ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
Khoa Ngữ văn
Học phần : Thể loại và tác gia tiêu biểu văn
học phương Tây
Bi kịch lớn nhất của Hamlet trong
tác phẩm cùng tên của William
Shakespeare là gì ?
Hà nội , tháng 11 năm 2022
MỤC LỤC
I.
Giới thiệu chung ............................................................................
Tác giả........................................................................................................
Tác phẩm.....................................................................................................
II.
Khái niệm bi – hài kịch . Nghệ thuật bi kịch trong Hamlet
1. Khái niệm bi – hài kịch ........................................................................
Cái bi .....................................................................................................
Bi kịch ....................................................................................................
2. Đề tài tư tưởng trong Hamlet................................................................
3. Nghệ thuật bi kịch trong Hamlet...........................................................
3.1. Bi kịch xã hội....................................................................................
3.2. Bi kịch gia đình................................................................................
3.3. Bi kịch cá nhân ...............................................................................
4. Thế giới nhân vật trong Hamlet ...........................................................
III. Mối quan hệ giữa tác phẩm và tư tưởng thời đại Phục Hưng.........
I . Giới thiệu chung :
1. Tác giả :
- Shakespeare (23/04/1564) tại Stratford upon Avon, thị trấn nằm ở trung tâm
nước Anh
+ Ngày sinh của ông trùng với ngày lễ Thánh George - vị thánh yêu quý của
người Anh
- Cha ông vốn theo nghề nông nhưng rời bỏ ruộng đồng ra thị trấn theo đuổi
nghề làm bao tay, làm ăn phát đạt nên được bầu làm thị trưởng
+ Năm ông 14 tuổi, vì gia đình sa sút nên bỏ học đi làm phụ giúp gia đình
+ Năm 18 tuổi, ơng kết hôn với Anne Hathaway, hơn ông 8 tuổi, sinh được ba người
con gồm 2 gái, 1 trai
- Càng ngày, cuộc sống gia đình càng túng quẫn nên năm 23 tuổi, ông rời
Stratford ra London với hai bàn tay trắng và niềm đam mê sân khấu
+ Ơng tìm đến rạp The Theatre xin chân giữ ngựa, soát vé. Sau chứng tỏ được khả
năng của bản thân nên ông được giao làm chân nhắc vở và đóng vai phụ
- Năm 1590, ông bắt tay vào sự nghiệp sáng tác với các thể loại như hài kịch,
kịch lịch sử, bi - hài kịch, bi kịch
+ Hài kịch: Đêm thứ mười hai, giấc mộng đêm hè,...
+ Bi - hài kịch: Romeo và Juliet
+ Bi kịch: Othello, Vua Lear,...
Để lại gần 40 vở kịch, hai trường ca và 154 bài.
Ông mất ngày 23 - 6 - 1616, được an táng tại nhà thờ Holi Triniti
Năm 1623, toàn tập Shakespeare được ra mắt bạn đọc
2. Tác phẩm Hamlet :
- Nhan đề đầy đủ vở Hamlet của Shakespeare là Bi kịch Hamlet, Hoàng tử
Đan Mạch ( Tragedy of Hamlet, Prince of Denmark ) được Shakespeare
viết vào khoảng 1601 và được công diễn 1602.
- Trước hết, Hamlet có cốt truyện phỏng theo câu chuyện cổ Đan Mạch.
Truyện này được Saxo Grammaticus – một thầy tu Đan Mạch sống vào
thế kỉ XII ghi lại trong cuốn Truyện lịch sử Đan Mạch.
+ Shakespeare đã cải biến câu chuyện trả thù thành một vở kịch phản ánh sâu sắc đặc
trưng thời đại bấy giờ; sự khủng hoảng bế tắc của lý tưởng nhân văn; nói lên nỗi băn
khoăn trăn trở về lẽ sống, về ước vọng của con người thời đại ấy một cách thống thiết.
Hamlet là tác phẩm kết hợp tuyệt vời giữa thi ca và triết học, giữa nghệ thuật và tư
tưởng, giữa sân khấu và cuộc đời.
Tóm tắt nội dung :
Cốt truyện xoay quanh nhân vật trung tâm là Hamlet, hoàng tử nước Đan Mạch.
Chàng gặp một cảnh ngộ éo le: vua cha vừa chết được hai tháng thì mẹ chàng, Hồng
hậu Gertrude tái giá lấy Claudius, chú ruột của chàng. Hồn ma của vua cha hiện về
1
báo cho chàng biết Claudius là kẻ đã giết mình để chiếm đoạt ngai vàng và Hồng
hậu, và địi Hamlet phải trả thù. Chàng giả điên để che mắt kẻ thù, thực hiện nghĩa vụ.
Tình hình căng thẳng hơn khi Hamlet cho mời một đoàn kịch vào hoàng cung diễn
một vở kịch. Xem đến cảnh một đôi gian phu dâm phụ mưu sát nhà vua, Claudius
hoảng hốt bỏ về rồi vào phòng riêng cầu nguyện. Thời cơ rất thuận lợi để chàng trả
thù, nhưng chàng lại không hành động. Chàng cho rằng giết hắn trong lúc hắn đang
cầu nguyện để linh hồn hắn sạch tội ác, lên thiên đàng thì không thể gọi là trả thù
được và như thế không tương xứng với cái chết mà cha chàng đã chịu. Claudius lập
mưu cho hai tên tay sai hộ tống Hamlet sang Anh, thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt.
Trước khi Hamlet lên đường, mẹ chàng cho gọi chàng vào nói chuyện, với ý đồ lợi
dụng tình cảm mẹ con để khêu gợi Hamlet nói thật tâm trạng của mình. Quan đại thần
Polonius, cha của Ophelia, người yêu của Hamlet nấp sẵn sau bức rèm, có nhiệm vụ
theo dõi cuộc nói chuyện đó. Tuy nhiên, Hamlet ln đề phịng và khi phát hiện bức
rèm động đậy, chàng rút gươm đâm. Tiếc thay không phải là nhà vua Claudius mà là
cha của người yêu của mình. Trên đường sang Anh, lợi dụng lúc hai tên tay sai của
nhà vua sơ ý, Hamlet xem trộm tờ chiếu chỉ, đó là mật lệnh giao cho vua Anh phải
giết ngay Hamlet. Hamlet bèn viết thay một chiếu chỉ khác, đề nghị vua Anh giết hai
tên tay sai. Chàng trở về Đan Mạch tâu với vua là chàng bị bọn cướp biển bắt, rồi
được chúng tha. Ophelia phần vì thất vọng với sự điên loạn của người yêu , phần quá
đỗi đau thương trước cái chết bí ẩn của cha nên bị mất trí, lang thang và cuối cùng
chết đuối. Laertes phẫn nộ trước cái chết của cha (Polonius) và được nhà vua nói cho
biết Hamlet là thủ phạm, đồng thời bày ra kế hoạch để trả thù: tổ chức một cuộc đấu
kiếm giữa Laertes và Hamlet, mũi kiếm của Laertes tẩm thuốc độc và không bịt đầu.
Cẩn thận hơn, nhà vua còn chuẩn bị sẵn một cốc rượu độc để mời Hamlet uống.
Hamlet không lường trước được âm mưu thâm độc của kẻ thù. Song, ngoài ý muốn
của Claudius, khi Hamlet thắng điểm, Hoàng hậu lại là người uống cốc rượu để mừng
con. Đến hiệp ba, Laertes đâm Hamlet bị thương. Đổi kiếm, Laertes lại bị Hamlet đâm
trúng. Hoàng hậu ngấm rượu độc chết khiến cả triều đình sửng sốt. Laertes biết mình
cũng sắp chết nên hối hận nói rõ sự thật: nhà vua Claudius là thủ phạm của âm mưu và
Hamlet sẽ không thể thoát chết do đã bị trúng độc. Căm phẫn tột độ, Hamlet đã dùng
mũi kiếm tẩm độc kết liễu nhà vua. Vở bi kịch kết thúc với việc Fortinbras, sau khi
chinh phục được Ba Lan trở về, lên ngôi vua trị vì vương quốc Đan Mạch trong tiếng
đại bác, tiếng quân nhạc tiễn đưa linh hồn Hamlet về nơi yên nghỉ.
Một số trích dẫn danh ngơn nổi tiếng trong Hamlet :
“Sống sót hay tiêu vong, là một câu hỏi đáng được quan tâm. Âm thầm chịu đựng mũi
tên độc bạo tàn của số phận, hay đứng lên chống lại nỗi thống khổ vơ bờ bến của thế
gian và xóa sạch chúng bằng đấu tranh, hai hành vi này, cái nào cao thượng hơn? Chết
rồi, ngủ rồi, mọi thứ đều sẽ kết thúc.”
“Con người có thể kiểm sốt số phận của mình, nếu chúng ta bị người khác kiểm sốt,
lỗi khơng phải ở số phận, mà là ở chính chúng ta.”
2
“Tơi có thể tàn nhẫn, nhưng khơng thể khơng có lương tâm; tơi có thể đâm cơ ấy bằng
thanh gươm sắc bén của lời nói, nhưng sẽ khơng bao giờ sử dụng một lưỡi dao thực
sự. Trung thành với chính mình thì bạn mới khơng lừa dối người khác. Thói quen có
một ma lực giúp thay đổi tính khí, nó có thể khiến ma quỷ thống trị linh hồn con
người, và cũng có thể đuổi chúng ra khỏi trái tim của con người.”
II. Khái niệm bi - hài kịch . Nghệ thuật bi kịch trong Hamlet :
1. Khái niệm bi-hài kịch :
- Bi - hài kịch (tiếng Pháp: tragi – comédie) là thể loại văn học sân khấu
mà tác phẩm mang những nét đặc trưng vừa của bi kịch, vừa của hài kịch.
Nó là hình thức trung gian giữa bi kịch và hài kịch, nhưng về mặt thể loại
khác với chính kịch (cịn gọi là kịch đram).
- Cơ sở xã hội – thẩm mĩ của sự hình thành bi - hài kịch là cảm giác về tính
tương đối trong sự cảm thụ thực tại khách quan của nhà văn. Nó thường
nảy sinh vào những thời điểm bước ngoặc của lịch sử và được coi là dấu
hiệu của sự khủng hoảng tinh thần :
Khái niệm bi - hài kịch lần đầu tiên được một nhà viết hài kịch La Mã cổ
đại sử dụng với ý nghĩa là trong các nhân vật hài kịch của ơng sẽ có cả
các vị thần vốn thường chỉ xuất hiện trong các bi kịch.
Đến thời Phục hưng, nội dung khái niệm này được mở rộng hơn. Tất cả
các vở kịch trong đó có sự phá vỡ các quy tắc định sẵn của bi kịch hoặc
hài kịch cổ đại, chẳng hạn có sự pha trộn các nhân vật cao cả với thấp
hèn, sự xen kẽ giữa những pha nghiêm túc với pha gây cười, hoặc hành
động bi kịch được kết thúc có hậu (và đây là nét duy nhất bắt buộc phải
có), đều được gọi là bi - hài kịch.
Xung đột trong bi hài kịch thường bắt nguồn từ tính khơng quyết đốn
bên trong của nhân vật. Vở kịch thường kết thúc không dứt điểm và buộc
khán giả phải suy nghĩ tiếp đến cùng.
* Cái bi :
"Cái bi là một phạm trù mỹ học phản ánh một hiện tượng có tính qui luật của
thực tế đời sống xã hội, thường diễn ra trong cuộc đấu tranh không ngang sức giữa cái
thiện và cái ác, cái mới và cái cũ, cái tiến bộ với cái phản động... Trong điều kiện
những cái sau còn mạnh hơn cái trước. Đó sự trả giá tự nguyện cho chiến thắng và sự
bất tử về tinh thần bằng nỗi đau và cái chết của nhân vật chính diện. Cái bi tạo ra một
cảm xúc thẩm mỹ phức hợp bao gồm cả nỗi đau niềm hân hoan lẫn nỗi sợ khủng
khiếp cái bi thường đi liền với nỗi đau và cái chết. Song bản thân nỗi đau và cái chết
chưa phải là cái bi.Nỗi đau vài cái chết chỉ trở thành cái bi khi hướng tới và khẳng
định cái bất tử về mặt tinh thần của con người".
Cái bi là cơ sở qui định đặc trưng của xung đột nghệ thuật trong thể loại
bi kịch. Đó là sự xung đột được tạo nên bởi hành động tự do của nhân vật
3
trong việc thực hiện cái tất yếu mà nó tự thấy trước là không tránh khỏi bị
giẫy chết như nhân vật trong bi kịch anh hùng, hoặc không thấy trước như
trong bi kịch về sự lầm lạc.
* Bi kịch :
“Bi kịch là một loại hình kịch thường được coi là đối lập với hài kịch. Bi
kịch phản ánh không phải bằng tự sự mà bằng hành động của nhận vật
chính trong mỗi xung đột khơng thể điều hịa được giữa cái thiện và cái
ác, cái cao cả và cái thấp hèn.... diển ra trong một tình huống cực kỳ căng
thẳng mà nhân vật chỉ thốt ra khỏi nó bằng cái chết bi thảm, bằng sự hy
sinh mất mát, gây nên những suy tư và xúc động mạnh mẽ đối với
chúng".
Hamlet là vở bi - hài kịch tiêu biểu nhất của Shakespease. Qua xung đột giữa cái
tốt và cái xấu đã làm các yếu tố bi - hài lần lượt xuất hiện. Sự thắng thế của cái xấu
càng làm tăng thêm tính bi đát, khơi hài của vở kịch. Hamlet, Claudius,... vừa là nhân
vật bi kịch, vừa là nhân vật hài kịch. Cái bi - hài của Hamlet toát lên ở chỗ nhân vật
mang khát vọng, dục vọng thật lớn lao nhưng kết quả thì khơng được như ý muốn.
* Hai mặt bi-hài tốt ra từ câu nói:
Cái bi thể hiện những giá trị truyền thống – những giá trị của thời Phục
hưng khơng cịn phù hợp với hiện tại.
Cái hài là những sự việc bất thường, suy nghĩ và hành động trái với đạo lí
ấy lại được cả đám triều thần tán đồng.
Chế độ phong kiến cản trở mọi mặt trong đó thứ tư tưởng chống khoa học,
phục tùng số mệnh… của Nhà thờ là một cản trở rất lớn chống mọi tiến bộ.
– Từ đối thoại giữa hai phu đào huyệt, thấy được ý nghĩ của quần chúng nhân
dân nước Anh thời bấy giờ đối với luật pháp, lễ nghi và cả cái xã hội mà ở đấy
mọi người đều điên cả.
+ Lên án Nhà thờ chống lại mọi tiến bộ: “Cái luật đời thối tha ấy cứ như cái giá
treo cổ nhỉ! Nó sống lâu hơn cả nghìn thây ma treo trên giá, vững chắc hơn cả
Nhà thờ”…Một người sau khi chết muốn được nhớ lâu thì “ chắc chắn y phải
cho xây dựng Nhà thờ”…
+ Cường quyền áp bức bất công “ở trên đời này cứ hạng người phú q thì có
nhiều đặc quyền hơn những con chiên đồng loại khác ’’…
2. Đề tài tư tưởng của tác phẩm :
Hamlet mở đầu cho giai đoạn sáng tác bi kịch của Shakespeare, là vở kịch có ý
nghĩa tâm lý xã hội sâu sắc nhất trong các vở kịch của ơng. Ơng xây dựng tác phẩm
này vào thời kỳ đã từng trải nhiều về cuộc sống, sau hai mươi năm bơn ba chìm nổi
trong xã hội nước Anh lúc bấy giờ. Ông nhận ra tư bản Anh đang nảy sinh những mâu
thuẫn xã hội gay gắt chưa từng thấy: sự cướp đoạt làm giàu của giai cấp tư sản cấu kết
4
với phong kiến đang bần cùng hóa quảng đại nhân dân, đồng tiền vạn năng và cường
quyền chà đạp lên công lý, bao nhiêu quan niệm nhân đạo làm giá trị tinh thần của
thời đại Phục hưng đổ vỡ trên nền móng thối nát của xã hội Tư bản đang thành hình.
Con người lý tưởng của thời đại Phục hưng mà trước đây Shakespease biểu hiện trong
các vở kịch của ông, cũng bị tan vỡ theo. Và nhân vật hoài nghi Hamlet xuất hiện làm
nên một hiện tượng có ý nghĩa lịch sử: đó là lần đầu tiên trong văn học thế giới, một
nhân vật dám lên tiếng hoài nghi cả một xã hội và ngang nhiên lơi nó ra giữa tịa án
của cơng chúng, của nhân loại. Bởi thế, hồi nghi của Hamlet khơng phải là thứ chủ
nghĩa hồi nghi tiêu cực, nó có một tác dụng tích cực đặc biệt đến hiện thực xã hội và
nó chính là phát súng đầu tiên của nhân loại bắn vào thành trì của Chủ nghĩa Tư bản
ngay giữa lúc đang xây dựng. Giá trị tư tưởng vĩ đại của Hamlet là ở chỗ ấy.
3. Nghệ thuật bi kịch trong Hamlet :
II.1 . Bi kịch xã hội :
a. Mâu thuẫn xã hội thời đại :
Sự phản ánh hiện thực xấu xa của xã hội :
- Vào cuối thời kỳ thống trị của nữ hoàng Elizabeth, các thế lực phong kiến đua nhau
tranh quyền đoạt lợi, giai cấp tư sản mới vươn lên nhưng nhu nhược, đời sống nhân
dân cơ cực, chịu sự áp bức bóc lột nặng nề của các thế lực phong kiến
=> Shakespeare đã vẽ bức tranh xã hội bằng ngôn từ uất ức đau khổ nhưng tràn đầy
niềm hy vọng và niềm tin ngoan cường, bất khuất.
- Mở màn cho một thời đại đảo điên tan tác với sự xung đột giữa tin tưởng và hồi
nghi đó chính là tác phẩm Hamlet.
+ Chàng hoàng tử Hamlet đơn thân độc mã phải gánh lấy một trọng trách nặng nề là
phải tìm ra nguyên nhân cái chết của cha và sự tái giá vội vàng của mẹ.
+ Hamlet vô cùng đau khổ khi phải sống trong sự hồi nghi cơ đơn trước một xã hội
bất thường đang bị che giấu.
+ Cha chết, nỗi đau bất hạnh cịn chưa hết thì mẹ lấy chồng không một câu an ủi. Lấy
ai? Lấy chú ruột của chàng: “Gót dày đưa tang chưa kịp mòn đã vội leo lên giường
cưới”.
b. Sự suy tàn của chủ nghĩa Phục Hưng :
- Chính những điều kiện lịch sử xã hội thời đại Phục hưng đã sinh ra tấn bi kịch
Hamlet:
5
+ Là thời đại sụp đổ của những quan hệ gia trưởng, nhờ thế cá nhân và trí tuệ được
giải phóng.
+ Là thời đại bắt đầu hình thành chủ nghĩa tư bản, nhân loại chuyển qua một kỉ
nguyên thống trị của những thế lực mới, trong đó có khơng biết bao nhiêu là sự đểu
cáng, tráo trở.
Nguyên nhân xã hội của cái bi trong Shakespeare xuất phát từ bản chất xã hội của
thời đại ấy. Đó là một hình thái xã hội bất công - Chủ nghĩa phong kiến được thay tế
bằng hình thái xã hội bất cơng khác - Chủ nghĩa tư bản (A.Anixt)
-> Tuy là bước ngoặt tiến bộ vĩ đại nhất mà từ trước đến bây giờ mà lồi người chưa
nhìn thấy" (Engels) Nhưng thời đại Phục Hưng là giai đoạn mở đường cho kỷ nguyên
tư bản chủ nghĩa ở Tây Âu, kỷ nguyên của bước tiến lớn lao nhưng cũng đồng thời là
kỷ nguyên của áp bức bóc lột cơng khai và trắng trợn nhất,
- Sự xung đột giữa tin tưởng và hoài nghi là một hiện tượng có nội dung lịch sự của
thời đại Phục Hưng.
+ Là sự phản ánh hai mặt huy hoàng và đen tối của chủ nghĩa tư bản ngay từ lúc nó
đang sinh thành và trên đà phát triển.
-> Giữa xã hội như vậy thì Hămlet ln ln hồi nghi và sự hồi ghi đó là có cơ sở.
Vì vậy vở kịch mang tính chất bi kịch.
=> Cái bi mang ý nghĩa "tích cực tiến bộ"
- Cái bi trong bi kịch vua Hămlet trước hết là do nguyên nhân lịch sử gây nên.
+ Lịch sử chưa tiếp nhận cái lý tưởng mà Hămlet đấu tranh cho nó.
+ Lý tưởng của Harnlet là một yêu cầu tất yếu của con người nhưng thời đại chàng thời đại phục hưng, chưa có khả năng thực tế thực hiện u cầu đó.
=> Chính vì cái mâu thuẫn lý tưởng cao quý và khả năng không thể thực hiện được là
cái gây nên cái bi của vở kịch
* Trong hoàn cảnh xã hội đầy rẫy những rối ren, phức tạp , Hamlet vẫn khẳng định
được lý tưởng của bản thân, lý tưởng anh hùng. Nhân vật Hamlet không chỉ quan tâm
đến nghĩa vụ trả thù và ngai vàng mà quan tâm hơn hết đến phẩm giá, lẽ sống và lối
sống con người.
- Lý tưởng anh hùng được xem là lý tưởng thẩm mỹ của thời đại :
+ Coi thường sống chết, xông lên hàng đầu, chiến đấu dũng cảm và lập được những
chiến công vô cùng hiển hách để lưu danh hậu thế => đó là khát vọng lý tưởng của
người anh hùng thời đại.
+ Như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, tạo nên khí thế hào hùng, khơng
khí say sưa bay bổng, nuôi dưỡng tâm hồn nhân vật, và nâng họ lên ngang hàng với
thần thánh.
+ Xuất hiện để đại diện cho một tập thể, một lãnh thổ, sẵn sàng đối mặt với những
sóng gió để lập nên những chiến công lưu danh muôn thuở, để đưa bộ lạc của mình
đến một chân trời mới, đó chính là những đứa con ưu tú của bộ lạc.
6
- Nhìn chung, Hamlet khơng hành động. Nói đúng hơn, Hamlet khơng thực hiện kế
hoạch hành động do mình vạch ra
=> Ý nghĩa sâu sắc của vở kịch chính là ở đó
3.2. Bi kịch gia đình :
* Mối quan hệ gia đình :
- Cái chết đột ngột của vua cha, sự tái giá vội vàng của mẹ với chú ruột -> Khơi lên
biết bao mối nghi ngờ, đau khổ trong tâm tư chàng.
- Cái đám cưới quá gấp gáp vội vàng của của mẹ chàng với chú ruột -> Nghi ngờ về
nguyên nhân gây ra cái chết đột ngột của cha chàng; hồi nghi về tình u cũng như
sự thủy chung của người phụ nữ nói chung.
- Cuộc hơn nhân vội vàng giữa mẹ và chú ruột nếu như theo đạo lý xưa thì đó là
chuyện loạn ln khơng thể chấp nhận được -> bây giờ họ lại cho chuyện đó là
chuyện bình thường.
+- Cả mẹ lẫn chú chàng đều nhởn nhơ đắc ý, vui vẻ trong yến tiệc linh đình, trong
những lạc thú loạn ln. Khơng những thế họ còn khuyên chàng nên vứt bỏ bộ mặt
rầu rĩ đau thương mà tận hưởng lạc thú ở cõi đời như họ
3.3. Bi kịch cá nhân :
a. Bi kịch của một cá nhân cô độc :
- Hamlet rơi vào bi kịch không do những mâu thuẫn trong tâm hồn chàng mà một
phần cũng chính là tình trạng bất lực của Hămlet.
+ Chàng nói "cứ để cho việc xảy ra, xảy ra đi."
+ Chàng thiên về tư duy, truy tìm sự thật chân lý vừa hoài nghi, lại bi quan, cho nên
Hamlet càng ngày lún sâu vào mâu thuẫn khơng lối thốt, không thể nào giải quyết
được, cuối cùng chàng phải chết cái chết do kẻ thù sắp trước.
=> Shakespeare muốn thể hiện Hămlet là người hùng "anh hùng cô đơn."
b. Bi kịch của một con người trí tuệ :
- Chàng là một con người rất thơng minh.
+ Trí thơng minh buộc chàng phải suy nghĩ để lý giải mọi vấn đề. Chàng khơng bằng
lịng với những cách nhìn nhận, lý giải sẵn có.
+ Nhờ thơng minh nhạy cảm chàng đã khám phá và phát hiện ra chân lý và sự thật.
-> Gây nên nỗi khổ và đà đến tấm bi kịch trong tâm hồn chàng; là sự xung đột mâu
thuẫn giữa khổ đau thì vơ lại mà khả năng giải quyết thì q ít.
=> Hamlet càng chìm ngập trong suy tư chàng càng thêm đau khổ. Tâm trạng hoài
nghi bi quan chán nảy sinh và khơng ngừng dằn vặt chàng
- Trí tuệ giúp Hamlet hiểu thấu mọi mâu thuẫn và sự lạc điệu của cuộc đời, nhưng trí
tuệ cũng dẫn Hamlet tới những triết lý hết sức đắng cay, đau đớn. Hamlet mạnh ở chỗ,
chàng đã thấy được, hiểu được những mâu thuẫn của thực tại và chàng đau khổ vì sự
lạc điệu của đời sống.
7
=> Đó là một trí tuệ thức tỉnh q sớm, một trí tuệ quằn quại trong đớn đau giữa một
thực tại thù địch với nó: thực tại ảm đạm của thời tư bản sơ khai.
=> Hamlet hiểu rõ đến chân tơ kẽ tóc cái thế giới đang vây bủa quanh mình. Trí tuệ
của Hamlet thấm rất sâu vào thế giới ấy. Sau khi phân tích kĩ thực tại, Hamlet rút ra
những kết luận hồn tồn vơ vọng. Hamlet cho rằng, dù có giết vua mới, trả thù thật
đích đáng với tội ác của y thì cũng khơng giải quyết được vấn đề gì.Hamlet là con
người trí tuệ, một trí tuệ ln ln phân tích và suy nghĩ
- Nỗi đau của chàng không ngừng lớn dần lên bởi chàng là người thông minh nhạy
cảm. Hamlet luôn luôn muốn khám phá, phát hiện chân lí mà khơng bằng lịng với
những cách nhìn và lí giải có sẵn. Trí tuệ cũng là một nỗi khổ, nhờ nó chàng nhận ra
độ chênh lệch giữa thực tiễn và khả năng của bản thân.
c. Mâu thuẫn trong nội tại bản thân nhân vật :
- Cái bi trong bi kịch của Hămlet cịn do tính cách của chàng. Bi kịch của Hamlet
không phải là bi kịch của cá nhân đối với xã hội mà còn là bi kịch trong tâm hồn nhân
vật.
Thứ nhất, Hamlet vừa là một con người tràn đầy niềm tin tưởng, vừa mang
nặng mối hoài nghi. Tin tưởng vào con người và khả năng của con người với
vẻ đẹp của lý trí
Hồi nghi về cuộc đời “ Bẩn thỉu thay là đời, ôi, bẩn! bẩn! Thật là một vườn
hoang mọc lên từ những hạt giống độc, đầy những rác rưởi thối tha”
Thứ hai, Hamlet vừa là một con người hành động, vừa là một con người suy tư.
Cùng mang một mối thù giết cha, nếu như Laerteur chỉ biết báo thù, thì ngoài báo thù
ra Hamlet lại càng băn khoăn nhiều vấn đề về sự thật, đạo lí, con người, phẩm hạnh,...
=> Từ nỗi khổ của mình, Hamlet cịn ý thức nhìn rộng ra về nỗi khổ của nhân loại. Vì
thế mà hành động của chàng không đơn thuần mang ý nghĩa báo thì cá nhân mà có ý
nghĩa như một sự thực công lý thời đại.
- Hamlet rơi vào bi kịch do những mâu thuẫn bên trong bản thân chàng.
+ Chàng là hiện thân của sự đau khổ về tâm hồn.
+ Không chỉ đau khổ bởi thực tế phũ phàng xảy ra trong gia đình chàng mà chàng cịn
đau khổ cho xã hội.
-> Những giá trị tốt đẹp đang bị ăn mòn tàn phá bởi cái xấu xa tàn ác.
+ Một con người khổ vì trí tuệ :
·
Trí thơng minh buộc chàng phải suy nghĩ để lý giải mọi vấn đề.
·
Chàng khơng bằng lịng với những cách nhìn nhận, lý giải sẵn có
=> Hamlet càng chìm ngập trong suy tư chàng càng thêm đau khổ. Tâm trạng hoài
nghi bi quan chán nảy sinh và không ngừng dằn vặt chàng
- Hamlet day dứt tự mổ xẻ mình, đấu tranh với chính bản thân mình, và sau cùng
chàng mới quyết định hành động, chàng đã phải hy sinh cho sự chần chừ của mình.
+ Nếu như Hamlet giết Claudius giữa lúc hắn đang cầu nguyện thì hành động đó
khơng đẹp, khơng phù hợp với lý tưởng nhân văn chủ nghĩa
8
=> Chính cái do dự chần chừ này mới làm nên cái cao thượng của Hămlet.
=> Không phải chàng do dự chần chừ vì thiếu dũng cảm mà chàng nghĩ đến việc mình
làm có đúng khơng.
+ Claudius đang cầu nguyện trong Nhà Thờ. Có phải chăng trước Thiên Chúa tối cao
hắn đang ăn năn hối lỗi về tội mình làm? Phải chăng hắn nhận ra cái sai của mình và
muốn hối cải đền tội?
=> "Đánh kẻ chạy đi chứ ai nở đánh kẻ chạy lại" và Hamlet không giết hắn có lẽ vì
chàng nghĩ vậy chăng ? Chàng khơng giết hắn vì nghĩ đến sự "hồn lương" trong con
người của hắn ?
=> Hơn nữa chàng do dự chần chừ vì lâm vào một tình trạng khơng thể nào giải quyết
được một vấn đề lịch sử : giết Claudius thì lịch sử sẽ đi đến đâu, sẽ vào tay ai?
d. To be or not to be (tồn tại hay không tồn tại) :
Câu nói này lần đầu tiên xuất hiện trong hồi III, cảnh I của vở kịch “Hamlet” được
Shakespeare viết vào năm 1603. Lúc này hoàng tử xứ Đan Mạch đang băn khoăn giữa
sự sống và cái chết. Sống thì sẽ phải sống như thế nào khi mà cuộc đời là: the sea of
troubles – the slings and arrows – the thousand natural shocks (một biển trời rắc rối những ná bắn và cung tên – và hàng ngàn những cú sốc).
Nhưng chàng cũng chẳng mấy chắc chắn về những gì sẽ đến sau khi chết: the dread of
something after death (những nỗi khiếp đảm ngay sau cái chết). Hamlet băn khoăn
khơng biết phải làm gì trong lúc này nên mới đặt ra câu hỏi “To be or not to be”.
“Sống hay khơng sống” có nghĩa là chịu đựng hay vùng lên đấu tranh để giành được
tự do và có được cuộc sống đích thực.
Đó là "sự nghiền ngẫm đầy cảm quan bi kịch" rất sâu sắc do nội dung triết học
của nó về sự lựa chọn đường đi nước bước trong cuộc đời. Cho nên thực chất
của vấn đề "sống hay không sống" là phải sống như thế nào? "Không sống"
đồng nghĩa với "chết", nhưng tại sao Hămlet khơng "chết". Vậy khơng sống là
gì? Là sống mà khơng ra sống, sống không xứng đáng với danh hiệu là con
người, sống nhục sống hèn là "không sống".
Không phải ngẫu nhiên mà Shakespeare để Hamlet băn khoăn nhiều về ý nghĩa
của sự sống và cả cái chết.
+ “Chết”, theo Hamlet, “là ngủ. Không hơn”. Tuy nhiên những ai chọn cái
chết khi chưa thực hiện xong nghĩa vụ (tranh đấu cho lẽ phải) trên đời thì cũng
sẽ khơng có được giấc ngủ bình yên, “Vì, trong giấc ngủ của cõi chết ấy, khi ta
đã thoát khỏi cái thân xác trần tục này, những giấc mơ nào sẽ tới, điều đó làm
ta phải ngừng lại mà suy nghĩ. Chính điều đó gây ra bao tai họa cho cuộc sống
dằng dặc này”. Cũng cịn một kiểu chết nữa, tuy Hamlet khơng trực tiếp nói rõ
nhưng ta vẫn hiểu, “Con người cịn có ra gì, nếu đem tất cả phần tinh túy và
giá trị của đời mình vào việc ăn, việc nghỉ? Chỉ là con vật, không hơn. Thật
thế”. Do vậy con người cần phải sống.
9
+ Sống đồng nghĩa với hành động vì lẽ thiện, “Sống, hay khơng nên sống – đó
là vấn đề. Chịu đựng tất cả những viên đá, những mũi tên của số mệnh phũ
phàng, hay là cầm vũ khí vùng lên mà chống lại để mà tiêu diệt chúng đi, đằng
nào cao quý hơn?”. Lẽ tất nhiên, Hamlet sẽ chọn con đường “cầm vũ khí vùng
lên”. Trong q trình đánh giá thực tế và xác định thực tế đã gây ra trong tâm
hồn Hamlet những phút đau đớn, bi quan, hoài nghi, do dự, những phút trăn
trở.
- Từ đau khổ của riêng mình Hamlet nhìn rộng ra xã hội và thế giới.
Hamlet : đau nỗi đau chung của con người thời đại mình “một thời đại
đảo điên tan tác ” đã biến “ Đan Mạch thành một ngục thất ghê tởm” và “
biến cả thế giới” thành “ một nhà tù đen tối ”, “phải hàng vạn người mới
nhặt ra một kẻ lương thiện”. Xung đột chính là xung đột nội tâm của
Hamlet: Nội tâm Hamlet phát triển sâu sắc dần theo diễn biến kịch. Từ
niềm tin mãnh liệt vào con người -> hoang mang, đau đớn trước sự đỗ vỡ
xã hội, con người -> hoài nghi chán nản -> Hamlet dần xác định nhận
thức được thế giới có lại niềm tin, nghị lực chống lại cái ác, cái xấu =>
Xung đột phức tạp của nội tâm Hamlet là hạt nhân thành công của vở bi
kịch.
Và bây giờ Hamlet vẫn phải trả lời câu hỏi: “sống hay không sống ?” . Đây
cũng được coi là bi kịch lớn nhất , trăn trở nhất của chàng Hamlet
4. Thế giới nhân vật trong Hamlet :
Thế giới nhân vật trong Hamlet thật phong phú :
Bất kỳ nhân vật xuất hiện nhiều hay ít, ở đâu chúng ta cũng nhìn thấy những con
người rất độc đáo và điển hình: Claudius, chú ruột của Hamlet là một kẻ nham hiểm,
miệng ngồi ln ln đường mật mà bụng dạ gươm dao; Pôlôniut, một lão già ti tiện,
giả dối lại nghiêm khắc và độc đốn, tính hay giễu cợt mà xiểm nịnh, sâu cay;
Giectrut, một người đàn bà yêu con nhưng sa ngã, nhẹ dạ, yếu đuối; Ôphêlia, một
người con gái có trái tim chung thủy, nhưng lại sợ lễ giáo, cường quyền; Hôraxiô, một
thư sinh lúc nào cũng nói giọng học thức, một người bạn trung thành và dũng cảm;
Ơxric, một vai khơng quan trọng gì nhưng cũng được vẽ rất rõ nét, khiến người xem
thích thú liên tưởng đến bao nhiêu kẻ khác như hắn, đần độn, bất tài, kiểu cách chỉ
nhờ giàu sang mà leo được thang danh vọng.
Thế giới ấy, đại để ta có thể chia làm hai kiểu: tốt và xấu. Người tốt ít, kẻ xấu
nhiều. Đặc biệt là người tốt thì chưa cực tốt như nhân vật của Victor Hugo
(Quasimodo; Jean Valijean...), con người xấu thì chưa đến mức thậm tệ như
các con gái của lão Goriot (Balzac) hay vua Lear... Bản than Hamlet, tinh túy
của Phục hưng, cũng vẫn gợi vài hạt sạn trong hành động, tâm hồn: vờ điên từ
bỏ Ophelia, tráo thư bảo vua Anh giết Rosencrantz và Guildenstern... Trong
10
khi đó, nhân vật được xây dựng đối lập với Hamlet là Claudius thì chưa hẳn
hồn tồn xấu.
Nếu Hamlet được Ophelia hết lời ca ngợi và chính Claudius cung phải thừa nhận vị trí
của chàng trong lịng dân chúng, “ bọn dân ngu đần kia tin yêu y lắm’ ,“Ta khơng thể
cơng khai kết tội y vì y được bọn dân ấy rất kính u” Thì trái lại trong mắt Hamlet,
Claudius là “một thằng sát nhân, một gã đê tiện, một tên vô lại (...) Một tên vua hề,
một thằng ăn cắp ngai vàng và quyền uy, xoáy trộm vương miện trên giá cao đút vào
túi áo”. Tuy thế Shakepeare không để Claudius tuyệt đối táng tận lương tâm, bất chấp
mọi đạo lý ở đời. Nếu Hamlet luon dằn vặt về trách nhiệm của mình thơng qua hàng
loạt độc thoại thì Claudius cũng dằn vặt về tội lỗi của mình trong độc thoại, “Than ôi,
tội ác của ta thật thối tha dơ bẩn, tội ác thấu tận trời xanh! Cầu nguyện sao đâu dù ý
muốn của ta vô cùng mãnh liệt, nhưng tội ác còn mạnh hơn lại ngăn cản ta (...) Tha
thứ sao được, một khi ta còn giữ nguyên trong ta tất cả những gì mà vì chúng, ta đã
phạm tội: ngai vàng, lòng tham của ta và Hoàng hậu” (tr.119). Giống Hamlet,
Claudius phát hiện ra “cõi đời hủ bại thối nát này” đầy rẫy những xảo trá và tiền có
thể chi phối được hết thảy, “bàn tay trả vàng của kẻ sát nhân có thể đẩy lùi được thần
cơng lý, và thường thì phi nghĩa lại mua được cả luật pháp (...). Làm sao bây giờ? Cịn
gì nữa? Ta thử hối hận xem sao (...) Ôi, khốn nạn! Lương tâm ta đen như cõi chết.
Linh hồn ta sa cơ, vướng mắc sa cơ. Thiên thần ôi! Hãy thử cứu vớt ta, hãy giúp cho
ta cầu nguyện! Hãy thử quỳ xuống đi, đôi gối bướng bỉnh này”. Những điểm khác cơ
bản giữa Hamlet và Claudius là ở ở chỗ: Hamlet băn khoăn về việc hành động hay
không hành động, hành động theo cách nào và sống làm sao cho đúng nghĩa con
người... Claudius thì chỉ phân nghĩa, Claudius đã là một tên vô lại nhưng kẻ vô lại cịn
sợ Chúa, sợ đạo lí cuộc đời. Kết thúc chuỗi đọc thoại trên y vẫn hy vọng được cứu rỗi,
“mọi việc may ra cịn có phương cứu chữa”.
Thế giới nhân vật Hamlet có thể được định danh là kiểu con người ý thức. Dẫu
tốt hay xấu, họ cũng đều hiểu rõ xã hội Phục hưng càng phát triển càng bộc lộ
nhiều điểm bất cập. Biện pháp chế ngự nó, đối với họ quả thật là khó. Dẫu sao
con người trong Hamlet, tận sâu thẳm tâm hồn, vân lưu giữ được chút gì đó nhân
phẩm. Nghệ thuật xây dựng nhân vật theo kiểu này và để tâm lí, hành động phát
triển theo logic khách quan của nó được Carl Marx gọi là Shakepeare hóa và
khuyên các nhà soạn kịch Đức bắt chước theo.
Phục hưng là giai đoạn một đi không trở lại của nhân loại và năm 1601 khi
Shakepeare bắt tay viết Hamlet là thời điểm vận động đặc biệt của lịch sử để
sản sinh những con người đang trên bờ vực tha hóa, dần đánh mất đi lý tưởng
nhân văn cao cả. Ý thức được điều đó, Shakepeare tái hiện đủ kiểu bi kịch, bi
kịch người tốt lẫn bi kịch kẻ xấu. Trong đó bi kịch lớn nhất, sâu sắc nhất và ý
nghĩa nhất là bi kịch của chàng Hamlet.
III . Mối quan hệ giữa tác phẩm và tư tưởng thời đại Phục Hưng :
11
Shakespeare là một trong những ngôi sao tiêu biểu nhất của lĩnh vực văn học nghệ
thuật thời kì Phục hưng. Và tác phẩm Hamlet được sáng tác trong thời kì này, ít nhiều
cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi tư tưởng của thời kì đang diễn ra.
Tác phẩm “Hamlet” đã được Shakespeare đưa lên tầm bi kịch xã hội khi nhà
văn xây dựng nhân vật Hamlet hội tụ đầy đủ các yếu tố: là một Hồng tử thơng
tuệ, có “một tâm hồn cao quý (…). Đôi mắt của nhà thông thái, thanh gươm
của trang hiệp sĩ; miệng lưỡi của người hào hoa, niềm hi vọng, đóa hồng tươi
của quốc gia gấm vóc, gương sáng của thời trang, kiểu mẫu của mọi người”.
Từ đây ta có thể thấy, Hamlet là hình mẫu lí tưởng của thời đại, hội tụ đủ mọi tố chất
của một “con người Phục hưng” – một con người ln đi tìm giá trị sống đích thực và
ln phải đấu tranh cho giá trị đó. Con người ấy phải chạy đua với sự phơi bày thối
nát của xã hội lúc bấy giờ, phải đấu tranh kịch liệt. Ở tác phẩm, Shakespeare đã thể
hiện sự trân trọng, đề cao con người trái ngược với thái độ, nhân sinh quan thời Trung
cổ là hạ thấp, coi rẻ, miệt thị con người, thể hiện tư tưởng của chủ nghĩa nhân văn thời
Phục hưng.
Trong “Hamlet” có sự xung đột giữa sự tin tưởng và hồi nghi – đây là một hiện
tượng có nội dung lịch sử của thời đại Phục hưng - là sự phản ánh hai mặt huy hoàng và
đen tối của chủ nghĩa tư bản ngay từ lúc nó đang sinh thành và trên đà phát triển. Ngoài
thể hiện tư tưởng và cái nhìn tiến bộ của thời đại Phục hưng thì ở Hamlet, cái hài lại
được dùng để khóc cho sự suy tàn của lí tưởng nhân văn Phục hưng.
- Shakespeare tiếp nhận thời kỳ Phục hưng theo những cách sau:
Shakespeare đã tiếp thu phong cách viết đơn giản, hai chiều của kịch thời kỳ
tiền Phục hưng. Tập trung vào việc tạo ra những “nhân vật con người có tâm lý
phức tạp”. Hamlet có lẽ là ví dụ nổi tiếng nhất về điều này.
Sự biến động trong hệ thống phân cấp xã hội cho phép Shakespeare khám phá
sự phức tạp và tính người của mọi nhân vật, bất kể vị trí xã hội của họ. Ví dụ
ngay cả những vị vua cũng được miêu tả là có cảm xúc của con người và có
khả năng mắc sai lầm khủng khiếp “King Lear và Macbeth” .
Shakespeare đã đưa kiến thức của mình về các tác phẩm kinh điển của Hy Lạp
và La Mã khi viết các tác phẩm kịch của mình . Trước thời kỳ Phục hưng,
những văn bản này đã bị Nhà thờ Công giáo đàn áp.
- Ngày nay, trong văn học thế giới vẫn tồn tại khái niệm “bệnh Hamlet”
thiên về tâm bệnh với thái độ suy tư, xúc cảm với cuộc sống và thời cuộc lý
luận nhiều nhưng không đủ tin tưởng và dũng khí để hành động .
- Tác phẩm phản ánh được tinh thần của thời đại với sự khủng hoảng, bế tắc
của lý tưởng nhân văn chủ nghĩa. Trong sự bát nháo của hồn cảnh tư sản
Anh mới ra đời “mình đã tắm đầy máu”, một xã hội với “nhà tù”, “sự bẩn
thỉu”, “phải hàng vạn người mới nhặt ra được một kẻ lương thiện” vẫn lóe
sáng những hạt vàng của chủ nghĩa nhân văn.
12