Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn của tòa án nhân dân thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.99 KB, 40 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
======  ======

BÁO CÁO THỰC TẬP CHUYÊN ĐỀ

Hà Nội~2022

Mục Lục
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT..................................................................................3
1


LỜI NĨI ĐẦU...........................................................................................................4
MỞ ĐẦU...................................................................................................................5
1. Tính cấp thiết của báo cáo chuyên đề...............................................................5
2. Mục đích của báo cáo.......................................................................................6
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu.....................................................................6
4. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................6
5. Kết cấu của báo cáo..........................................................................................7
NỘI DUNG................................................................................................................ 7
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ
ÁN HÌNH SỰ.........................................................................................................7
1.1.

Khái niệm và ý nghĩa xét xử sơ thẩm............................................................7

1.1.1.

Khái niệm...............................................................................................7



1.1.2.

Đặc điểm................................................................................................9

1.2.

Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành......................11

1.2.1.

Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tịa án................................................11

1.2.2.

Những ngun tắc cơ bản trong q trình xét xử sơ thẩm....................15

1.2.3.

Chuẩn bị xét xử sơ thẩm.......................................................................22

1.2.4.

Những quy định chung về thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm..........25

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN..................29
2.1. Khái quát tình hình xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm tại tịa án nhân dân
thành phố Hà Nội từ năm 2016 đến năm 2020..................................................29
2.2. Thực trạng áp dụng bộ luật tố tụng hình sự trong xét xử sơ thẩm thông

qua một vài vụ án hình sự sơ thẩm....................................................................32
3.1. Đánh giá việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự trong việc xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự tại tịa án nhân dân thành phố Hà Nội..........................................33
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAP
CHẤT LƯỢNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ....................................35

2


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTHS
XHCN
HDXX
TAND
VKSND

Bộ luật tố tụng hình sự
Xã hội chủ nghĩa
Hội đồng xét xử
Tòa án nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân

3


LỜI CẢM ƠN
Sau ba năm học tập, nghiên cứu tại giảng đường Khoa Luật – ĐHQGHN và
được sự định hướng chỉ bảo và dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cơ tại Khoa thì mỗi
sinh viên đã đúc kết được cho bản thân một lượng kiến thức lý thuyết nhất định. Nếu
chỉ dừng lại ở việc học những kiến thức lý thuyết mà khơng có sự áp dụng trong

thực tế thì sẽ khó mà đạt được kết quả tốt nhất. Chính vì vậy, để chuẩn bị đầy đủ
hành trang vào đời một cách tốt nhất thì trong chương trình đào tạo của Khoa Luật
Đại học quốc gia Hà Nội đã tổ chức cho sinh viên khóa QH-2019 khóa thực tập tốt
nghiệp. Đây là một nội dung bắt buộc đối với sinh viên năm 3, là cơ hội vàng giúp
cho sinh viên làm quen và vận dụng được các kiến thức lý thuyết mình học được vào
trong thực tiễn ngành nghề Luật. Bên cạnh đó chương trình thực tập cịn tạo điều
kiện giúp cho sinh viên làm quen với những công việc liên quan đến ngành nghề
theo học nhằm củng cố lại kiến thức, trau dồi thêm được những kỹ năng mềm cần
thiết trong mơi trường làm việc để từ đó có thể trau dồi, hồn thiện bản thân hơn,
làm hành trang tốt cho những định hướng sau này của bản thân.
Thực hiện theo chương trình thực tập tại Khoa Luật đại học quốc gia đối với
sinh viên năm cuối thì em may mắn được quý cơ quan là tòa án nhân dân thành phố
Hà Nội tiếp nhận thực tập. Em xin chân thành cảm ơn Tòa án nhân dân thành phố
Hà Nội đã cho em một môi trường thực tập thực tế và chuyên nghiệp để em có thể
học tập cũng như bổ sung được nhiều những kỹ năng chuyên ngành và kỹ năng mềm
cho bản thân. Tất cả những điều mà em học tập được trong đợt thực tập này là
những hành trang quan trọng trong chặng đường sự nghiệp sắp tới.
Được sự phân công của Khoa luật đại học quốc gia Hà Nội, em được phân
công thực tập trong bộ mơn tư pháp hình sự với sự hướng dẫn của TS. Trần Thu
Hạnh, giảng viên bộ môn Tư pháp hình sự, người đã hướng dẫn em trong suốt quá
trình thực tập. Em cảm ơn sự hỗ trợ, giúp đỡ và hướng dẫn chi tiết và nhiệt tình của
cơ để em có thể hồn thành bài báo cáo thực tập của mình một cách tốt nhất.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới quý cơ quan tòa án nhân dân thành phố Hà
Nội, đã hỗ trợ giúp đỡ và tạo cho em một môi trường thực tập tốt để có cơ hội học
hỏi, tiếp cận và thực hành những kiến thức lý thuyết mà bản thân đã học được ở trên
trường.

4



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của báo cáo chuyên đề
Hà Nội là một trong những thành phố dẫn đầu cả nước có tốc độ phát triển
nhanh, mạnh về kinh tế nói riêng và các lĩnh vực khác nói chung nên đã đạt được
một số thành tựu đáng kể như: kinh tế tiếp tục tăng trưởng và ổn định, tình hình an
ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội được giữ vững, kỷ cương văn minh đơ thị có
nhiều tiến bộ.... Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, cũng đã nảy
sinh nhiều vấn đề tiêu cực, những sơ hở, thiếu sót, tồn tại, yếu kém và bất cập trong
quá trình quản lý khiến cho nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm có mơi trường này sinh,
phát triển. Theo báo cáo tại kỳ họp thứ 18, HĐND thành phố Hà Nội khóa XV,
Chánh án Tịa án nhân dân TP Hà Nội Nguyễn Hữu Chính cho biết, từ ngày 1-102019 đến hết ngày 30-9-2020, Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Hà Nội đã thụ lý
38.017 vụ án, giải quyết 34.157 vụ. Qua số liệu trên cho thấy mỗi năm các Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội phải giải quyết một số lượng lớn án hình sự nhưng nhìn
chung cơng tác xét xử vẫn đảm bảo đảng pháp luật, chất lượng xét xử ngày càng
được nâng cao hơn, góp phần vào việc đấu tranh phịng chống tội phạm, giữ gìn an
ninh trật tự trên địa bàn tỉnh.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong cơng tác nhưng hoạt động xét xử các vụ án
nói chung và các vụ án hình sự nói riêng của TAND thành phố Hà Nội vẫn cịn
những sai sót, vướng mắc như: vẫn cịn án bị hủy, thiếu sót trong việc thu thập
chứng cứ, vẫn còn hồ sơ quá hạn theo luật định, khi xét xử thẩm phán thiếu vô tư,
khách quan dẫn đến xét xử không đúng người, đúng tội.
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó Tịa
án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng
theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ chế độ, pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân,
góp phần đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm. Có thể nói đây là việc xét xử lần
thứ nhất (cấp thứ nhất) của quá trình giải quyết một vụ án hình sự. Do đó, địi hỏi
những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải tập trung trí tuệ giải
quyết vụ án một cách nhanh chóng, chính xác và có sức thuyết phục, đồng thời lại
phải tn theo những quy định của pháp luật.

Chính vì vậy, đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải nâng cao hơn nữa hiệu quả công
tác xét xử các vụ án hình sự, đặc biệt là ở giai đoạn xét xử sơ thẩm nhằm tìm ra
5


những giải pháp khắc phục những vướng mắc, hạn chế, giải quyết nhanh chóng, kịp
thời các vụ án hình sự, phịng và chống các loại tội phạm hình sự ngày càng gia tăng
và có tính phức tạp cao như hiện nay.
Để hiểu rõ thực trạng hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của TAND
thành phố Hà Nội trong thời gian qua, tìm ra những ưu điểm, hạn chế của hoạt động
này, xác định nguyên nhân dẫn đến những hạn chế và đề xuất giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng giải quyết án hình sự của Tịa án chính là lý do của việc nghiên cứu
đề tài “Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn
của tịa án nhân dân thành phố Hà Nội”.
2. Mục đích của báo cáo
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm tìm ra những giải pháp góp phần nâng cao
chất lượng xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tịa án nhân dân thành phố Hà Nội
hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu của báo cáo :
+ Làm sáng tỏ một số vấn đề lí luận về hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của
Tịa án nhân dân: khái niệm, đặc điểm hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự,
thẩm quyền xét xử sơ thẩm và nguyên tắc xét xử các vụ án hình sự của Tịa ánnhân
dân.
+ Đánh giá thực trạng hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tịa án nhân dân
thành phố Hà Nội thời gian qua.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự của Tịa án nhân dân thành phố Hà Nội.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Bài báo cáo tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận trong việc xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự của tịa án và đánh giá thực trạng hoạt động xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự của tịa án thơng quan một số vụ án.

4. Phương pháp nghiên cứu
Bài báo cáo được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận biện
chứng duy vật, vận dụng quan điểm về tư pháp và cải cách tư pháp của Đảng Cộng
sản và Nhà nước Việt Nam.
Báo cáo sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương
pháp phân tích, tổng hợp, thống kê từ pháp, so sánh, đối chiếu v,v..

6


5. Kết cấu của báo cáo
Ngoài phần mở đầu, kết thúc và danh mục tài liêu tham khảo thì phần nội
dung báo cáo gồm ba chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam hiên hành về xét xử sơ thẩm
Chương 2: Thực trạng áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng hình sự
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thơng qua thực tiễn tại Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ XÉT XỬ SƠ
THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1.

Khái niệm và ý nghĩa xét xử sơ thẩm

1.1.1. Khái niệm
Hiện nay ở hầu hết các nước trên thế giới, Tòa án là cơ quan chuyên biệt và

duy nhất được trao thẩm quyền xét xử. Hoạt động xét xử là việc xem xét, đánh giá
các chứng cứ để đưa ra các phán quyết có tính chất bắt buộc tại Tịa của những
người có thẩm quyền. Khi xem xét khái niệm xét xử, có nhiều quan điểm khác nhau.
Có quan điểm nhìn nhận khái niệm hoạt động xét xử tại Tòa theo nghĩa hẹp: "Xét xử
là hoạt động của Tòa án tại phiên tòa để xem xét các chứng cứ và căn cứ vào pháp
luật, xử lý vụ án bằng việc ra bản án và các quyết định của Tòa án" 1. Theo quan
điểm này, hoạt động xét xử chỉ được xem xét trong phạm vi là những hoạt động tại
phiên tòa của Tòa án. Tuy nhiên, với quan điểm nhìn nhận hoạt động xét xử theo
nghĩa rộng hơn thì: "Xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng nhiệm vụ của các
Tòa án. Các Tòa án là những cơ quan duy nhất của một nước được đảm nhiệm chức
năng xét xử, mọi bản án do các tòa án tuyên đều phải qua xét xử. Khơng một ai có
thể bị buộc tội mà khơng qua xét xử của các tòa án và kết quả xét xử phải được công
Xem: dong-xet-xu-anhinh-su-cua-toa-an-nhan-dan-cac-cap-nhin-tu-mot-dia- phuong/
1

7


bố bằng bản án". 2Điều này có nghĩa xét xử là hoạt động chính và chủ yếu của Tịa
án, theo đó hoạt động này sẽ bao gồm nhiều giai đoạn mà hoạt động tại phiên tòa chỉ
là một giai đoạn trong chuỗi các giai đoạn của quá trình xét xử. Và “sản phẩm" đặc
trưng, riêng biệt, chỉ hình thành thơng qua hoạt động xét xử là bản án. Việc nhìn
nhận hoạt động xét xử của Tòa án theo nghĩa rộng được áp dụng phổ biến hơn và là
quan điểm được sử dụng để triển khai nội dung đề tài này.
Hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tịa án giữ vai trị quan trọng và chủ yếu
trong tồn bộ hoạt động xét xử của Tòa. Thực hiện việc xét xử vụ án hình sự thể
hiện rõ nét nhất tính quyền lực cũng như tính phải chịu trách nhiệm từ các quyết
định được ban hành của Tòa án.
Thực tế hiện nay khái niệm vụ án hình sự chưa được quy định cụ thể trong
một văn bản quy phạm pháp luật nào. Theo Từ điển luật học thì vụ án hình sự được

hiểu là vụ việc phạm pháp có dấu hiệu là tội phạm đã được quy định trong Bộ luật
hình sự đã được cơ quan điều tra ra lệnh khởi tố về hình sự để tiến hành điều tra,
truy tố, xét xử theo các trình tự, thủ tục đã được quy định ở Bộ luật tố tụng hình sự.
Người vi phạm pháp luật đã bị khởi tố về hình sự để tiến hành điều tra, truy tố, xét
xử theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự tức là can án hình sự sẽ bị áp dụng
một số biện pháp do luật quy định như phải khai cung, phải có mặt tại nơi và vào
thời gian do các cơ quan tiến hành tố tụng - Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tịa án
quy định, có trường hợp bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế như tạm giam, khảm
nhà, v.v... Có thể bị phạt tù, bị cấm hành nghề nếu qua xét xử Tòa án đã đủ chứng
cứ chứng minh là phạm tội và ra quyết định bằng một bản án hình sự. Khái niệm này
phù hợp với quan điểm nhìn nhận hoạt động xét xử của Tòa án theo nghĩa rộng. Tuy
nhiên việc chưa đưa khái niệm vụ án hình sự vào một văn bản quy phạm pháp luật
cụ thể gây nhiều khó khăn cho thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án khi xác định
phạm vi thẩm quyền cũng như khi trực tiếp giải quyết vụ án cụ thể.
Hiện nay, trong pháp luật quốc tế cũng như các quốc gia đều thực hiện
nguyên tắc hai cấp xét xử khi thực hiện hoạt động xét xử, đó là xét xử sơ thẩm và
phúc thẩm. Tức là khi vụ án mà bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật của Tịa án bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định được Toà án
cấp trên trực tiếp xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Nguyên tắc hai cấp xét xử được
tổ chức thực hiện bằng các quy định cụ thể của thủ tục tố tụng trong pháp luật tố
Xem: các-quy-dinh-cua-boluat-to-tung-hinh-su-ve-xet-xu-so-tham-cac-vu-an-hinh-su/
2

8


tụng của mỗi quốc gia. Thủ tục tố tụng quy định càng chính xác thì ngun tắc này
cảng phát huy hiệu quả của nó trong bảo đảm xét xử đúng đắn, khách quan vụ án và
bảo vệ có hiệu quả các quyền tự do dân chủ của công dân, đặc biệt là của những
người tham gia tố tụng. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là cấp xét xử đầu tiên cũng

được ghi nhận là giai đoạn đầu tiên của hoạt động xét xử, trong đó Tịa án có thẩm
quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, bản án, quyết định tố tụng theo quy định
của pháp luật, Hoạt động xét xử sẽ dừng tại giai đoạn này nếu như bản án, quyết
định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật và khơng bị kháng cáo, kháng nghị. Nói cách
khác, xét xử sơ thẩm là một cấp xét xử nhưng đồng thời cũng là một giai đoạn xét
xử không thể thiếu của hoạt động xét xử của Tòa án.
Như vậy hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án là hoạt động
được tiến hành tại giai đoạn đầu của q trình xét xử trong đó. Tịa án có thẩm
quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra hán án quyết định tổ tung theo quy
định của pháp luật. Đây là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, do Tòa án tiến
hành theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm chứng minh tội
phạm, định tội, định hình phạt cho người phạm tội để trừng trị người phạm tội, giáo
dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, ngăn ngừa
họ phạm tội mới bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa
đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm.
1.1.2. Đặc điểm
Hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tịa ăn vừa mang những đặc
điểm chung của hoạt động xét xử vừa có những đặc điểm đặc thù riêng.
Thứ nhất, hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tịa án là hoạt động
mang tính quyền lực nhà nước. Điều này được thể hiện ở việc Nhà nước thông qua
các văn bản pháp luật trao cho cơ quan tiến hành xét xử và người tiến hành xét xử
những quyền hạn để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong quá trình thực
hiện hoạt động xét xử, để giải quyết vụ án, Tòa án, các Thẩm phán, Hội đồng xét xử
được phép ban hành các văn bản tố tụng, các quyết định, bản án có tính chất bắt
buộc thi hành. Khi tuyên án hoặc ra quyết định nào đó, Hội đồng xét xử không phải
nhân danh các thành viên Hội đồng xét xử mà nhân danh Nhà nước để thực hiện
chức năng của mình. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham
9



gia tố tụng phải nghiêm túc chấp hành các văn bản này.Việc bảo đảm hiệu lực của
bản án và quyết định của Tòa án được coi là nguyên tắc cơ bản của tổ tụng hình sự
và được quy định tại Điều 28 BLTTHS 2015. Như vậy các bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tịa án trong các vụ án hình sự có cơ chế đảm bảo thi hành,
có tính cưỡng chế cao, thể hiện rõ dấu ấn quyền lực nhà nước.
Thứ hai, toàn bộ hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tịa án tuân
theo trình tự, thủ tục được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản
hướng dẫn thi hành.Hoạt động xét xử sơ thẩm nằm trong hoạt động tố tụng vì vậy
phải tuân theo các quy định về thủ tục tố tụng. Bên cạnh đó, hoạt động xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự có những thủ tục riêng khác với thủ tục xét xử phúc thẩm, giám
đốc thẩm và tái thẩm. Xét xử sơ thẩm được tiến hành tại giai đoạn đầu tiên của hoạt
động xét xử vì vậy có một số hoạt động đặc thù chỉ có tại giai đoạn này như việc xác
định thẩm quyền xét xử, chuẩn bị xét xử... Riêng hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm
chiếm vị trí quan trọng. Giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm bắt đầu từ ngày Tịa án
thụ lý vụ án hình sự và kết thúc khi Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa ra
một trong số các quyết định được quy định tại điều 277 BLTTHS năm 2015. Đây là
giai đoạn Tòa án giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của những người tham gia tố
tụng và tiến hành những việc khác cần thiết cho việc mở phiên tòa. Pháp luật quy
định cụ thể về thời hạn chuẩn bị xét xử và những trường hợp được gia hạn thời hạn
chuẩn bị xét xử (Điều 277 BLTTHS năm 2015). Việc quy định thời hạn phải đáp
ứng yêu cầu tạo thời gian hợp lý cho Tòa án nghiên cứu hồ sơ vụ án, xem xét việc
rút quyết định truy tố của Viện kiểm sát hoặc rút yêu cầu khởi tố của người bị hại
(nếu có) để ra một trong các quyết định theo Điều 277 BLTTHS năm 2015 đồng
thời không quá kéo dài, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người tham gia
tốtụng.
Hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự kết thúc khi Tịa án ra quyết định
định chỉ vụ án hoặc khi Tòa án ra bản án sơ thẩm. Bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực
ngay tại thời điểm tuyên án mà chỉ sau khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, nếu

khơng có kháng cáo, kháng nghị thì bán ăn mới có hiệu lực pháp luật. Tại giai đoạn
điều tra và truy tố, mặc dù cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng một số biện
pháp ngăn chặn như tạm giam, tạm giữ... Song, bị can, bị cáo chưa bị coi là người có
tội và chưa phải chịu trách nhiệm hình sự. Nhưng khi bản án sơ thẩm có hiệu lực
pháp luật, nếu bị cáo bị tuyên là có tội, họ buộc phải chấp hành hình phạt ghi nhận
10


trong bàn ăn. Vì vậy, có thể thấy, tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, các đương sự được
tạo điều kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình như được trình các
chứng cứ hợp pháp tại Tịa, được tranh tụng tại Tịa.... Trong khi đó, cơ quan tiến
hành tổ tụng và người tiến hành tổ tung có trách nhiệm tùy theo vị trí, vai trị của
mình để tìm ra sự thật của vụ án, chứng minh bị cáo là người có tội hay khơng có
tội. Có thể nói xét xử sơ thẩm được xác định như là một giai đoạn kết thúc của quá
trình giải quyết một vụ án hình sự.
Thứ ba, sự tham gia của Hội thẩm trong quá trình xét xử sơ thẩm. Một đặc
điểm riêng của hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tịa án là sự tham gia bắt
buộc của Hội thẩm nhân dân trong thành phần Hội đồng xét xử. Khi tham gia xét xử
ở cấp sơ thẩm. Hội thẩm chiếm đa số trong Hợi đồng xét xử (2/3 hoặc 3/5) và khi
xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán trong việc ra các phán quyết về vụ
án(Điều 254 BLTTHS năm 2015). Khi được phân công giải quyết vụ án, Hội thẩm
có các nhiệm vụ như: nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa, tham gia xét
xử các vụ án theo thủ tục sơ thẩm các loại vụ án (riêng đối với vụ án hình sự thì Hội
thẩm có thể tham gia xét xử theo thủ tục phúc thẩm trong trường hợp cần thiết), tiến
hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội
đồng xét xử. Hội thẩm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và
quyết định của mình. Việc tham gia của Hội thẩm nhân dẫn tại giai đoạn xét xử sơ
thẩm đảm bảo tỉnh "dân chủ" trong hoạt động xét xử, tăng cường mối quan hệ giữa
Tòa án và nhân dân, từ đó giúp đẩy mạnh q trình tun truyền, phổ biến pháp luật.
Bên cạnh đó, xét xử sơ thẩm yêu cầu phải đưa ra được những đánh giá, nhận định

toàn diện và khách quan nhất về vụ án. Sự tham gia của Hội thẩm nhân dân là một
trong những cơ sở để hoạt động xét xử đáp ứng được yêu cầu trên. Tuy nhiên, để
cho vai trò của Hội thẩm nhân dân trong thực tế đúng với tinh thần của các quy định
pháp luật thì phải tăng cường chất lượng cho đội ngũ Hội thẩm nhân dân, đảm bao
Hội thâm và Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
1.2.

Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành

1.2.1. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là phạm vi, giới hạn dựa trên cơ sự
phân định thẩm quyền xét xử giảm các loại, các cấp Toa án theo các tiêu chí (căn cứ
của Luật TTHS).

11


1.2.1.1. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc
Thẩm quyền xét xử theo sự việc là sự phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm
giữa các cấp Tòa án với nhau dựa trên căn cứ là tinh chất, mức đó của tội phạm
hoặc của vụ án. 3Tính chất mức độ của tội phạm phản ánh các dấu hiệu về chất và
lượng của tội phạm thông qua việc đánh giá của nhà làm luật ở việc phân loại tội
phạm. Theo quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi) tội phạm có bốn loại: tội phạm
ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng và quy định các loại, mức hình phạt tương ứng với từng loại tội
phạm. Dựa trên tiêu chí phân loại tội phạm này BLTTHS năm 2015 phân định thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện (huyện, quận, thị xã, thành
phố trực thuộc tỉnh), Tòa án quân sự cấp khu vực và Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa
án quân sự cấp quân khu.
Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử sơ thẩm những vụ án: (a) Vụ án hình sự về

các tội phạm khơng thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tịa án
qn sự khu vực, (b) Vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngồi hoặc tài
sản có liên quan đến vụ án ở nước ngồi, (c) Vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử
của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án qn sự khu vực nhưng có nhiều tình tiết
phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tinh chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp,
nhiều ngành, vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ
lãnh đạo chủ chốt ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành
phố trực thuộc trung ương, người có chức sắc trong tơn giáo hoặc có uy tín cao
trong dân tộc ít người (Điều 268 BLTTHS năm 2015).
Theo quy định này thì Tịa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ
thẩm những vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp huyện, Tòa án
quân sự khu vực và những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp huyện,
Tòa án quân sự cấp khu vực khi có một trong các dấu hiệu sau:
(i)

Những vụ án có yếu tố nước ngồi, như vụ án hình sự có bị cáo, bị hại,
đương sự ở nước ngồi hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước
ngồi. Yếu tố nước ngồi trong vụ án hình sự địi hỏi phải thực hiện
các hoạt động hợp tác quốc tế trong TTHS nên ngồi việc áp dụng

Nguyễn Ngọc Chí, Lê Lan Chi, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà
Nội, 2019, tr 429.
3

12


(ii)

pháp luật Việt Nam còn phải thực hiện theo quy định của các điều ước

quốc tế, các hiệp định về dẫn độ, tương trợ tư pháp mà Việt Nam là
thành viên hoặc phải áp dụng pháp luật nước ngoài khi giải quyết các
vấn đề của vụ án hình sự liên quan đến tài sản. Vì vậy, BLTTHS năm
2015 căn cứ vào vị trí, năng lực để giao cho Tịa án cấp tỉnh thẩm
quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có yếu tố nước ngồi.
Những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân
cấp huyện nhưng có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất
về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, vụ án
mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cản bộ lãnh đạo
chủ chốt ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc
thành phố trực thuộc trung ương, người có chức sắc trong tơn giáo
hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người. Đây là vụ án phức tạp, liên
quan đến nhiều ngành, nhiều địa phương hoặc bị cáo là những người
tiến hành tổ tung, những cán bộ chủ chốt ở cấp huyện cần phải để Tòa
án cấp tỉnh hoặc Toa an quân khu xét xử sơ thẩm nhằm bảo đảm tính
khách quan của vụ án, tránh sự anh hưởng của các quan hệ công tác
trước khi xảy ra vụ án

1.2.1.2. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo đối tượng
Thẩm quyền xét xử theo đối tượng là sự phân định thẩm quyền xét xử sơ
thẩm giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự chưa trên căn cứ là đối tượng phạm
tội (đặc điểm nhân thân của người bị cáo buộc phạm tội).4
Thẩm quyền xét xử theo đối tượng được BLTTHS năm 2015 quy định tại
Điều 272 nhằm phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm giữa Tòa án quân sự và Tòa
án nhân dân. Theo đó, Tịa án qn sự có thẩm quyền xét xử.
Thứ nhất, Tịa án qn sự có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là
quân nhân khi thực hiện bất kỳ tội phạm được quy định trong BLHS. Đó là vụ án
hình sự mà bị cáo là qn nhân tại ngũ, cơng chức, cơng nhân, viên chức quốc
phịng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng
sẵn sàng chiến đấu, dân quân, tự vệ trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc phối


Nguyễn Ngọc Chí, Lê Lan Chi, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà
Nội, 2019, tr 433.
4

13


thuộc với Quân đội nhân dân trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, công dân được
điều động. trung tập hoặc hợp đồng vào phục vụ trong Quân đội nhân dân.
Thứ hai, những vụ án liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hai quân
đội do người không phải qn nhân thực hiện. Đó là vụ án hình sự ma bị cáo không
thuộc đối tượng là quân nhân liên quan đến bị mật quân sự hoặc gây thiệt hại đến
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của quân nhân tại ngũ, cơng chức, cơng
nhân, viên chức quốc phịng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện
hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu hoặc gây thiệt hại đến tại san, danh dự.
uy tin của Quân đội nhân dân hoặc phạm tội trong doanh trại quân đội hoặc khu vực
quân sự do Quân đội nhân dân quân lý, bảo vệ.
Thứ ba, Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử tất cả tội phạm xảy ra trong địa
bản thiết quân luật. Đây là quy định mới của BLTTHS năm 2015 so với các
BLTTHS trước đó, nhằm cụ thể hóa tỉnh trạng thiết quân luật trong tình trạng khẩn
cấp của Hiến pháp năm 2013 trong lĩnh vực tư pháp.
Thứ tư, việc xét xử bị cáo phạm nhiều tội thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân
dân và Tòa án quân sự, Điều 273 BLTTHS năm 2015 quy định khi vụ án vừa có bị
cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự, vừa có bị cáo hoặc
tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tịa án nhân dân thì thẩm quyền xét xử được
thực hiện:
- Trường hợp có thể tách vụ án thì Tịa án qn sự xét xử những bị cáo và
tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự, Tòa án nhân dân
xét xử những bị cáo và tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án

nhân dân.
- Trường hợp khơng thể tách vụ an thì Tịa án qn sự xét xử tồn bộ vụ án.
Thứ năm. Tịa gia đình và người chưa thành niên xét xử các vụ án có bị cáo là
người dưới 18 tuổi hoặc người bị hại dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về
tâm lý hoặc cần hỗ trợ về điều kiện sống, học tập do khơng có mơi trường gia đình
lành mạnh như những người dưới 18 tuổi khác.
1.2.1.3.

Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo lãnh thổ

Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa các
Tòa án cùng cấp dựa trên căn cứ là nơi (địa điểm) tội phạm được thực hiện hoặc nơi
kết thúc điều tra.

14


Như vậy, thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ là sự phân định thẩm quyền xét xử
giữa các Tòa án cùng cấp dựa trên địa điểm thực hiện hành vi phạm tội hoặc địa
điểm thực hiện hành vi tố tụng của cơ quan, người tiến hành tổ tung hoặc địa điểm
khác do pháp luật quy định Điều 26, 270, 271 BLTTHS năm 2015 quy định thẩm
quyền xét xử sơ thẩm theo lãnh thổ như sau
a. Tịa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là Tịa án nơi tôi phạm được
thực hiện. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không
xác định được nơi thực hiện tội phạm thi Tịa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi
kết thúc việc điều tra.
b. Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở Việt Nam thi Tòa án nhân dân
cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước xét xử Nếu không xác định
được nơi cư trú cuối cùng ở trong nước của bị cáo thì tùy trường hợp, Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao ra quyết định giao cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc

Tịa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh hoặc Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng
xét xử.
c. Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tịa án
qn sự thì Tịa án quân sự cấp quân khu xét xử theo quyết định của Chánh án Tòa
án quân sự trung ương.
d. Tội phạm xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đang hoạt động ngồi khơng phân hoặc ngồi lãnh hải của Việt
Nam thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án Việt Nam nơi có sân bay hoặc bên càng
trở về đầu tiên hoặc nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký.
e. Khi bị cáo phạm nhiều tội, trong đó có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử
của Tòa án cấp trên thì Tịa án cấp trên xét xử tồn bộ vụ án.
1.2.2. Những nguyên tắc cơ bản trong quá trình xét xử sơ thẩm
1.2.2.1.

Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa

Dân chủ và pháp luật có vị trí tối thượng là hai yêu cầu cơ bản của một Nhà
nước pháp quyền. Vì vậy bảo đảm pháp chế XHCN là một trong những nguyên tắc
bao quát của tố tụng hình sự. Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 7 của
BLTTHS: Đây là nguyên tắc chỉ đạo, bao trùm nhất, được thể hiện trong tất cả các
hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung và trong hoạt động xét xử của Tồ án
nhân dân nói riêng. Có thể thấy nội dung của nguyên tắc này được thể hiện cả trong
các nguyên tắc tiếp theo của BLTTHS. Ví dụ, nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm
15


xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 23); nguyên tắc xác định sự thật của
vụ án (Điều 15)... Nguyên tắc bảo đảm pháp chế XHCN đặt ra yêu cầu cho các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng như sau:
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, những người tiến hành tố tụng.

những người tham gia tố tụng phải tuân thủ nghiêm chính các quy định của pháp
luật trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, từ các quy định của pháp
luật tố tụng đến các quy định của pháp luật về nội dung.
Bảo đảm mọi hành vi tố tụng, đặc biệt là các biện pháp cưỡng chế nhà nước
trong tố tụng phải được thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục, khơng
được làm những gì mà pháp luật tố tụng hình sự không cho phép, đồng thời không
được lần tránh những nghĩa vụ pháp luật bắt buộc phải thực hiện. Đó là nghĩa vụ
khởi tố vụ án, xử lý nghiêm minh tội phạm, bảo đảm các quyền của người tham gia
tố tụng, phối hợp với các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân trong
việc xác minh, xử lý tội phạm, người phạm tội.
Bảo đảm hoạt động kiểm tra, kiểm sát, giám đốc các hoạt động tố tụng, các
hành vi tố tụng một cách kịp thời, đúng đắn. Trường hợp phát hiện vi phạm pháp
luật trong quá trình tố tụng thì nhất thiết phải kịp thời hủy bỏ, khắc phục hậu quả
như đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, điều tra bổ sung, hủy bản án, trả tự do cho
Việc đảm bảo nguyên tắc pháp chế XHCN được thực hiện chặt chẽ từ cấp xét xử sơ
thẩm, tức là giai đoạn đầu của quá trình tố tụng sẽ giúp hoạt động xét xử được tiến
hành đúng pháp luật, xét xử đúng người, đúng tội, tránh án oan sai, tránh tình trạng
kéo dài quá trình tố tụng.
1.2.2.2. Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của cơng
dân.
Do đặc thù là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, có tính cưỡng chế
cao, có tác động trực tiếp tới việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của
công dân, hoạt động xét xử luôn phải đảm bảo việc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ
bản của cơng dân trong q trình tố tụng. Nguyên tắc này được quy định khái quát
tại Điều 8 BLTTHS năm 2015 được đặt ra cho cơ quan tiến hành tố tụng và người
tiến hành tố tụng. Theo Điều 13 BLTTHS năm 2015 thì: Khơng ai bị coi là có tội và
phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật.
Như vậy, dù là bị can, bị cáo nhưng khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật
của Tịa án thì đều có thể sử dụng các quyền hợp pháp của mình để chứng minh có
16



tội hay vơ tội. Vì vậy, tơn trọng và đảm bảo cho người tham gia tố tụng được thực
hiện đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình chính là điều kiện để cơ quan
tiến hành tố tụng. Người tiến hành tố tụng xác định được chính xác và nhanh chóng
sự thật của vụ án, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội. Việc tôn trọng và bảo vệ
quyền công dân được thể hiện trong các quy định: Bảo đảm quyền bình đẳng của
mọi cơng dân trước pháp luật, khơng phản biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn
giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo
pháp luật (Điều 9); Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của cơng dân
(Điều 10); Bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân
(Điều 11); Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an tồn và bí mật thư tín,
điện thoại, điện tín của cơng dân (Điều 12); Bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 16); Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là
tiếng Việt. Người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc
mình, trong trường hợp này cần phải có phiên dịch (Điều 29); Bảo đảm quyền được
bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự (điều 31), Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo
trong tố tụng hình sự (Điều 32).
Bên cạnh đó, cơng dân cũng có thể thực hiện quyền của mình một cách gián
tiếp thơng qua đại biểu dân cử: Giám sát của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử đối
với hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng (Điều 33).
1.2.2.3. Các nguyên tắc đảm bảo tính chính xác, khách quan trọng
hoạt động xét xử
Có thể nói tính chính xác, khách quan trọng hoạt động xét xử vụ án hình sự
của Tịa án là vô cùng cần thiết, vi chi khi đảm bảo được tính chất này, hoạt động
xét xử mới đi được đến tận cùng sự thật của vụ án. Việc đảm bảo tính chính xác,
khách quan được đặt ra với người tiến hành tố tụng trong từng giai đoạn của hoạt
động tố tụng. Xác định sự thật vụ án là nguyên tắc cơ bản cũng là tiêu chí, là mục
đích hướng tới của hoạt động xét xử. Nguyên tắc này được quy định tại Điều 15
BLTTHS năm 2015.

Việc xác định sự thật của vụ án phải được đảm bảo từ khâu đầu tiên của quá
trình tố tụng. Tuy nhiên, trong giai đoạn xét xử, nguyên tắc này càng cần được tuần
thủ và thực hiện triệt để. Vì việc buộc tội một người có tội hay vơ tội căn cứ vào bản
án được tuyên tại Tòa. Xác định sự thật vụ án là việc cơ quan tiến hành tố tụng phải
thu thập, xem xét, đánh giá các chứng cứ của vụ án một cách khách quan, toàn diện
17


nhất. Mặc dù trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố
tụng nhưng điều đó khơng có nghĩa những chứng cứ được thu thập và được xem xét
tại Tòa chỉ là chứng cứ buộc tội, đồng thời cũng không được áp đặt suy nghĩ chú
quan cho rằng một người vơ tội hoặc có tội để tiến hành thu thập chứng cứ. Dù là
chứng cứ chứng minh vơ tội hay chứng cứ chứng minh có tội, những tình tiết tăng
nặng hay giảm nhẹ... nếu có liên quan tới vụ án, có khả năng giúp cơ quan tiến hành
tố tụng xác minh được sự thật của vụ án thì đều phải được xem xét đầy đủ. Việc thu
thập chứng cứ cũng không chỉ do cơ quan điều tra tiến hành mà các cơ quan tiến
hành tố tụng khác, người tham gia tố tụng cũng có thể tự tiến hành thu thập chứng
cứ bổ sung. Khi xét xử, Hội đồng thẩm phán sẽ căn cứ vào các chứng cứ được trình
bày tại Tịa để quyết định: "Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa
điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi
phạm tội; có lỗi hay khơng có lỗi, do cố ý hay vơ ý; có năng lực trách nhiệm hình sự
hay khơng; mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị
can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.” (Điều 85
BLTTHS năm 2015).
Để thực hiện được nguyên tắc xác định sự thật vụ án, đảm bảo tính chính xác,
khách quan trong hoạt động xét xử, sự chí cơng vơ tư, sự khách quan của những
người “cầm cân nảy mực" là điều bắt buộc. Điều 21 BLTTHS năm 2015 quy định
nguyên tắc: Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc người tham gia tố
tụng. Sự không vô tư của người tiến hành tố tụng có thể xuất phát từ những quan hệ

của họ đối với những người liên quan tới vụ án, vấn đề này được quy định khá cụ
thế ở Điều 49, Điều 53, Điều 54 BLTTHS năm 2015. Có thể thấy bên cạnh những
mối quan hệ tình cảm có thể tác động tới quyết định của các Thẩm phán, Hội thẩm
và Thư ký Tòa án, việc họ đã tham gia với vai trò là người tiến hành tố tụng của
cùng vụ án tại một giai đoạn tố tụng trước đó cũng là căn cứ để khơng được đảm
nhận nhiệm vụ tiếp tục giải quyết vụ án. Điều này đảm bảo cho việc xem xét vụ án
được toàn diện và khách quan nhất, không bị ảnh hưởng của những quyết định và
phán đốn trước đó mà đưa ra những nhận định căn cứ trên chứng cứ trình bày tại
Tịa. Bên cạnh đó, nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật (Điều 17, Điều 19 BLTTHS năm 2015) vừa đảm bảo tính pháp chế
vừa đảm bảo tính chính xác, khách quan của hoạt động xét xử. Việc Tòa án xét xử
18


tập thể có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân khơng làm mất đi tính khách quan của
bản án, quyết định của Tịa.
Để đảm bảo tính chính xác, khách quan, xác định đúng sự thật vụ án và buộc
tội đúng người, việc xét xử được thực hiện qua hai cấp: xét xử sơ thẩm và xét xử
phúc thẩm. Điều 27 BLTTHS năm 2015 quy định khá cụ thể về vấn đề này, tuy
nhiên, không phải bất cứ vụ án nào cũng phải trải qua hai cấp xét xử. Việc xét xử
phúc thẩm chỉ được tiến hành khi có kháng cáo hoặc kháng nghị, nếu khơng có
kháng cáo, kháng nghị trong khoảng thời gian pháp luật quy định thì bản án sơ thẩm
sẽ có hiệu lực pháp luật. Bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật chỉ bị
xem xét lại khi phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới. Như vậy, nếu
trong quá trình xét xử sơ thẩm, cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng
tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật, tìm được và xem xét, đánh giá đầy đủ
các chứng cứ của vụ án một cách khách quan và chính xác nhất thì hoạt động tố tụng
sẽ không buộc phải kéo dài để tìm ra sự thật của vụ án.
Để đảm bảo tính chính xác, khách quan của hoạt động xét xử, việc kiểm tra,
giám sát phải luôn được thực hiện song hành với quá trình xét xử (Điều 33 BLTTHS

năm 2015).
Mặc dù có sự phân chia các nguyên tắc cơ bản thành từng nhóm khác nhau
nhưng giữa các nguyên tắc trong cùng nhóm và ở các nhóm khác nhau ln có mối
quan hệ thống nhất với nhau. Có thể thấy, những nguyên tắc đảm bảo tính chính xác,
khách quan của hoạt động xét xử thể hiện ca nội dung đảm bảo pháp chế XHCN và
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Vì thế, việc phân chia các ngun
tắc cơ bản thành từng nhóm chỉ mang tính tương đối, tinh thần, nội dung của hệ
thống nguyên tắc được thể hiện trong từng điều luật và trong toàn bộ các quy định
của BLTTHS năm 2015.
1.2.2.4.
Các nguyên tắc đảm bảo tính dân chủ trong hoạt động xét
xử
Hoạt động xét xử là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Nhưng tính
quyền lực nhà nước chi nhằm đảm bảo cho việc pháp luật được áp dụng và chấp
hành nghiêm chính. Tại Điều 13 BLTTHS năm 2015 đã quy định: Người bị buộc tội
được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ
luật này quy định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật.. Điều này
cho thấy, tính quyền lực nhà nước khơng có nghĩa là những người tiến hành tố tụng
19


có thể áp đặt suy nghĩ chủ quan của mình vào hoạt động xét xử, ra quyết định, bản
án. Mọi bản án, quyết định của Tòa án đều phải xuất phát từ sự thật khách quan và
quy định của pháp luật. Để đảm bảo được điều này, tính dân chủ trong hoạt động xét
xử là cần thiết.
“Dân chủ" trong hoạt động xét xử trước hết thể hiện ở góc độ công khai,
minh bạch (Điều 25 BLTTHS năm 2015). Áp dụng hình phạt trong tố tụng hình sự
ngồi mục đích chính mang tính trừngphạt cịn có mục đích mang tính răn đe để mọi
người thấy sợ mà khơng dám có ý định phạm tội. Vì vậy việc xét xử cơng khai là
điều cần thiết. Bên cạnh đó xét xử cơng khai là một cách tạo điều kiện để người dân

giám sát hoạt động xét xử của cơ quan và người tiến hành tố tụng, buộc họ phải thực
hiện công việc một cách nghiêm túc, khách quan, trung thực nhất. Tòa án xét xử
cơng khai, mọi người đều có quyền tham dự, tuy nhiên trong một số trường hợp
nhằm đảm bảo trật tự, an ninh cho phiên Tòa hoặc lý do tác động ảnh hưởng tâm lý
đến người chưa thành niên mà một số đối tượng sẽ không được phép tham dự phiên
Tịa.
Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của
dân tộc hoặc để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Tồ án
xét xử kín, nhưng phải tun án công khai. Tuyên án công khai được hiểu là việc
tun án đó khơng được thực hiện kín mà được tuyên cho mọi người cùng nghe.
Quy định này đảm bảo rằng phán quyết của tịa án phải được cơng khai, thể hiện sự
nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo được mục tiêu răn đe và phòng ngừa chung.
Một điều quan trọng nữa của việc tuyên án công khai là bàn ăn sẽ được nhân dân, xã
hội giám sát nên việc phán xử không thể tùy tiện.
“Dân chủ” trong hoạt động xét xử còn thể hiện ở chỗ mọi người đều có quyền
bình đẳng trước pháp luật (Điều 9 BLTTHS năm 2015). Tố tụng hình sự được tiến
hành theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, khơng phân biệt dân
tộc, giới tính, tín ngưỡng, tơn giáo, thành phần và địa vị xã hội. Bất cứ người nào
phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật. Mọi pháp nhân đều bình đẳng trước pháp luật,
khơng phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế.
Một trong những nguyên tắc đảm bảo tính dân chủ trong hoạt động xét xử
làquy định về việc Tòa án xét xử tập thể (Điều 24 BLTTHS năm 2015) và sự tham
giacủa Hội thẩm nhân dân trong Hội đồng xét xử (Điều 22 BLTTHS năm 2015).
Như vậy, tại giai đoạn xét xử sơ thẩm, sự tham gia của Hội thẩm nhân dân là bắt
20



×