Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Lịch sử giáo dục VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.51 KB, 41 trang )


Chính trị, kinh tế, quốc phòng đương nhiên là ba vấn đề trọng yếu, nhưng
giáo dục lại căn bản và trọng yếu hơn vì muốn xây dựng, muốn chiến đấu thì trước
hết phải biết đã.
Nuôi con chẳng dạy chẳng răn
Thà nuôi lợn béo mà ăn bộ lòng
Người nông dân mộc mạc nơi điền dã mà còn đặt nặng vấn đề giáo dục đến thế
huống hồ một quốc gia.
“Đứa bé sinh ra đời phải được giao cho quốc gia và quốc gia sẽ nuôi nó
trong một cơ quan chuyên giữ nhiệm vụ giáo dục. Đứa bé không cần phải biết cha
mẹ nó là ai, nó chỉ biết nó là công dân của quốc gia mà thôi”. Đó là lí tưởng quốc
về giáo dục của xã hôi Hy Lạp – La Mã cổ đại phương Tây.
Một triết gia khác của Đức đã nói: “Giáo dục có thông qua quốc gia mới
thành giáo dục, một dân tộc chỉ sau khi đã qua giáo dục quốc gia mới thành dân tộc
đầy đủ sinh lực”.
Muốn hiểu thấy ý nghĩa của dân tộc tinh thần thì phải tìm về lịch sử. Nội dung xã
hội dân tộc có: ngôn ngữ, đạo đức, chính trị, kinh tế, nghệ thuật và niềm tin, tất cả
thường được gọi chung là tài sản văn hóa truyền từ đời nọ sang đời kia và không
ngừng phát triển.
Quá trình phát triển hay lịch sử đã đào tạo cho mỗi dân tộc một cộng đồng
tri thức tình tự, ý chí, hành động truyền thống. Bởi thế, hoạt động giáo dục chỉ có
giá trị chân thực khi nó được đặt vào cơ sở dân tộc xã hội.
Lịch sử là do sự đối lập giữa dân tộc này đối với dân tộc khác hoặc do sự
xung đột gây nên bởi tình trạng bất bình hành giữa các thế lực nội bộ của dân tộc.
Bởi thế, hoạt động giáo dục chỉ có giá trị thực tiễn khi nó được đặt vào một trong
hai đấu tranh đó.
Giáo dục Tây phương ngày nay có ba đại loại:
Tôn giáo giáo dục
Quốc gia giáo dục
Cá nhân tự do giáo dục
Tuy trên lịch sử ba loại giáo dục này chống đối thay thế nhau nhưng trên thực tế,


cả ba vẫn phối hợp với nhau tồn tại.

Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống giáo dục lâu đời,
phát triển ở thời xưa. Vậy lịch sử giáo dục của đất nước hình thành và phát triển
như thế nào, những chính sách cho tới những cải cách.
Nền giáo dục Việt chính thức có hệ thống hẳn hoi bắt đầu từ đời Đinh-Lý
do Phật giáo nắm giữ. Phật giáo đại thừa sang Việt Nam qua ngả Trung Quốc.
Sách Lĩnh Nam trích Quái ghi: “Lý Công Uẩn tức Lý Thái Tổ sau này, khi tuổi
mới lên tám học ông sư ở chùa Tiêu Sơn”.
Người Việt Nam làm quen với Phật giáo bằng những sách vở từ chữ Hán
vào giữa lúc mà tôn giáo này đang phát triển mạnh tại Trung Quốc. Rồi tự đó có
tác dụng ngược lại, Phật giáo sang Việt Nam làm cho Hán học ở đây rực rỡ thêm
lên.
Lý Công Uẩn gốc gác chùa chiền nay lên ngôi thiên tử, lẽ đương nhiên Phật giáo
phải được chuộng, phải được giữ phần vụ lãnh đạo tư tưởng.
Ngay lúc mới lên ngôi vua, Thái Tổ đã ban áo mặc cho tăng lữ. Sang năm
sau lại trích ra hai vạn quan tiền để cất lên tám ngôi chùa ở phủ Thiên Đức. Rồi ở
trong và ngoài thành Thăng Long cũng dựng lên mấy chùa lớn như chùa Hưng
Thiên, Vạn Tuế, Thắng Nghiêm, Thiên Vương, Cẩm Y, Long Hưng, Thánh Thọ,
Thiên Quang.v…
Sang năm thứ tám, Thái Tổ lại sai sứ thần sang Tàu xin kinh Tam Tạng. Khi
được vua Tống ban cho ông lại bắt một người Thiền sư tên là Phi Trí đi đến tận
Quảng Tây đón về. Cách hai năm sau, Thái Tổ lại độ hết bàn dân thiên hạ làm sư
và phát vàng bạc đúc mấy quả chuông để đem treo ở các chùa Hương Thiên, Đại
Giáo Thắng Nghiêm. Đến năm Thuận Thiên thứ 15, ngài lại xây chủa Chân Giáo ở
trong thành và bắt các sư vào đó tụng kinh rồi ngài thân hành đến nghe.
Vua Thái Tôn nhà Lý trong năm Thiên Thành thứ tư xây dựng vừa chùa
vừa quán tất cả chín trăm rưỡi sở. Đến năm Thiền Thụy thứ nhất lại đúc tượng Phật
ở Đại Nguyên đặt ở thềm rồng. Sang năm Kiều Phú thứ hai, vừa vẽ vừa tạo mỗi
đằng hơn một ngàn pho tượng và may hơn vạn lá phướn để đem phân phát cho các

chùa. Qua năm Sùng Hưng đại bảo thứ hai lại dựng lên chùa Diên Hựu và cho sư
vào tụng kinh. Rồi năm Long Thụy thứ ba lại cất ngôi chùa ở phường Báo Thiên
và xây lại một ngọn tháp 12 tầng cao vài chục trượng và phát hai vạn cân đồng đúc
một quả chuông.
Đối với Phật giáo thì như thế, đối với Nho giáo nhà Lý chỉ có một lần xây
Văn Miếu, đúc tượng Chu Công và vẽ tượng 72 học trò của Khổng Tử rồi bắt thờ
cúng quanh năm và bắt Thái Tử tới đó mà học.
Trải qua nhiều triều đại phong kiến tiếp theo trong lịch sử dân tộc nước nhà
thì nền giáo dục không ngừng được cải thiện nâng tầm chất lượng, các kì thi tuyển
chọn nhân tài cho đất được cũng thay đổi ít nhiều. Bên cạnh những cuộc cải cách
canh tân đất nước như của Hồ Quý Ly, Lê Thánh Tông, Quang Trung thì nên giáo
dục cũng được cải cách cho phù hợp vs sự phát triển của triều đại.
Đặc điểm chung của nền giáo dục Việt Nam dưới thời phong kiến là nền
giáo dục Nho học ăn sâu thấm nhuần vào tư tưởng thư sinh và văn hóa Đại Việt.
Như thế, ta đã biết nền giáo dục Nho học đã xuất hiện và phát triển trên đất
nước ta cũng được khoảng 1 ngàn năm.
Mãi cho tới khi thực dân Pháp đô hộ nước ta cùng với những cải cách thì
nên giáo dục Nho học dần bị xóa bỏ mà thay vào đó là nên giáo dục hiện đại
phương Tây.
 !!"#
$%&'#
()*+,-!(./-012-34,5678*-79*:;<=1)*;-:(>?/:@=-+>?-
AB><9>AC:-79*:;.
()*+,-!(./-012-34,5678*-79*:;
Tiếng súng kháng chiến của dân tộc ta bắt đầu từ mặt trận Đà Nẵng. Sáng
sớm 1/9/1858 chiến thuyền quân Pháp – Tây Ban Nha nổ súng tấn công của biển
Đà Nẵng mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.Thực dân Pháp chọn Đà
Nẵng làm địa điểm tấn công đầu tiên vì Đà Nẵng có vị trí quân sự quan trọng, hải
cảng rộng và sâu, thuận tiện cho tàu chiến triển khai. Hơn nữa Đà Nẵng là cổ họng
của Huế, dùng Đà Nẵng làm bàn đạp đánh kinh thành Huế, nếu chiếm được Đà

Nẵng, người Pháp có khả năng chiếm ngay kinh thành Huế, sớm kết thúc chiến
tranh.
Vừa đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà, quân pháp đã vấp phải sức kháng cực của
triều đình do Nguyễn Tri Phương chỉ huy. Đồng thời nhiều đội quân nông dân
cũng kéo tới phối hợp với quân triều đình đánh giặc. Sau 5 tháng bị giam chân khó
khăn chồng chất , buộc chúng phải rút khỏi Đà Nẵng. Kế hoạch đánh nhanh thắng
nhanh bị thất bại. buộc chúng đi vào nam, mở mặt trận mới Gia Định.
Ngày 10/ 2/ 1859, tàu chiến Pháp và Tây Ban Nha đã tới Vũng Tàu. Chúng
mở đường ngược sông Cần Giờ, vấp phải sự kháng cự của quân dân ta, mãi 16/2
mới ngược được sông Bến Nghé vào đậu sát thành Gia Định. Sáng hôm sau quân
địch bắt đầu tấn công đến trưa thì chiếm được thành Gia Định(17/2).
Tháng 3/1960 Nguyễn Tri Phương được điều động từ Đà Nẵng vào chỉ huy
mặt trận Gia Định. Pháp dồn quân vào mặt trận gai định, bắt đầu tấn công đồn Phú
Thọ. Cuộc giao tranh diễn ra ác liệt, Nguyễn Tri Phương lệnh cho quân bỏ đồn, rút
về cố thủ(25/2/1861). Thừa thắng gia định chúng tấn công và lần lượt ba tỉnh miền
đông : (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) và một tỉnh tây nam kỳ: (Vĩnh Long), bị
pháp chiếm.
Tuy nhiên phong trào nhân dân chóng Pháp diễn ra không ngớt, khẳng định
lòng yêu nươc nồng nàn, sẵn sàng đứng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Cuối 1861 trận đánh của nghĩa quân Nguyễn Trung Trực đốt cháy tàu
etpêrăng trên sông Nhật Tảo. Và nhiều cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ bùng nổ. Năm
1862, phong tào nông dân chống pháp dâng cao ở các quận, huyện thuộc hai tỉnh
Gia Định và Định Tường. Chính lúc này, triều đình huế lại kí hiệp ước 5/6/1862
cắt ba tỉnh miền đông mà đảo côn lôn cho Pháp cùng với những nhượng bộ nặng
nề khác. Mục đích của triều đình Huế là muốn sớm bắt tay thực dân Pháp đẻ có
thể rãnh tay đối phó với phong trào nông dân miền bắc đang trên đà phát triển.
Sáng 20/6/1867 lấy cớ triều đình Huế bí mật ủng hộ nghĩa quân miền Đông
chống pháp thực dân Pháp đưa thư đòi nộp thành Vĩnh Long. Phan Thanh Giản
nộp thành cho chúng. sau đó, còn ra lệnh cho quân nộp hai tỉnh An Giang và Hà
Tiên. như vậy chỉ trong vòng 5 ngày( 20-24/6/1867) thực dân Pháp chiếm gọn ba

tỉnh miền tây.
Ngay sau đó phong trào nhân dân kháng chiến chống Pháp dấy lên mạnh
mẽ. tiêu biểu: khởi nghĩa Phan Tam – Phan Ngũ, khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực,
khởi nghĩa Long Trì khiến cho quan pháp khiếp sợ. Nhưng do triều dình cố tình
bỏ rơi, ngăn cản, thậm trí còn tiếp tay cho Pháp nên lần lượt các cuộc khởi nghĩa
thất bại.
11/1873 vừa đặt chân đến hà nội gácnie cho quân nổ súng thị uy. 9/11 gửi
tối hậu thư đòi nộp thành nhưng bị cự tuyệt. Sáng 20/11 gácnie hạ lệnh nổ súng tấn
công thành hà nội. thừa cơ triều đình Huế tự hãm mình trong thế bị động , pháp
đánh các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Phủ Lý, Ninh Bình, Nam Định trong vòng
một tháng. Nhưng quân dân Hà Nội và miền Bắc đứng lên tự động võ trang, tiến
hành hoạt động đốt phá
Ngày 15/3/1874 tại Sài Gòn, một điều ước lại được ký với những điều khoản
bất lợi cho ta. Triều đình Huế chính thức thừa nhận chủ quyền của pháp ở cả 6 tỉnh
Nam kỳ, nền ngoại giao Việt Vam lệ thuộc vào Pháp điều ước này đánh dấu sự
phẫn nộ của nhân dân đới với triều đình nhà Nguyễn.
Pháp chiếm được Nam kỳ nhưng chúng muốn chiếm cả Việt Nam. Tháng
3/1882 viện cớ triều đình huế vi phạm điều ước 1874. Pháp mang quân ra bắc.
Sáng 25/4/1882 Rivie gửi tối hậu thư cho Hòang Diệu. Hạn trả lời chưa hết, chúng
đã nổ súng tấn công, cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt. Chiếm được thành Hà Nội lần
hai, triều đình nhà Nguyễn lại tự hãm mình vào thế bị động.
Sáng 18/8/1883 hạm đội Pháp tiến vào cửa biển Thuận An, đưa tối hậu thư
buộc triều đình giao tất cả các pháo đài phòng thủ bờ biển cho chúng. Quân ta
kháng cự quyết liệt, tới chiều 20 quân Pháp mới đổ bộ được lên Thuận An được tin
mất Thuận An. Triều đình nhà Nguyễn xin đình chiến. Và kí vào hiệp ước
Hắcmăng ngày 25/8/1883. Điều ước Hắcmăng là sự phản bội tệ hại nhất của triều
đình Nguyễn đối với nhân dân ta nên nhân dân phán đối quyết liệt.
Trên đà thắng thế, chính phủ Pháp cử Patơnốt đến huế ép triều đình kí vào
điều ước mới 6/6/1884( điều ước Patơnốt).
)*;-:(>?/<=AD(E*F;:()*+,-!(./<9>-79*:;

• Kinh tế:
Chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất 1897-1919:
Năm 1897 Pháp ép triều đình ký hiệp ước nhượng quyền khai khẩn đất
hoang cho chúng. Riêng nam kì và bắc kì tính đến 1915 địa chủ Pháp đã chiếm
470.000 hec ta lập đồn điền. Quyền sở hữu tối cai về ruộng đất từ tay vua sang tay
nhà nước bảo hộ Pháp.
Chương trình khai thác thuộc địa của Đume chủ yếu là đầu tư vào kinh tế
để khẳng định vị trí của chủ nghĩa tư bản Pháp ở việt nam. Mở đầu là ngành khai
mỏ. xây dựng một số cở sở công nghiệp nhằm phục vụ đời sống của giới thực dân
như điện, nước ngoài ra còn mở mang giao thông, xây dựng đường xá, bến
cảng mục đích phục vụ cho kinh tế và cả quân sự.
Pháp độc chiếm thị trường Việt Nam, nắm nguồn thuế, độc quyền
thương mại và thuế quan thuế khóa là nét đặc trưng cho chính sách thực dân
pháp ở Đông Dương, với hai thứ thuế là thuế đinh và thuế điền chính thuế khóa
đã đem lại một nguồn lợi cho Pháp.
Chính sách khai thác, bóc lột về kinh tế của thực dân Pháp chủ trương
không phát triển công nghiệp công nghiệp nặng, biến nước ta thành thị trường
cung ứng nguyên vật liệu và tiêu thụ hàng hóa cho chính quốc.
Chính sách kinh tế của cuộc khai thác thuộc địa đã du nhập phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa trong quá trình khai thác đã tác động và làm cho kinh tế
Việt Nam có những chuyển biến nhất định theo hướng tư bản. Tuy nhiên mục đích
và âm ưu của Pháp chỉ duy trì giai cấp phong kiến, quan hệ sản xuất phong kiến
cùng với phương thức bóc lột của nó nên kinh tế việt nam bị lệ thuộc và kìm hãm
trong tình trạng kinh tế nông nghiệp lạc hậu.
• Văn hóa - xã hội:
Về mặt xã hội, thực dân Pháp dung túng cho các tệ nạn xã hội: cờ bạc, mại
dâm… Chúng còn gieo rắc tư tư tưởng sùng bái nước Pháp, coi nước Pháp là
“Mẫu quốc”, là người đi “khai hóa văn minh”, thường xuyên tổ chức các
hoạt động văn hóa – thể thao để lôi cuốn nhân dân ta đặc biệt là tầng lớp
thanh thiếu niên làm cho họ quên đi nỗi nhục mất nước.

Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa
tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để dễ bề
thống trị.
Văn hóa, giáo dục chúng thi hành triệt để chính sách văn hóa “ngu dân”,
gây tâm lý tự ti, vong bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi
phong bại tục hòng kìm chế dân ta trong cảnh ngu dốt để dễ bề cai trị, bóc
lột.
Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng xây dựng
nhà tù nhiều hơn trường học. Nếu có chăng nữa cũng chỉ là những cơ sở đào
tạo ra đội ngũ tay sai cho chính quyền thực dân và những công nhân lành
nghề phục vụ cho chương trình khai thác thuộc địa.
Những chính sách giáo dục của pháp mang tính thực dân. Chúng mở một số
trường quốc ngữ, chữ pháp để dạy kiên thức phổ thông, một số trường dạy
nghề, trường y, trường sư phạm chúng cố gắng thay thế suự ảnh hưởng của
hán học bằng thiêt lập nền giáo dục tây phương để đào tạo ra lớp công
chức, nhân viên cần thiết cho bộ máy chính trị, kinh tế thực dân.
• Chính trị:
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ
quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn. Chúng
tiếp tục thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề.Thực dân Pháp
tiếp tục củng cố bộ máy chuyên chế, tập trung toàn bộ quyền lực vào tay người
Pháp. Bên cạnh đó, chúng còn sử dụng giai cấp phong kiến Việt Nam làm công cụ
đắc lực phục vụ những mục tiêu do chúng đưa ra.
Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các
cuộc đấu tranh của dân ta trong biển máu.
Thực dân pháp sử dụng chính sách “Chia để trị” một cách toàn diện hòng
làm suy giảm sức mạnh đoàn kết của dân tộc ta, ngăn chặn sức mạnh đấu tranh của
nhân dân ta. Chúng chia nước ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng
(Chế độ thuộc địa ở Nam Kỳ, chế độ bảo hộ ở Trung Kỳ và chế độ nửa bảo hộ ở
Bắc Kỳ), nhập ba kỳ đó với nước Lào và nước Campuchia để lập ra Liên bang

Đông Dương thuộc Pháp, xóa tên nước ta trên bản đồ thế giới. Chúng gây chia rẽ
và thù hận giữa Bắc, Trung, Nam, giữa các tôn giáo, các dân tộc, các địa phương,
thậm chí là giữa các dòng họ; giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên bán đảo
Đông Dương.
Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam
Cuộc khai thác thuộc địa của Pháp cũng đã tác động làm phân hóa giai
cấp xã hội cũ, làm nảy sinh những lực lượng xã hội mới.
Giai cấp địa chủ phong kiến phân hóa thành hai bộ phận : một là đại địa
chủ giàu lên nhờ dựa Pháp, chống cách mạng. Hai là bộ phận lớn gồm trung và tiểu
địa chủ, bị đế quốc chèn ép, đụng chạm dến quyền lợi nên có ít nhiều có tinh thấn
dân tộc.
Giai cấp nông dân là đối tượng bị bóc lột chính chính của đế quốc và địa
chủ phong kiến. Họ khốn khổ bởi nạn thuế khóa, địa tô này lại thêm nạn cướp đất
lập đồn điền, xây dựng nhà máy của thưc dân. đói khổ Vì vậy, họ tràn về các thành
thị đến các công trường, hầm mỏ, đồn điền để kiếm sống. Do đó, họ có mối thâm
thù sâu với đế quốc, phong kiến và có tinh thần đấu tranh, là lực lượng cách mạng
to lớn.
Từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, ra đời một giai cấp nhất mới -
giai cấp công nhân. Họ là người lao động làm trong các hầm mỏ, đồn điền và công
trường giai đoạn này giai cấp công nhân vẫn còn non trẻ, đang ở trình độ tự
phát, đấu trang nhằm mục đích kinh tế.
Việc xây dựng thành phố, cầu cống, đường xá cần những người chủ thầu
thuê mướn công nhân những người làm việc này có tài khéo léo của mình trở
thành những nhà tư sản. Trở thành nhà tư sản còn những chủ xưởng thủ công,
những nhà buôn giàu có lên họ lập công ty, tổ chức hội buôn. Ngoài ra, phải kể đến
những sĩ phu yêu nước, đứng ra lập hội buôn, tổ chức sản xuất. Đó là những lớp
người đầu tiên của giai cấp tư sản Việt Nam.
Một tầng lớp cũng xuất hiện trong thời gian này là giai cấptiểu tư sản.
Thành phần khá phức tạp. Đó là tiểu chủ sản xuất và buôn bán hàng thủ công
truyền thống, những tiểu thương, dân nghèo thành thị. Nhưng quan trọng hơn là số

công nhân viên chức làm việc trong các cống cở và sở tư, những nhà tri thức, nhà
văn, nhà báo, sinh viên , học sinh.
Chính sách kinh tế, cuộc khai thác thuộc địa thứ nhất đã làm cho Kinh tế
việt nam có những chuyển biến. đồng thời, mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai
cấp trong xã hội việt nam trở nên gay gắt.
Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ
đến xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội. Trong đó đặc biệt
là sự ra đời hai giai cấp mới là công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng
lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người bị mất nước và ở
những mức độ khác nhau, đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã
hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai
cấp địa chủ phong kiến, đã nẩy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu và ngày
càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là: mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt
Nam với thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho nhân dân, tự do cho nhân dân;
hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành lại dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng
đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng
đầu.
G>.@+H*>?:;5:IJ(>!(./4,5678*:9>*KB>:(LJM%%
Năm Nhâm Tuất 1862 Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ gồm 3 tỉnh
Gia Định, Định Tường và Biên Hòa. Năm Đinh Mão 1867 Pháp chiếm ba tỉnh
miền Tây Nam Kỳ là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Hòa ước năm Giáp Tuất
1874 công nhận chủ quyền của Pháp trên toàn thể lãnh thổ Nam Kỳ. Nam Kỳ trở
thành thuộc địa (colonie) của Pháp.
Hai hòa ước năm Quí Mùi 1883 và Patenôtre năm Giáp Thân 1884 công
nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Bắc Kỳ và Trung Kỳ trở
thành đất bảo hộ (protectorat) của Pháp. Ở miền Bắc, trên danh nghĩa, triều đình
Huế còn quyền hành nhưng trên thực tế mọi việc do người Pháp điều khiển. Trung
Kỳ do triều đình Huế cai trị nhưng được đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Pháp.
Khi đô hộ Việt Nam, nhu cầu cấp bách của người Pháp là phải hủy diệt nền
Nho học và thay thế bằng một hệ thống giáo dục phục vụ cho guồng máy cai trị.

Do đó, chiếm được Nam Kỳ xong là người Pháp lập tức khai tử nền giáo dục Nho
học. Năm 1864 là kỳ thi Hương cuối cùng ở Nam Kỳ (tổ chức ở ba tỉnh miền Tây
trước khi bị Pháp chiếm). Từ 1878 chữ Hán trong giấy tờ công văn các cơ quan
hành chánh được thay thế bằng chữ Pháp và chữ quốc ngữ.
Nhìn thấy quá khứ Việt Nam nặng về Hán học, chủ tâm của người Pháp là
muốn cắt đứt liên lạc văn hóa giữa người Việt với người Tàu. Để đạt mục đích
hướng tinh thần người Việt về với Pháp, chữ Hán cũng như chữ Nôm cần phải triệt
bỏ và thay thế bằng chữ Pháp, còn văn tự cho tiếng nói người bản xứ nếu cần đã có
chữ quốc ngữ cùng một họ mẫu tự La Tinh. Năm 1865, phủ Sài Gòn cho ra đời tờ
Gia Định Báo là tờ Công Báo đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ. Trong tinh thần ấy,
trước tiên người Pháp dựng lên những cơ sở văn hóa để truyền bá chữ Pháp và chữ
quốc ngữ. Đáp ứng nhu cầu cấp bách trong thời gian đầu Pháp thiết lập các trường
đào tạo thông ngôn. Ngày 8/5/1861 Đô Đốc Charner ký nghị định lập trường
Collège d'Adran để đào tạo thông ngôn người Việt và cho cả người Pháp muốn học
tiếng Việt. Trường Thông Ngôn (Collège des Interprètes) được thiết lập ở Sài Gòn
năm 1864, ở Hà Nội năm 1905. Pháp còn thiết lập các Trường Hậu Bổ (chuẩn bị
bổ ra làm quan Apprenti Mandarin) ở Hà Nội năm 1903 và ở Huế năm 1911. Đây
là những bước đầu trong việc thiết lập một nền giáo dục của Pháp.
Khi xây dựng nền giáo dục thay thế Nho giáo, người Pháp có ba mục đích.
Mục đích quan trọng nhất nhằm đào tạo lớp người thừa hành chính sách của Pháp
là cai trị và khai thác ở Việt Nam và cả Đông Dương. Tầng lớp này bao gồm các
viên chức trong các ngành hành chánh, giáo dục, y tế và xây dựng. Thứ đến là
truyền bá tư tưởng Pháp, lòng biết ơn sự khai hóa của Pháp và sự trung thành với
Pháp. Cuối cùng với mục đích mị dân, làm người Việt tin rằng hệ thống giáo dục
của Pháp ở Việt Nam là văn minh và tiến bộ. Hai mục đích đầu là căn bản, mục
đích thứ ba chỉ dùng để đối phó với sự đòi hỏi một nền giáo dục tiến bộ của người
Việt trong tương lai mà thôi.
Hệ thống giáo dục của nước Pháp đã được người Pháp ở Việt Nam điều chỉnh và
thêm bớt cho phù hợp với ba mục đích trên cũng như để thích hợp với thực tế ở
Việt Nam. Đây là hệ thống Giáo Dục Pháp Cho Người Bản Xứ" (Enseignement

Franco-Indigène), thường được gọi là Giáo Dục Pháp-Việt. Trong nền giáo dục
này tiếng Pháp là chuyển ngữ tức tiếng Pháp được dùng để trao đổi trong lớp học
(giảng bài, làm bài, sách giáo khoa viết bằng tiếng Pháp). Riêng ba lớp tiểu học
đầu là được dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ, sau đó tiếng Việt được học như một
ngoại ngữ. Ngoại ngữ thứ hai thường là tiếng Anh ở bậc Tú Tài. Chữ Hán được
học theo tự nguyện. một tuần một giờ ở các lớp trên của bậc tiểu học nếu có thày
dạy.
Để điều hành, Pháp thiết lập tại mỗi kỳ một Sở Giáo Dục Cho Người Bản Xứ
(Service de L'Enseignement Local) do một Chánh Sở (Chef de Service) người
Pháp đứng đầu. Các cơ sở giáo dục này đặt trực thuộc tòa Khâm Sứ. Mọi sự bổ
nhiệm, thuyên chuyển, thăng thưởng, kỷ luật các giáo chức từ bậc tiểu học trở lên
đều phải do khâm Sứ quyết định. Khi Pháp thành lập liên bang Đông Dương (gồm
Bắc, Trung, Nam Kỳ, Cao Miên và Lào), một số việc phải được Toàn Quyền Đông
Dương (Gouverneur de l'Indochine) chuẩn y. Nha Học Chính Đông Pháp
(Direction de l'Instruction Publique de l'Indochine) ra đời do một Giám Đốc người
Pháp chỉ đạo trực tiếp 5 sở giáo dục của liên bang Đông Dương.
N(O-3AP-3(Q<=4K(79-3*R>*.*(*F;*.*1S/(KTUK-79*
Sự nhu nhược, bả thủ của triều đình phong kiến đã lỗi thời.Nguồn nhân lực
tài chính bị cạn kiệt do chiến tranh.
Chế độ phong kiến và những hệ tư tưởng của nó đã tồn tại hàng ngàn năm
ở Việt Nam, không dễ gì thay đổi.
Các bản điều trần còn bộc lộ ít nhiều hạn chế, chưa suy xét đến tình hình
nước ta thời bấy giờ, thiếu tính khả thi, mang tính cá nhân, xa rời nhân dân.
Tình hình xã hội rối ren, không ổn định, giữa triều đình và nhân dân không
có tiếng nói chung, tình đoàn kết dân tộc bị rạn nứt.
Chưa giải quyết được hai mâu thuẫn hàng đầu của xã hội bấy giờ : Đó là
mâu thuẫn giữa nhân dân Việt nam và thực dân Pháp, giữa nông dân và địa chủ
phong kiến.
Chính những nguyên nhân đó đã làm cho các sĩ phu yêu nước thời bấy giờ
nhận thức rõ được tình hình nguy cấp của đât nước là phải cải cảnh về mọi mặt và

cải cách về giáo dục là một trong những cải cách quan trọng của đât nước.
Mở đầu cho những xu hướng cải cách giáo dục của các sĩ phu yêu nước
thời bấy giờ là Nguyễn Trường Tộ với những bản điều trần dâng vua Tự Đức trong
đó có những cải cách về giáo dục. Nguyễn Trường Tộ từ nhỏ học Hán học, ông
học rất giỏi nhưng ông không theo con đường khoa cử. Mãi đến năm mười tám,
muời chín tuổi, ông mới bắt đầu tiếp xúc với văn hoá Tây phương, trước tiên là qua
các giáo sĩ thừa sai người Pháp, chủ yếu là giám mục Gauthier. Sau đó, Nguyễn
Trường Tộ cũng đã có dịp đi ra nước ngoài, qua các nước Đông Nam Á vào những
năm 1858-1859 và các nước Tây Âu vào năm 1866, ở đó, ông đã được đọc sách
báo của Tây phương, băng tiếng Pháp, tiếng Anh và các sách báo Tây phương đã
được dịch ra tiếng Trung Quốc. Nhờ đó mà Nguyễn Trường Tộ đã có một kiến
thức khá rộng lớn về tình hình thế giới, về văn minh châu Âu, về khoa học kỹ thuật
cũng như về khoa học xã hội của Tây phương. “Nhìn lại sự học của ta ngày nay,
những điều thầy dạy học trò đều là những chuyện xa xưa…ngày nay chẳng ai theo
nữa… Lúc nhỏ học thiên văn, địa lý, chính sự bên Tàu (mà nay họ đã đổi khác hết
rồi), lớn lên, ra làm việc thì lại dùng địa lý, thiên văn, chính trị, phong tục nước
Nam, hoàn toàn khác hẳn…Nước ta đâu phải là nước phụ dung của nước Tàu mà
cứ học sách Tàu là chính…”;“Ngày nay, cái mà nước mình quý trọng là Nho. Mà
Nho thì quý trọng ở nhiều văn chương, chữ nghĩa. Nếu như lấy cái công phu bền bỉ
dùi mài chữ nghĩa văn chương mà học lấy cái phong phú vô vàn của tạo vật thì sẽ
được biết bao điều quý báu”.
Về chương trình học tập, Nguyễn Trường Tộ đã đề nghị đưa vào thêm một
số khoa như nông nghiệp, luật, xúc tiến học tập kĩ thuật phương Tây, cần dạy ngoại
ngữ tiếng Anh, Pháp, tiếng Tây Ban Nha, Trung Quốc, Ông cũng không phải
sùng bái mù quáng trước khoa học kĩ thuật phương Tây.
Nguyễn Trường Tộ còn đề nghị triều đình mở trường Quốc học, tinh học
theo mô hình phương Tây có phòng thì nghiệm, có kí túc xá Ngoài ra, ông còn đề
nghị cải cách cae chữ viết.
Nối gót những cải cách của Nguyễn Trường Tộ, phong trào cải cách duy
tân đất nước của các sĩ phu yêu nước ngày càng phát triển mạnh như Nguyễn Lộ

Trạch, phong trào Duy Tân, Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thúc với các nhân vật
tiêu biểu như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh
Công cuộc mục đích các cuộc cải cách của các sĩ phu yêu nước là mong đất
nước thoát khỏi tình trạng lạc hậu, yếu kém, thoát khỏi sự đô hộ của thực dân
Pháp, cải thiện hệ thống giáo dục nước nhà, nâng cao trình độ dân trí để đấu tranh.
Đặc điểm chung của các cuộc cải cách do các văn thân sĩ phu yêu nước là
đều hướng tới là cải cách nên giáo dục, phong trào đưa học sinh xuất ngoại mà
chủ yếu là Nhật Bản để học tập công cuộc cải cách của họ về giúp đất nước.
Những cuộc cải cách của họ đều không thể thực hiện được một phần do chính sách
bảo thủ của triều đình nhà Nguyễn vì lợi ích dòng họ đặt lên trên lợi ích dân tộc,
một phần do bị thục dân Pháp đan áp nên những cải cách không thực hiện được.
Đánh giá những đề nghị cải cách về giáo dục của Nguyễn Trường Tộ và
các văn thân sĩ phu yêu nước ta đều thấy được lòng yêu nước nồng nàn của họ, biết
lo cho vân mệnh của dân tộc, cái nhìn thực tế sâu sắc, bộ óc tinh thông sáng suốt,
những suy nghĩ thông minh tiên tiến, nghị lực và dũng khí phi thường, dám nói,
dám làm của họ trước chế độ bảo thủ nhà Nguyễn và bọn xâm lược thực dân Pháp.
Nhìn lại những cải cách về giáo dục của họ, chúng ta sẽ rút ra được những bào học
bổ ích cho sự nghiệp cải cách giáo dục mà chúng ta đang tiến hành và điều chỉnh
để nhanh chóng góp phần đổi mới đất nước.
$VWXY&!!

KE**R>*.*(3>.@+H*6Z-:([\]^_
Sau khi chiếm xong Nam Kỳ (1867), người Pháp xác lập quyền thống trị của
mình, biến Nam Kỳ thành thuộc địa của Pháp - xứ Đông Pháp. Đứng đầu Nam Kỳ
thuộc Pháp là Thống đốc Nam Kỳ và bên dưới là các chủ tỉnh người Pháp để tiến
hành cai trị thuộc địa trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Người Pháp thấy
rất rõ tầm quan trọng của giáo dục nên, ngay “sau khi người lính đã hoàn thành sự
nghiệp của mình thì đến lượt người giáo viên thực hiện sự nghiệp của họ”, đã tiến
hành áp dụng nền giáo dục phương Tây vào Việt Nam. Đứng trước tình hình giáo
dục Nho học đã tồn tại và trở thành hình thức giáo dục chính của Việt Nam hơn

mười thế kỷ qua, người Pháp phải đứng trước lựa chọn khôn khéo trong việc sử
dụng giáo dục như một công cụ thống trị, vừa áp đặt nền giáo dục mới vừa từng
bước hạn chế, đi đến xóa bỏ hoàn toàn nền giáo dục phong kiến, “biến người bị trị
thành người Pháp về mặt văn hoá”.
Paul Beau, khi đến Hà Nội cũng đã ra lời kêu gọi đầy "thiện chí" rằng:
“Người Pháp đến đây là để nâng cao đời sống nông nghiệp, công nghiệp, kinh tế và
còn nâng cao cả đời sống tinh thần bằng giáo dục”. Bước đầu Paul Beau vẫn cho
mở thêm những trường Pháp – Việt với chương trình khá đơn giản như chữ Pháp
không sa lầy vào ngữ pháp, phải dạy nhiều từ vựng có liên quan đến công việc làm.
Lên các lớp trên học sinh đã hiểu biết ít nhiều tiếng Pháp thì sẽ được đào tạo thành
thông ngôn và công chức. Về việc dạy chữ Quốc ngữ, Paul Beau cũng hết sức quan
tâm. Đối với chữ Hán, Paul Beau không chủ trương xoá bỏ, nhưng việc dạy phải
tuỳ theo từng loại trường. Và trước mắt cần làm cho các Nho sỹ nhận thức được
rằng họ phải biết tiếng Pháp, hiểu biết người Pháp, còn người Pháp cũng phải học
tiếng "bản xứ" để hiểu biết người dân mình cai trị. Để đạt được mục tiêu này Paul
Beau cũng gợi ý cần thành lập các trường học ở những trung tâm hành chính cho
các thông ngôn, công chức và cả hạ sỹ quan trong quân đội Pháp đến làm giáo
viên.
3KTU--(,-<=5H*:>UK+`-AL-*KE**R>*.*(3>.@+H*6Z-:([
-(C:*F;:()*+,-!(./a>?:;5-b5]^_
Thứ nhất, thực dân Pháp muốn xây dựng một nền văn hóa mang đậm bản
sắc văn hóa phương Tây ở Việt Nam. Tuy nhiên, kế hoạch dùng văn hóa Pháp để
cai trị người Việt đã gặp phải sự chống đối của quần chúng nhân dân. Ngoài ra,
phong trào đấu tranh chống sự xâm lược của thực dân Pháp bởi các tầng lớp nhân
dân vẫn diễn ra và ngày càng mạnh mẽ, do đó thực dân Pháp phải tập trung vào
việc đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nhân dân; vì thế thực dân Pháp không thể tiến
hành tổ chức giáo dục một cách có hệ thống trong một khoảng thời gian khiến cho
giáo dục Việt Nam ở cả ba xứ không đồng bộ và thống nhất.
Đến 1905, tổ chức giáo dục ở Việt Nam tồn tại dưới ba hình thức:
Ở Nam Kỳ, đa số các tổng xã đều có trường tiểu học Pháp – Việt dạy chữ

Pháp và chữ Quốc ngữ, chữ Hán hầu như bị bãi bỏ. Bên cạnh đó, còn có các trường
trung học được thực dân Pháp mở về sau như Chasseloup Laubat, Adran,…
Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ số trường dạy Pháp ngữ và Quốc ngữ rất ít và chủ
yếu là để đào tạo các thông dịch viên và một số viên chức trình độ thấp; riêng ở
Trung Kỳ, chữ Hán vẫn được xem là ngôn ngữ giảng dạy chính trong các trường
học.
Thứ hai, sau khi bình định và đưa chính trị đi vào ổn định, cần phải có một
đội ngũ công nhân và cán bộ kỹ thuật có trình độ cao hơn để phục vụ cho công
cuộc khai thác kinh tế của thực dân Pháp. Và cũng cần phải có một chế độ giáo dục
phù hợp đối với một đất nước có nền văn hóa phương Đông lâu đời như Việt Nam
tiếp xúc được với nền văn hóa phương Tây còn xa lạ.
Thứ ba, Giáo dục Pháp – Việt không áp đảo nổi nền giáo dục chữ Hán,
ngược lại còn đi ngược với ý muốn của họ “vì những gánh nặng về tài chính ngày
càng gia tăng ở các làng xã nên số lớn trường công (trường Pháp – Việt) ngày càng
biến đi mà những trường tư (trường dạy chữ Hán của các thầy đồ) lại phát triển.
Nếu như những trường tư phát triển thì họ không thể kiểm soát được công cuộc
“chinh phục tinh thần” để phục vụ cho việc khai thác thuộc địa”. Chưa kể các nho
sỹ dùng nghề dạy học để tuyên truyền tinh thần yêu nước trong nhân dân.
Thứ tư, không cải cách giáo dục sẽ không điều hòa được những mâu thuẫn
giữa những người học trường Pháp – Việt (tân học) là những người cũng có công
trong việc truyền bá tư tưởng văn hóa mới vào Việt Nam so với phái cựu học,
những người sau khi đỗ đạt sẽ ra làm quan, và con đường công danh dường như
vẫn còn rộng mở hơn so với những người theo lối học mới: “chúng tôi vẫn là
những người thấp kém về mặt xã hội đối với những nho sỹ hạng thấp nhất”.
Ngoài ra, các nước như Trung Quốc và Nhật Bản đã tiến hành cải cách giáo
dục truyền thống sang một nền giáo dục mới. Do đó, “Người Annam với sự tiếp
xúc với người Pháp đã làm quen với những phát minh hiện đại mà họ đã xác nhận
một cách công khai những tiến bộ đó cũng đòi hỏi phải có một nền giáo dục thích
hợp hơn với thời đại của họ”.
E>+K-3*R>*.*(

Từ khi bắt đầu xâm chiếm Việt Nam, người Pháp đã đặt nền móng cho một
nền giáo dục mới, nền giáo dục phương Tây, ở đây. Khởi đầu bằng việc thiết lập sở
học chính (Service de l’Intruction Publique) ở Nam Kỳ (1879) và đặt chương trình
giáo dục hệ Pháp – Việt với mục đích loại bỏ dần nền giáo dục Hán học ở Nam
Kỳ. Năm 1904, thực dân Pháp tiếp thục thiết lập chương trình giáo dục tại Bắc Kỳ
và sau đó là Trung Kỳ (năm 1906). Nhưng nền giáo dục mới đặt ra này đã không
mang lại một kết quả như người Pháp mong đợi và cũng không mang lại một sắc
màu mới cho nền giáo dục Việt Nam.
Do đó, khi lên làm toàn quyền, Paul Beau (làm toàn quyền 1902 – 1907), là
một nhà ngoại giao, chính trị và là một nhà giáo dục người Pháp, đã có chủ trương:
“lấy lòng giai cấp thượng lưu Việt Nam bằng việc chinh phục tinh thần và tuyên bố
đã đến lúc phải thay thế chính sách thống trị bằng chính sách liên hiệp”. Một trong
những chính sách liên hiệp mà Paul Beau thực hiện đó là việc thiết lập hệ thống
giáo dục tại Việt Nam.
Ngày 8 tháng 3 năm 1906, Paul Beau ra nghị định thiết lập “Hội đồng hoàn
thiện nền giáo dục bản xứ” (Conseil de Perfectionement de l’Enseignement
Indigène). Nhiệm vụ của hội đồng bao gồm:
Nghiên cứu mọi vấn đề có liên quan đến việc thiết lập hoặc cải tổ lại nền
giáo dục đối với người bản xứ, đặc biệt cần quan tâm đến những vấn đề như: Lập
lại các trường dạy chữ nho ở Nam Kỳ, sửa đổi lại chương trình thi Hương ở Bắc
Kỳ và Trung Kỳ nhằm đưa tiếng Pháp và khoa học sơ đẳng vào chương trình.
Hoàn thiện nền giáo dục trong các chùa chiền ở Cambodia và Laos, tạo điều kiện
để thiết lập một trường cao đẳng cho dân các nước Đông Dương.
Duyệt các sách giáo khoa, từ điển, từ vị, v.v…
Lập kế hoạch và theo dõi việc xuất bản từ tập san của ngành giáo dục.
Nghiên cứu, thu thập, bảo quản, và nếu cần, cho tái bản những tác phẩm cổ
đại, cận đại về văn học, triết học, lịch sử của các nước Đông Dương.
Ngày 25 tháng 8 năm 1906, Hội đồng hoàn thiện nền giáo dục bản xứ đã
trình toàn quyền “Bản quy chế giáo dục 1906” về những cải cách cần phải thực
hiện ngay đối với nền giáo dục của Việt Nam để định lại hệ thống trường lớp và

đưa tiếng Pháp phổ cập vào giáo dục. Cuộc cải cách được tiến hành trên các
trường, các cấp học; bao gồm:
Hệ thống các trường Việt truyền thống.
Hệ thống trường Pháp – Việt.
Hệ thống các trường chuyên nghiệp.

• 
Bậc ấu học có ba loại trường. Trường 1 năm hoặc dưới 1 năm cho những
làng xa xôi hẻo lánh nên chỉ dạy chữ Quốc ngữ, không dạy chữ Hán và chữ Pháp;
trường 2 năm dạy chữ Quốc ngữ và chữ Hán; trường 3 năm dạy cả ba loại chữ
Hán, Pháp và Quốc ngữ
Để mở được trường Ấu học, yêu cầu mỗi làng phải có 60 trẻ nam độ tuổi từ
6 đến 12 tham gia học với một giáo viên phụ trách; nếu một làng không có đủ 60
trẻ nam tham gia học thì gộp lại chung với các làng khác để mở trường. Trường ấu
học sẽ do làng xã quản lý và mọi chi phí cho việc duy trì sự tồn tại của trường cũng
do ngân sách của làng xã chi trả.
Các trường Ấu học cũng thường xuyên được kiểm tra bởi các giáo thụ, huấn
đạo, Đốc học, tri phủ hay tri huyện hoặc của nhân viên sở giáo dục.
Giáo dục bậc Ấu học bao gồm 2 phần: Tiếng Việt và tiếng Hán. Học sinh có
thể lựa chọn học tiếng Việt hoặc tiếng Hán.
Ở phần tiếng Hán, chương trình chủ yếu tập trung dạy tiếng Hán, các bài học
về đạo đức, lịch sử, dịa dư Việt Nam bằng tiếng Hán.
Phần tiếng Việt chủ yếu dạy chữ Latinh, các kiến thức căn bản về Đông
Dương, hành chánh, phong tục tập quán, toán học,…
Để kết thúc chương trình bậc Ấu học, học sinh phải trải qua một kỳ thi gọi là
“hạch tuyển”, nếu đậu sẽ được cấp bằng “tuyển sinh”.
Đối với mỗi giáo viên giảng dạy trong bậc Ấu học yêu cầu phải biết chữ
Quốc ngữ, nếu không sẽ không được giảng dạy. Chữ Quốc ngữ cho giáo viên
được chính quyền tổ chức dạy tại trung tâm mỗi tỉnh.
• 

Trường tiểu học được mở tại huyện và phủ của mỗi tỉnh do các giáo thụ,
huấn đạo chịu trách nhiệm. Chi phí để duy trì trường sẽ do tỉnh chi trả. Các học
sinh đã đỗ trong kỳ thi “hạch tuyển” (có bằng “tuyển sinh”) mới được nhận vào
học trong bậc tiểu học.
Chương trình tiểu học bao gồm hai phần bắt buộc: tiếng Hán và Tiếng Việt.
Tiếng Pháp là không bắt buộc nhưng cũng khuyến khích học sinh học tiếng Pháp.
Chương trình học tiếng Hán bao gồm các môn về đạo đức, văn học cổ điển,
lịch sử Trung Hoa và Việt Nam.
Chương trình học tiếng Việt bao gồm các môn tiếng Việt, khái quát lịch sử,
địa lý và khoa học.
Để kết thúc chương trình bậc tiểu học, học sinh phải trải qua một kỳ thi gọi
là “khảo khóa” (chỉ những người nào có bằng tuyển sinh và dưới 22 tuổi mới được
dự thi kỳ thi này) và sẽ được cấp bằng “khóa sinh”.
Chương trình thi gồm ba bài viết bắt buộc:
Một bài Hán văn về đạo đức, lễ nghĩa hoặc lịch sử Trung Hoa, lịch sử Việt
Nam.
Một bài Việt văn về lịch sử, địa lý hoặc khoa học.
Một bài dịch từ tiếng Hán sang tiếng Việt hoặc từ tiếng Việt sang tiếng Hán.
Ngoài ra các thí sinh có thể tham gia vào một bài thi phụ bằng tiếng Pháp,
thông thường là bài dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Việt. Điểm sẽ được cộng thêm
vào điểm các môn thi.
Các khóa sinh đâu cao sẽ được miễn 3 năm sưu dịch. Và cũng từ cuộc cải
cách này, những người nào tốt nghiệp tiểu học và biết chữ Quốc ngữ mới được
nhận vào làm trong các cơ quan nhà nước.
Lớp học chữ Quốc ngữ sẽ được tổ chức tại trung tâm mỗi tỉnh, do các huấn
đạo và giáo thụ phụ trách.
• 
Trường được mở tại các tỉnh lỵ do các đốc học phụ trách và chỉ có các học
sinh đã vượt qua kỳ “khảo khóa” (có bằng khóa sinh) mới được nhận vào học.
Chương trình bậc trung học bao gồm tiếng Hán, tiếng Việt và tiếng Pháp.

Phần học tiếng Pháp sẽ do các giáo viên trường Pháp – Việt phụ trách.
Chương trình học tiếng Hán bao gồm các môn về đạo đức, văn học cổ điển,
lịch sử và hành chánh Việt Nam.
Chương trình học tiếng Việt bao gồm các môn học về lịch sử, địa lý và khoa
học tự nhiên.
Chương trình bằng tiếng Pháp bao gồm các bài học cơ bản về tiếng Pháp.
Để kết thúc khóa học, học sinh phải trải qua kỳ thi “sát hạch” (chỉ những
người nào đã có bằng khóa sinh và dưới 30 tuổi mới được dự thi) và người đậu sẽ
được cấp bằng “thí sinh” và được tham dự vào kỳ thi Hương.
• 
Thi Hương được tổ chức cùng lúc trong các thành phố lớn và được duy trì
đến năm 1918. Các thí sinh đã đỗ kỳ sát hạch được phép tham dự kỳ thi này.
Chương trình thi bao gồm:
Một bài viết bằng tiếng Hán bao gồm 5 chủ đề: Đạo đức; văn học hoặc triết
học; lịch sử, địa lý Trung Hoa, Việt Nam; hành chánh và luật pháp Đông Dương
Một bài viết bằng tiếng Việt gồm 3 chủ đề: làm văn; lịch sử, địa lý và khoa
học tự nhiên.
Một bài viết bằng tiếng Pháp gồm 2 chủ để: Một bài dịch từ tiếng Hán sang
tiếng Pháp và một bài dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Việt.
Một bài tổng kết gồm 3 chủ đề: 1 bài viết tiếng Hán, 1 bài viết tiếng Việt, 1
bài dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Hán.
Dựa vào kết quả thi, các thí sinh sẽ nhận bằng “cử nhân” hoặc “tú tài”. Cử
nhân và tú tài sẽ được miễn sưu dịch suốt đời.
 !
Giáo dục Pháp – Việt là một kiểu giáo dục tổng hợp mà không cần tiền từ
ngân sách, nó thu hút tất cả giáo viên trường Nho giáo học chữ Quốc ngữ, các Đốc
học phải theo những chỉ dẫn từ các trường Pháp. Nền giáo dục sẽ gồm những bằng
cấp, những kỳ thi và ban giám khảo như trước. Chúng ta sẽ bổ sung thêm, chẳng
hạn trong các kỳ thi Đại khoa sẽ có thêm tiếng Pháp, ban giám khảo sẽ có người
Pháp trực thộc nhân sự của học chính Đông Dương. Bằng cấp cho những người đỗ

Đại khoa sẽ có ghi thêm những môn học mới này theo chương trình do toàn quyền
đề ra (theo Dumoutier_ Trần Thị Phương Hoa (2012), Giáo dục Pháp – Việt ở Bắc
Kỳ (1884 – 1945), NXB. KHXH).
Hệ thống trường Pháp – Việt được thành lập ở Nam kỳ năm 1897, ở Bắc Kỳ
năm 1904 và trung Kỳ năm 1906.
Mục đích của cuộc cải cách trong hệ thống các trường Pháp – Việt nhằm đào
tạo ra những nhân viên cho các ngành kinh tế, hành chính và sư phạm. Hệ thống
trường Pháp – Việt được tổ chức gồm hai bậc: tiểu học và trung học.
• 
Bậc tiểu học Pháp – Việt có 4 lớp: lớp tư, lớp ba, lớp nhì và lớp nhất. Học
sinh có bằng “tuyển sinh” (bậc Ấu học) được nhận vào trường tiểu học Pháp –
Việt. Cuối bậc có kỳ thi lấy bằng tiểu học Pháp – Việt. Chương trình học hầu hết
bằng tiếng Pháp với các môn:
Tập viết.
Từ vựng và tập đối thoại.
Tập làm văn
Học thuộc lòng
Lịch sử
Chính tả
Địa dư
Cách trí
Luân lý
Toán pháp
Đo lường
Kế toán
Hình học
Tiếng Việt và tiếng Hán chiếm một tỷ lệ rất thấp. Cụ thể (tính theo tuần lễ):
Tiếng Việt Tiếng Hán Tiếng
Pháp
Lớp tư 3 giờ 45

phút
30 phút 23 giờ 30
phút
Lớp ba 5 giờ 15
phút
30 phút 22 giờ
Lớp nhì 3 giờ 45
phút
30 phút 23 giờ 30
phút
Lớp nhất 3 giờ 45
phút
2 giờ 22 giờ
Môn tiếng Pháp, chương trình chú trọng dạy cho học sinh ngay từ lớp tư khi
mới bước vào lớp.
Tập
đọc
Từ
vựng
Làm
văn
Thuộc
lòng
Lớp tư 7 giờ 4 giờ 45
phút
30
phút
Lớp ba 4 giờ 3 giờ 2 giờ 30
phút
Lớp

nhì
3 giờ 2 giờ 2 giờ 1 giờ
Lớp
nhất
2 giờ 1 giờ
Các môn dạy bằng tiếng Việt và tiếng Hán bao gồm:
Chữ Quốc ngữ
Chính tả
Luận
Tập dịch Việt – Pháp
Học thuộc lòng
Chữ Hán
• 
Sau khi tốt nghiệp bậc tiểu học, học sinh được thi vào trường trung học. Bậc
này chia làm: trung học đệ nhất cấp và trung học đệ nhị cấp. Trung học đệ nhất cấp
học 4 năm. Trong thời gian học đệ nhất cấp, học sinh nhắm sẵn hướng đi để chọn
ngành mình sẽ học khi lên đệ nhị cấp. Đệ nhị cấp học 1 năm và được chia thành 2
ban:
Ban khoa học (chia làm 3 ngành: nông nghiệp, công nghiệp và thương
nghiệp; mục đích là đào tạo những nhân viên cho các ngành kinh tế; trọng tâm học
là các môn hoa học thực hành). Học ban khoa học còn có thể thi vào lớp sư phạm
hoặc chính pháp.
Ban văn học: học thêm một ít chương trình của ban tú tài Pháp.
"# $%&'(
• # $%&)
Giáo dục nghề bao gồm các lĩnh vực:
Giáo dục kỹ thuật công nghiệp Pháp: đào tạo công nhân lành nghề phục vụ
cho công việc khai thác thuộc địa và cho các ngành công nghiệp: thợ máy, thợ
nguội, thợ rèn, thợ điện, tài xế,… ngoài ra cũng có một khoa đào tạo tài công, thợ
máy cho xà lan, tàu thủy (trường thợ máy châu Á Sài Gòn).

Giáo dục kỹ thuật công nghiệp bản xứ (thường gọi là các ngành nghề
công nghiệp mới): đào tạo công nhân cho các ngành nghề gốm sứ, dệt may, thuộc
da,… học sinh phải trải qua từ 2 đến 3 năm học trở lên và sẽ được đào tạo thành
những công nhân lành nghề trong các xí nghiệp.
Các xí nghiệp gia đình: dạy nghề cho các công nhân đến học để nâng
cao tay nghề.
Nghề thủ công truyền thống bản địa: khôi phục lại nghệ thuật truuyền
thống của địa phương. Chủ yếu là trang trí đồ sứ, điêu khắc gỗ, làm đồ gốm.
Chương trình học chủ yếu là thực hành và được giảng dạy bằng tiếng mẹ đẻ
là chủ yếu. Chương trình học cũng được nghiên cứu cụ thể đối với từng đối tượng
học. Đối với học sinh học ngành công nghiệp châu Âu thì học một số lý thuyết, vẽ
kỹ thuật và hình học. Đối với học sinh học nghề truyền thống bản địa thì tập trung
vào từng nghề và nâng cao năng khiếu nghề nghiệp.
• *
Các trường nữ được mở ra do phong trào đấu tranh chống lại định kiến xã
hội và đòi quyền được đến trường của nữ giới những năm 1906 – 1907. Trường
được duy trì từ nguồn đóng góp của cộng đồng dân cư sống ở thuộc địa và chính
quốc.
Trường dành cho nữ sinh bao gồm ba loại:
Trường sơ học: học chung với nam.
Trường tiểu học: tổ chức tại các tỉnh lỵ do các nữ giáo viên người Pháp phụ
trách.
Trường cao đẳng tiểu học: tổ chức tại thủ phủ các xứ (thành phố lớn trong
xứ) để đào tạo nữ giáo viên.
Chương trình học trong các trường nữ chủ yếu là thực hành, bao gồm một
chương trình chung dạy bằng tiếng mẹ đẻ (tập đọc, tập viết, làm toán và vệ sinh) và
một chương trình thực hành bao gồm các môn gia chánh và những nghề thủ công
chỉ dành riêng cho nữ (thêu, đan, may vá, làm bánh,…). Trong các trường tiểu học,
tiếng Pháp là tự nguyện, còn trong các trường cao đẳng tiểu học đó là ngôn ngữ bắt
buộc.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×