhân gây bệnh có thể phức
tạp, phụ thuộc nhiều vào điều kiện khí hậu và mơi trường3. Ngồi ra, một số bệnh
lý khác cũng có thể dẫn tới bệnh sẩn cục như các bệnh viêm, các bệnh lý của cơ quan
nội tạng (đái tháo đường, bệnh thận mạn tính), hay các bệnh nhiễm trùng như HIV,
viêm gan B hoặc viêm gan C, hoặc một số bệnh lý ác tính và các rối loạn về tâm thần2.
Việc điều trị ở những bệnh nhân trẻ em thường khơng đạt hiệu quả cao do khơng
kiểm sốt được hành vi của trẻ trong việc giữ gìn vệ sinh các vị trí gây ngứa hay
kiểm sốt việc gãi thương tổn5.
Tại Việt Nam, sẩn cục là một bệnh khá phổ biến, tuy nhiên, chưa có nhiều
nghiên cứu được thực hiện trên nhóm đối tượng trẻ em. Cung cấp bằng chứng về
2
đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và các yếu tố liên quan đến tình trạng sẩn cục ở
trẻ đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng chiến lược chẩn đốn và điều trị
phù hợp. Do đó, chúng tơi thực hiện đề tài “Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và
một số yếu tố liên quan ở trẻ em bị sẩn cục” với hai mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ở trẻ em bị sẩn cục tại Bệnh viện
Da liễu Trung ương, từ tháng 8/2023 tới tháng 8/2024.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến bệnh sẩn cục ở trẻ em.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tổng quan về bệnh sẩn cục ở trẻ em
1.1.1. Khái niệm, thuật ngữ
Sẩn ngứa (prurigo) là phản ứng viêm xuất tiết, xuất hiện ở lớp trung bì nơng
với sự thâm nhiễm của tế bào lympho và bạch cầu đa nhân5. Sẩn cục (prurigo
nodularis) là một thể lâm sàng hay gặp của sẩn ngứa. Sẩn cục dạng nốt là tình trạng
viêm da mạn tính, đặc trưng bởi ngứa dữ dội, có các nốt sẩn chắc, tăng sản, thường
thấy trên bề mặt duỗi của các chi và thân mình. Bệnh gặp chủ yếu ở lứa tuổi trung
niên hoặc người cao tuổi, ở trẻ em ít hơn4,7.
Sẩn cục lần đầu tiên được mô tả bởi Hyde vào năm 19096, có đặc điểm là
các nốt sẩn tăng sừng và chứng ngứa khó chữa ở những bệnh nhân mắc bệnh da
liễu mạn tính. Cho đến nay, khơng có phương pháp điều trị nhắm mục tiêu nào
được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt, có nhiều
bệnh nhân gây kháng hoặc không đáp ứng với các phương pháp điều trị. Tỷ lệ mắc
sẩn cục ước tính ở trẻ em là 21,6/100.000, thấp hơn so với ở người lớn (72 trên
100.000)4, 7. Mặc dù sinh bệnh học chưa rõ ràng, sẩn cục đã được chứng minh là có
liên quan đến rối loạn điều hịa thần kinh và miễn dịch qua trung gian các cytokine
gây viêm và qua các peptide thần kinh, dẫn đến tình trạng ngứa dữ dội, dai dẳng.
Hiểu biết về sinh lý bệnh của sẩn cục giúp điều trị bệnh hiệu quả hơn.
1.1.2. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh sẩn cục
1.1.2.1. Nguyên nhân
Nguyên nhân của sẩn cục hiện nay vẫn chưa được rõ ràng. Sẩn cục được cho
có liên quan đến một số bệnh lý nhất định. Ở trẻ em, nghiên cứu của Huang và
cộng sự năm 2022 cho thấy, so với trẻ em cùng độ tuổi, trẻ bị sẩn cục có nguy cơ
cao hơn bị rối loạn lo âu (OR=2,84), rối loạn tăng động giảm chú ý (OR=2,04),
4
mắc các bệnh da liễu như vảy nến (OR=7,30), hen suyễn (OR=2,48), nổi mề đay
(OR=3,15), hội chứng chuyển hóa (OR=16,7), đái tháo đường (OR=5,44) và béo
phì (OR=1,62)4. Nhiều trường hợp khơng tìm thấy ngun nhân hay bệnh lý nền được
xếp vào nhóm sẩn cục vơ căn24.
1.1.2.2. Cơ chế bệnh sinh
Cơ chế bệnh sinh của sẩn cục vẫn chưa được hiểu biết một cách đầy đủ. Mặt
khác, một số nghiên cứu cho thấy có mối liên quan và tương tác giữa hai yếu tố gồm
rối loạn miễn dịch và thần kinh trong sinh bệnh học của sẩn cục25.
Hình 1. 1 Cơ chế bệnh sinh của sẩn cục do rối loạn về miễn dịch và thần kinh3
Sau phát hiện ban đầu của Pautrier về tăng sản thần kinh da ở các nốt ngứa vào
năm 19348, vai trò của yếu tố này đã được nghiên cứu nhiều hơn. Các nốt ngứa có
nồng độ chất đánh dấu tế bào thần kinh PGP (protein gene product) 9.5, thụ thể yếu
tố tăng trưởng thần kinh (NGFr-nerve growth factor receptor) và peptide liên quan
đến gen calcitonin (CGRP-calcitonin gene-related peptide) cao hơn ở lớp hạ bì trên
khi so sánh với vùng da khỏe mạnh9. Yếu tố tăng trưởng thần kinh (NGF-nerve
growth factor), liên kết với NGFr, là một chất dinh dưỡng thần kinh cần thiết cho sự
phát triển và tồn tại của tế bào thần kinh 10. Ở da, NGF được tiết ra bởi các tế bào
5
sừng, tế bào mast, bạch cầu ái toan và tế bào lympho T10, 11. Bằng phương pháp nhuộm
kép NGF và p75 NGFr, Johansson và cộng sự đã tìm thấy sự gia tăng NGFr có ái lực
cao và thấp trong các sợi thần kinh ở da và tăng sản xuất NGF trong các tế bào viêm
thâm nhiễm ở da12. Ngoài ra, bạch cầu ái toan và tế bào mast sản xuất NGF đã được
tìm thấy gần với các sợi thần kinh dương tính với NGFr, cho thấy chức năng tiềm
năng của các tế bào viêm này trong việc thúc đẩy tăng sản tế bào thần kinh ở da ở
bệnh nhân bị sẩn cục9. Tăng sản biểu bì cũng có thể được giải thích bằng sự gia tăng
NGF vì NGF đã được chứng minh là gây ra sự tăng sinh tế bào sừng. Ngồi ra, NGF
cịn có nhiều tác dụng sinh học khác nhau đối với hoạt động của các tế bào viêm,
chẳng hạn như tế bào lympho, tế bào mast và bạch cầu ái toan, phù hợp với phát hiện
rằng NGF thúc đẩy sản xuất chất P (substance P) bởi các tế bào thần kinh cảm giác và
histamine và bởi các tế bào mast.
Chất P là một chất dẫn truyền thần kinh liên kết với thụ thể neurokinin-1
(NK1r-neurokinin-1 receptor), gây ban đỏ, phù nề, giãn mạch, thoát protein huyết
tương và ngứa ở các mô da13. Tăng mật độ sợi thần kinh dương tính với chất P trong
thương tổn sẩn cục có thể thúc đẩy viêm và ngứa 14. Điều này được hỗ trợ bởi sự phát
hiện ra aprepitant, một chất đối kháng kháng neurokinin-1, và capsaicin tại chỗ, giúp
giảm chất P, từ đó làm giảm ngứa và kích thước của sẩn cục15, 16.
Histamine, một chất trung gian hóa học quan trọng, có thể đóng vai trị trong
việc gây ngứa ở bệnh nhân bị sẩn cục do sự tăng số lượng tế bào mast chứa histamine
được tìm thấy ở gần các sợi thần kinh dương tính với NGFr trong lớp hạ bì ở các nốt
sẩn cục17. Sự tăng số lượng bạch cầu ái toan có chứa protein cation của bạch cầu ái
toan (ECP-eosinophil cationic protein) và chất độc thần kinh có nguồn gốc từ bạch cầu
ái toan cũng được phát hiện tương tự ở gần các sợi thần kinh dương tính với PGP 9.5
và với mật độ protein dạng hạt tăng lên 12. Hơn nữa, interleukin-31 (IL-31), một
cytokine và chất gây ngứa do bạch cầu ái toan sản xuất, có biểu hiện mRNA tăng gấp
50 lần trong mô da sẩn cục khi so sánh với da khỏe mạnh, cũng có khả năng gây
6
ngứa18. Cùng với nhau, những tác nhân gây ngứa này được cho là dẫn đến chứng ngứa
khó chữa ở bệnh nhân sẩn cục.
1.1.3. Đặc điểm lâm sàng, phân loại mức độ và chẩn đoán phân biệt trên lâm
sàng bệnh sẩn cục ở trẻ em
1.1.3.1. Đặc điểm lâm sàng
Các triệu chứng lâm sàng của sẩn cục có thể diễn biến như sau:
- Bệnh nhân bị ngứa nốt có biểu hiện đặc trưng là các nốt ngứa hình vịm,
chắc, có kích thước khác nhau từ vài mm đến cm. Các nốt có thể có màu da, ban
đỏ, hồng và nâu/đen. Ban đầu, các thương tổn có thể bắt đầu có màu như da bình
thường hoặc các vùng khô. Do ngứa, người bệnh sẽ gãi vào các thương tổn cho đến
khi hình thành các nốt sần hình vịm. Thơng thường, các thương tổn được tìm thấy
đối xứng trên bề mặt cơ duỗi của cánh tay và chân19. Các thương tổn cũng có thể
được tìm thấy ở vùng chẩm của da đầu. Lưng trên, bụng và xương cùng cũng có thể
bị ảnh hưởng. Thơng thường, những khu vực khó tiếp cận như phần trên giữa lưng
sẽ được bỏ qua. Phát hiện này được gọi là “dấu hiệu cánh bướm”.
- Lòng bàn tay, lòng bàn chân, mặt và các vùng uốn cong thường khơng bị
ảnh hưởng.
- Bệnh nhân bị sẩn cục có thể ngứa dữ dội. Các cơn ngứa rời rạc hoặc liên
tục, có thể tăng lên khi đổ mồ hơi, mặc quần áo kích ứng hoặc nóng. Bệnh nhân trải
qua sự kết hợp của các cảm giác bao gồm nóng rát, châm chích và thay đổi nhiệt độ
thương tổn20. Đã có báo cáo rằng trong một số trường hợp, viêm da dị ứng và khơ
da được tìm thấy cùng với ngứa nốt sần và có thể là yếu tố khởi đầu. Các thương
tổn thường có thể bị trầy xước do ngứa, có nguy cơ nhiễm trùng thứ phát cao hơn
và có thể xuất hiện vảy, ban đỏ hoặc đau nếu bị nhiễm trùng. Ngứa dạng nốt cũng
có thể khu trú trong bệnh da liễu như đau dây thần kinh sau zona hoặc ngứa cánh
tay21.
7
Hình 1.2. Hình ảnh sẩn cục, sẩn ngứa ở trẻ em
(Nguồn ảnh: Bệnh viện Da liễu Trung ương)
1.1.3.2. Chẩn đoán mức độ
Chẩn đoán mức độ nặng của bệnh dựa vào thang điểm IGA-CPG stage
(Investigator Global Assessment-Chronic Prurigo Stage)38 như sau:
- Mức độ sạch thương tổn: khơng có thương tổn dạng sẩn/cục có thể sờ
thấy.
- Mức độ gần sạch thương tổn: số lượng thương tổn rất ít, hầu hết là thương
tổn phẳng, có rất ít dạng sẩn/cục có thể sờ thấy (dưới 5 thương tổn).
- Mức độ nhẹ: số lượng thương tổn ít, đa số là thương tổn phẳng, có ít
thương tổn dạng sẩn/cục có thể sờ thấy (từ 6-19 thương tổn).
- Mức độ trung bình: nhiều thương tổn, một số phẳng, có nhiều thương tổn
dạng sẩn/cục có thể sờ thấy (từ 20-100 thương tổn).
- Mức độ nặng: rất nhiều thương tổn, đa số dạng sẩn/cục có thể sờ thấy (trên
100 thương tổn).
1.1.3.3. Chẩn đoán phân biệt
- Pemphigoid dạng sẩn cục: được đặc trưng bởi các nốt sần, sẩn hoặc mảng
ngứa giống như sẩn cục cả về mặt lâm sàng và mơ học 22. Có thể đặc khó phân biệt
hai tình trạng này vì đều có đặc điểm dịch tễ học giống nhau 22. Ngoài ra,
8
pemphigoid dạng sẩn cục có thể phát sinh trong bối cảnh các tình trạng ngứa mạn
tính khác, bao gồm sẩn cục 23. So với sẩn cục, pemphigoid dạng sẩn cục thường
xuất hiện các mảng lớn hơn với vùng trung tâm bị trợt, loét và/hoặc phồng rộp
thường thấy trong các bệnh bọng nước 24. Một số đặc điểm như vết nứt dưới biểu bì
và sự lắng đọng tuyến tính của IgG và C3 dọc theo vùng màng đáy khi nhuộm miễn
dịch huỳnh quang trực tiếp (DIF) khơng có ở bệnh sẩn cục.
- Sẩn ngứa do ánh nắng (actinic prurigo): là một bệnh da hiếm gặp, ngứa dữ
dội, biểu hiện bằng sự bùng phát cấp tính của sẩn ngứa hoặc nốt sần ở những vùng
tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, thường đi kèm với viêm môi và viêm kết mạc 25. So
với sẩn cục, bệnh thường ảnh hưởng hơn đến nữ giới trẻ, những người có biểu hiện
nhạy cảm ánh sáng với tia cực tím A và B.
- Lichen phẳng phì đại (hypertrophic lichen planus-HLP): là một biến thể của
lichen phẳng, đặc trưng bởi các mảng và nốt sần dày sừng, thường liên quan đến
mặt trước của cẳng chân. HLP và sẩn cục có chung các đặc điểm mô học, bao gồm
tăng sản biểu bì, tăng hạt, tăng sừng hóa nhỏ gọn, tăng số lượng nguyên bào sợi và
mao mạch. Tuy nhiên, trong HLP, sự thối hóa của tế bào đáy chỉ giới hạn ở đỉnh
của các đường vân lưới và khơng có sự thâm nhiễm dạng dải26.
- Các vết trầy xước thần kinh là một căn bệnh gây khó chịu, biểu hiện bằng
các thương tổn nổi lên, mất sắc tố do việc cạy da quá mức, bắt buộc, có thể giống
với sẩn cục nhưng khơng có các nốt sần dày sừng thực sự như trong sẩn cục.
1.1.4. Đặc điểm cận lâm sàng bệnh sẩn cục
Xét nghiệm cơng thức máu, sinh hóa máu với chức năng gan, thận là điều
cần thiết để đánh giá tình trạng bệnh sẩn cục và hướng nguyên nhân, đặc biệt với
những bệnh nhân khơng có tiền sử bệnh da như viêm da cơ địa24.
Các xét nghiệm chức năng tuyến giáp, xét nghiệm HbA1C và sàng lọc huyết
thanh HIV, viêm gan B và C có thể được chỉ định dựa trên sự hiện diện của các yếu
tố nguy cơ, đánh giá hệ thống và khám lâm sàng 24. Các xét nghiệm khác dựa trên
9
tiền sử lâm sàng bao gồm cố định miễn dịch huyết thanh, điện di protein huyết
thanh và nước tiểu, phân tích nước tiểu, chụp X-quang ngực, kiểm tra phân để tìm
trứng và ký sinh trùng, và xét nghiệm sắt 24. Bệnh nhân cũng nên được sàng lọc
bệnh ác tính phù hợp với lứa tuổi, đặc biệt ở bệnh nhân sẩn cục cấp tính (dưới 1
năm).
Sinh thiết da làm mơ bệnh học có thể được chỉ định cho các trường hợp biểu
hiện lâm sàng khơng điển hình. Xét nghiệm này, mặc dù khơng được thực hiện
thường xun trong q trình điều trị sẩn cục, có thể cung cấp những thơng tin hữu
ích, đặc biệt khi xem xét các bệnh da nguyên phát khác là nguyên nhân của sẩn
cục24. Về mặt mô học, các thương tổn của sẩn cục thường có biểu hiện dày sừng,
tăng sản biểu bì khơng đều, tăng hạt, xơ hóa nhú trung bì, và tăng số lượng ngun
bào sợi và mao mạch24. Những thay đổi này tương quan với các vết thương do trầy
xước từ vòng xoắn ngứa-gãi được tìm thấy ở sẩn cục. Có sự giảm mật độ sợi thần
kinh biểu bì và tăng mật độ sợi thần kinh trung bì trong vùng da sẩn cục24.
1.1.5. Điều trị sẩn cục
Mục đích chính của điều trị sẩn cục là: 1) phá vỡ vòng xoắn ngứa-gãi dẫn
đến các nốt ngứa và 2) giảm ngứa, cho phép vùng da bị viêm xung quanh các nốt
ngứa lành lại27. Sẩn cục là một tình trạng đặc biệt khó điều trị trong thực hành lâm
sàng28. Cho tới nay, các liệu pháp điều trị sẩn cục chưa được chấp thuận chính thức
dẫn đến việc khơng có sự thống nhất trong điều trị.
Vì cơ chế bệnh sinh của sẩn cục liên quan đến cả thành phần thần kinh và
miễn dịch nên các phương pháp điều trị được đưa ra nhằm giải quyết cả hai. Ngoài
ra, vì sẩn cục có thể là kết quả của bệnh da liễu tiềm ẩn, bắt buộc phải điều trị tình
trạng cơ bản và đạt được giải pháp tổng thể ở những bệnh nhân này 29. Do đó, mỗi
bệnh nhân cần được điều trị bằng một kế hoạch cá nhân hóa. Hướng dẫn điều trị
sẩn cục theo IFSI (International Forum for the Study of Itch-Diễn đàn quốc tế
nghiên cứu ngứa)30 được minh họa ở Hình 1.3.
10
Bậc 4
Bậc 2
Bậc 1
Dưỡng ẩm
Bậc 3
Chất đối kháng thụ thể Neurokinin-1
Các chất đối kháng thụ thể -opioid
Dupilumab
Nemolizumab
(Thadilomid)
Gabapentin, pregabalin
Cyclosporin
Thuốc chống trầm cảm
Methotrexat
Capsaicin đường bôi
Tiêm corticoid nội thương tổn
Liệu pháp ánh sáng
Corticoid đường bơi
Thuốc ức chế calcineurin đường bơi
Kháng histamin H1
Hình 1.3. Hướng dẫn điều trị sẩn cục theo IFSI30
1.2. Các nghiên cứu về bệnh sẩn cục ở trẻ em
Trên thế giới và Việt Nam, có rất ít các nghiên cứu về bệnh sẩn cục ở trẻ em,
các công bố chủ yếu là báo cáo ca bệnh.
Năm 2008, Lezcano và cộng sự đã báo cáo một ca trẻ em một tuổi bảy tháng
với bệnh sẩn cục chỉ giới hạn ở vùng nách một cách đối xứng31.
Năm 2009, có một báo cáo về sẩn cục ở trẻ em 9 tuổi do Ahdi Amer và cộng
sự thực hiện. Trẻ có sự kết hợp của một số nốt sẩn cục, các dát tăng sắc tố và các
mảng trên các khu vực bị ảnh hưởng, xuất hiện ở mặt duỗi cả chi trên và chi dưới.
Mông cũng bị ảnh hưởng nặng nề với cùng loại thương tổn. Phần da cịn lại khơng
có biểu hiện bất thường. Bệnh nhân khơng sốt và có vẻ khỏe mạnh. Khơng có bệnh
hạch bạch huyết hay gan to và các bất thường toàn thân khác32.
Một báo cáo mới đây của Albela Henrietta và cộng sự (năm 2022) ở
Malaysia về một bé trai người Mã Lai 4 tuổi với chứng viêm da cơ địa và ngứa nốt
sần. Các triệu chứng bắt đầu từ khi bé được 6 tháng tuổi. Tình trạng bệnh không
11
được kiểm sốt tốt do khơng tn thủ điều trị và không tới khám lại. Bệnh nhân
phát triển các nốt rất ngứa trên thân mình và tay chân từ năm 2 tuổi. Khi kiểm tra,
bệnh nhân có nhiều mảng, nốt ban đỏ và sần sùi trên các chi và lưng, da khơ tồn
thân, lichen hóa ở các nếp gấp33.
Tại Việt Nam, có nghiên cứu của Nguyễn Qúy Thái về mối liên quan giữa
bệnh sẩn ngứa nội sinh và một số yếu tố chuyển hóa tại Khoa da liễu, Bệnh viện đa
khoa Trung ương Thái Nguyên; nghiên cứu của Trần Lê Linh Trang (chưa công
bố) về đặc điểm lâm sàng và các yếu tố liên quan của bệnh sẩn cục, hiệu quả điều
trị bệnh bằng methotrexat tại Bệnh viện Da liễu Trung ương.
12
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Là các trẻ em được chẩn đoán xác định sẩn cục, đến khám và điều trị ngoại
trú tại Bệnh viện Da liễu Trung ương từ tháng 8/2023 tới tháng 8/2024.
Tiêu chuẩn lựa chọn
- Trẻ được chẩn đoán sẩn cục.
- Dưới 16 tuổi cho đến thời điểm nghiên cứu.
- Cha mẹ hoặc người giám hộ đồng ý cho trẻ tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Từ 16 tuổi trở lên.
- Có sẩn cục do các bệnh lý khác đã được phát hiện (bệnh da liễu, bệnh rối
loạn chuyển hóa, bệnh máu,…).
- Khơng có đủ các xét nghiệm cần thiết.
- Không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại Bệnh viện Da liễu Trung ương từ tháng
8/2023 tới tháng 8/2024.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
Đây là một nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến cứu.
2.3.2. Cỡ mẫu và chọn mẫu
Chọn mẫu thuận tiện, bao gồm các trẻ em bị sẩn cục đến khám và điều trị tại
Bệnh viện Da liễu Trung ương từ tháng 8/2023 tới tháng 8/2024, phù hợp với tiêu
chuẩn lựa chọn và loại trừ, được làm bệnh án theo một mẫu thống nhất. Dự kiến lấy
200 trẻ em bị sẩn cục.
13
2.3.3. Nội dung/các bước tiến hành nghiên cứu
- Khảo sát tình hình bệnh: Số liệu bệnh nhân đến khám và điều trị tại Bệnh
viện Da liễu Trung ương từ tháng 8/2023 tới tháng 8/2024, lấy từ phần mềm quản
lý bệnh viện HIS của Bệnh viện Da liễu Trung ương với sự cho phép của Bệnh
viện.
- Lập bệnh án nghiên cứu (xem phần phụ lục). Phỏng vấn bệnh nhân, thu
thập các thông tin sau:
+ Các thông tin cá nhân: tên, tuổi, giới, địa chỉ.
+ Tiền sử mắc các bệnh da phối hợp: viêm da cơ địa, lichen phẳng, các bệnh
da bọng nước tự miễn, chốc và các bệnh da khác.
+ Tiền sử mắc các bệnh lý: nhiễm trùng cấp tính, nhiễm virus (HIV, HBV,
HCV), suy thận, suy gan, suy tim, đái tháo đường hoặc các bệnh rối loạn chuyển hóa
khác, bệnh lý ác tính, bệnh lý thần kinh, tâm thần và các bệnh lý khác.
+ Các yếu tố liên quan: tuổi khởi phát, thời điểm hay bị bệnh/tái phát bệnh trong
năm, có dị ứng thức ăn/thuốc, có tẩy giun định kỳ, tiền sử gia đình có người bị bệnh sẩn
cục, viêm da cơ địa, căng thẳng tâm lý tại thời điểm khởi phát bệnh, địa dư, có ni súc
vật trong nhà, ...
- Khám thực thể
+ Các triệu chứng cơ năng: ngứa, ảnh hưởng tới giấc ngủ và đánh giá theo
thang điểm PNRS (Prutius Numeric Rating Scale), Bảng 2.1.
+ Số lượng thương tổn và mức độ thương tổn theo IGA-CPG stage, cho điểm
từ 0 đến 4, Bảng 2.2.
+ Đặc điểm thương tổn: sẩn, cục, mảng, mụn nước, vết trợt tiết dịch, vảy tiết,
dày da-lichen hóa, sẹo, dát tăng sắc tố và đánh giá mức độ hoạt động của bệnh theo
IGA-CPG activity, cho điểm từ 1 đến 4, Bảng 2.3.
+ Màu sắc
+ Phân bố: khu trú hay rải rác
+ Vị trí: thân mình, tay chân, toàn thân, đầu mặt cổ