CHƯƠNG XI
LUẬT MÔI TRƯỜNG QUỐC TẾ
So với những ngành truyền thống của luật quốc tế,
những nguyên tắc và quy phạm của luật quốc tế về mơi
trường cịn khá mới mẻ. Mặc dầu vậy, nhận thức về môi
trường và tầm quan trọng của mơi trường, bảo vệ và gìn giữ
mơi trường của nhân loại là mối quan tâm lớn của cộng đông
quốc tê. Nghiên cứu luật môi trường quốc tế đang trở thành
một xu thế phát triển của khoa học luật quốc tế ngày nay.
Chương này nghiên cửu'trước hết những vấn đề cơ bản
về luật môi trường quốc tế bao gồm sự hình thành và phát
triển, chủ thể, nguồn và các nguyên tắc cơ bản của ngành luật
này. Phần tiếp theo của chương này giới thiệu những lĩnh vực
điều chỉnh cơ bản của luật môi trường quốc tế bao gồm lĩnh
vực bảo vệ mơi trường biển, bảo vệ khí quyển, đa dạng sinh
học, kiểm soát quốc tế đối với các chất và chất thải nguy hại.
I. KHÁI QUÁT VÈ LUẬT MÔI TRƯỜNG QC TÉ
1.1. Khái niệm luật mơi trường quốc tế
So với các ngành luật độc lập khác trong hệ thống pháp
luật quốc tế như luật biển quốc tế, luật ngoại giao và lãnh sự
hay luật quốc tế về quyền con người, luật môi trường quốc tế
là một ngành luật mới mẻ. Khái niệm về một hệ thống các
nguyên tắc và quy phạm điều chỉnh vấn đề môi trường ở
phạm vi toàn cầu chỉ được đê cập đến kể từ thế kỷ thứ 19.
Bên cạnh đó, cho đến nay vẫn chưa có một thiết chế tồn cầu
để điều chinh các vấn đê mơi trường (ví dụ như Tổ chức
Thương mại thế giới WTO) hay một cơ quan giải quyết tranh 1
1 Catherine Redwell, “International environmental law”, trong Malcolm D
Evans (ed), International law , 3rd ed, 2010, tr. 689.
200
chấp về vấn đề này (tương tự như cơ quan giải quyết tranh
chấp qc tê của WTO hoặc Tịa Trọng tài để giải quyết các
tranh chấp quốc tế về luật biển).
Mặc dù vậy, luật môi trường quốc tế đảm bảo các tiêu
chí của một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật quốc
tế. Điều này thể hiện ở sự thống nhất về chủ thể, nguồn và
phương pháp điều chỉnh, về đối tượng điều chỉnh, luật môi
trường quốc tế điều chỉnh hoạt động của các quốc gia và chủ
thể khác của luật quốc tế trong việc khai thác, bảo vệ và gìn
giữ mơi trường quốc tế và tài ngun thiên nhiên và các vấn
đề quốc tê khác liên quan mật thiết đến môi trường và sự phát
triển chung của cộng đồng quốc tế. Đổi tượng điều chỉnh của
luật môi trường quốc gắn liền với định nghĩa về môi trường.
Khái niệm “mơi trường” nhìn chung chưa được định
nghĩa một cách đầy đủ.2 Chẳng hạn, Công ước của LHQ về
luật biển năm 1982 đưa ra định nghĩa về khái niệm “ô nhiễm
môi trường biển” trong khi khái niệm “môi trường biển” lại
không được định nghĩa một cách đầy đủ. “Môi trường”
thường được định nghĩa một cách bao trùm trong một sô
công ước quốc tế về môi trường. Chẳng hạn, tại Điều 2
khoản 10 của Công ước của Cộng đồng châu Âu năm 1993
về trách nhiệm dân sự đối với những thiệt hại gây ra bởi
những hành vi nguy hiểm đối với môi trường, “môi trường”
được định nghĩa là “các nguồn tài ngnvên thiên nhiên hữu
sinh và vơ sinh như khơng khí, nước, đất, động thực vật và
Sự tương hô giữa chúng; những tài sản tạo thành di sản văn
hóa và những yếu ¡Ạ đặc thù của cành quan”. Định nghĩa
này đã bao quát các đối tượng bảo vệ được đề cập trong các
công ước quôc tế quan trọng vê môi trường như: các di sàn
2 Catherine Redwell, sđd, tr. 688.
201
thiên nhiên và văn hóa;3 các giống và lồi cần được bảo vệ4
và sự ô nhiễm môi trư ờng.5
Luật môi trường quốc tế, với tư cách là m ột ngành độc
lập của luật quốc tế, bao gồm những nguyên tắc và chuẩn mực
về bảo vệ và gìn giữ mơi trường, nghĩa vụ và trách nhiệm của
các quốc gia trong việc tuân thủ những cam kết vê môi
trường, cơ chế thực thi trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực
môi trường và khung pháp lý trong những lĩnh vực môi
trường cụ thể. Phạm vi điều chỉnh của Luật môi trường quốc
tế bao quát nhiều lĩnh vực gắn liền với con người và sự phát
triển. N ghành luật này có mối liên hệ chặt chẽ với luật môi
trường quốc gia, thể hiện ở việc những lĩnh vực điều chỉnh
của luật môi trường quốc tế gắn liền với lợi ích của mỗi quốc
gia, các nguyên tăc và quy phạm của luật môi trường quốc tế
là cơ sờ cho việc quy định và tạo khuôn mẫu cho việc điểu
chỉnh ở phạm vi quốc gia, đồng thời việc thực hiện có hiệu
quả luật mơi trường quốc tế phụ thuộc rất lớn vào việc thực
hiện tại mỗi quốc gia. Do tính quốc tế của vấn đề mơi trường
m à ngày nay việc giải quyết bằng pháp luật vấn đề môi
trường ở phạm vi quốc gia không thể tách rời với việc giải
quyết ở quy mơ tồn cầu.
Mặc dù vậy, là một ngành mới, luật môi trường quốc tế
có những hạn chế so với những ngành luật khác trong hệ
thống luật quốc tế. Mặc dù số lượng các điều ước quốc tế
ngày càng phong phú và bao quát ở nhiều lĩnh vực môi
trường, phần lớn chúng được ghi nhận và áp dụng ở phạm vi
khu vực, các công ước ở quy mơ tồn cầu khơng nhiều. Ngồi
ra, việc áp dụng các quy phạm luật quốc tế về môi trường
3 Điều chinh bời cơng ưóc năm 1972 cùa UNESCO về việc bảo vệ các di sản
văn hóa và thiên nhiên cùa thê giới.
4 Đe cập trong công ước cùa LHQ năm 1992 về đa dạng sinh học.
5 Điều chinh bới các Công ước London 1972 vê sự thài đổ (dumping) và Công
ước cùa LHQ năm 1979 vê ô nhiêm khơng khí tâm xa xun biên giới.
202
thông qua cơ chế tài phán quốc tế cũng không nhiều, do đó
nhiều nguyên tắc, quy phạm và các tiêu chuẩn của luật môi
trường quốc tế chưa được làm rõ cũng như việc coi m ột số
nguyên tắc là nguyên tắc tập qn có tính bắt buộc cịn chưa
thống nhất. Do có sự khác biệt giữa lợi ích và trách nhiệm của
các nhóm quốc gia, nhiều nguyên tắc và quy phạm của luật
môi trường quốc tế dừng lại ở việc kêu gọi sự tự nguyện thực
hiện bởi các quốc gia. Bên cạnh đó, phần lớn các nguyên tắc
chưa được giải thích và thống nhất về m ặt khoa học, chỉ có
tính chất khung, mềm dẻo, thỏa hiệp, chủ yếu nhằm đạt được
những thỏa thuận sơ khởi để đối phó với những vấn đề mơi
trường nảy sinh trước mắt. N gồi ra, tính cưỡng chế thấp, cơ
chế thực hiện lỏng lẻo và thiếu vắng chế tài hữu hiệu cho việc
tuân thủ cũng là những điểm hạn chế khác của ngành luật này.
1.2.
quốc tế
Sự hình thành và phát triển của luật mơi trường
Mặc dù những quy định của ngành luật môi trường quốc
tế có nguồn gốc hình thành từ thế kỷ 19,6 những vẩn đề môi
trường chỉ bắt đầu trờ thành một chủ đề quốc tế kể từ sau Thế
chiến thứ nhất. Vụ kiện Trail Sm elter giữa Mỹ và Canada
năm 1941 là một trong những vụ việc đầu tiên trong lĩnh vực
này.7 Bắt đầu từ những năm 1960, mối quan tâm đơi với sự
suy thối của mơi trường ngày càng lớn.
Hội nghị về môi trường con người năm 1972 tại
Stockholm dưới sự bảo trợ của LHQ là một bước quan trọng
đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ ở phạm vi quốc tế. Tiếp theo
đó, LHQ thành lập một cơ quan chuyên trách trực thuộc Đại
hội đồng gọi là Chương trình của LHQ về môi trường ( U nited
Nations Environm ent Programme, UNEP) có trụ sở tại
6 Alexandre Kiss and Dinah Shelton, Guide to International Environmental
Law, Martinus Nijhoff Publishers, 2007.
7 Trail Smelter, UNRIAA, vol. HI (Series No. I949.V.2).
203
Nairobi (Kenya). Hiện nay UNEP là cơ quan quốc tế duy nhất
có chức năng tham gia giải quyết mọi vấn đề liên quan đến
môi trường mặc dù một số tổ chức quốc tế trong hệ thống
LHQ cũng gánh vác tích cực một phần trách nhiệm đối với
mơi trường tồn câu như Tổ chức Lương thực thế giới (F ood
and Agriculture Organization, FAO) chịu trách nhiệm về việc
bảọ tồn các nguồn tài nguyên đánh bắt hoặc Tổ chức Hàng hải
quôc tê (International Maritime Organization, IMO) chịu
trách nhiệm về việc bảo vệ mơi trường biển.
Nhìn chung, sự phát triển của luật mơi trường quốc tế có
thê chia thành 3 giai đoạn:8 giai đoạn trước Hội nghị
Stockholm, giai đoạn từ Hội nghị Stockholm đến Hội nghị Rio,
và giai đoạn từ Hội nghị Rio đếrrnay.
1.2.1. Giai đoạn trước H ội nghị Stockholm
Ở thế kỷ 19, các quốc gia đã bắt đầu có những thỏa
thuận ở mức độ khu vực nhăm điều chinh những hỉnh thức cụ
thể của ô nhiễm môi trường như ô nhiễm do khói bụi, tiếng ồn
hoặc ơ nhiễm nước và những tác động của chúng đối với con
người. Điều ước quốc tế đầu tiên được ký kết liên quan đến
thỏa thuận đánh băt cá nhăm mục đích đảm bảo duy trì việc
đánh bắt lâu dài các lồi có giá trị về kinh tế cũng như các
loài di cư hoặc cư trú trên biển cả. Điều ước tồn cầu đầu tiên
về mơi trường có thể kể đến là Cơng ước về bảo vệ các lồi
chim có ích cho nơng nghiệp ký năm 1902. Một số điều ước
quốc tế song phương và khu vực khác được ký kết nhằm giải
quyết những vấn đề riêng rẽ của môi trường.9
8 Phillips Sands, Principles of International Environmental Law, Cam bridge,
2nd ed. 2003; Alexandre Kiss and Dinah Shelton, sđd.
9 Cụ thể có thể kể đến Hiệp ước song phưorng giữa Mỹ và Anh về việc bào vệ
và bào tồn lồi hài cấu năm 1911 và Cơng ước về bảo tồn hải câu biên Băc
Thái Bình Dương năm 1957; các điều ước song phương về các dịng sơng và
hồ biên giới, chẳng hạn như Hiệp định vê sông biên giới giữa Mỹ và Canada
nam 1909 tron° đo đề cáp đến vấn đề ô nhiễm nguon nước và kiểm sốt ơ
204
Mặc dù có phạm vi điều chỉnh hạn chế, các điều ước
này đã tạo tiền đề cho các điều ước quốc tế về mơi trường sau
đó cụ thể như kêu gọi hợp tác, áp dụng các biện pháp bảo tồn
cu thể và điêu chỉnh hoạt động thương mại ở quy mô quôc tê.
Môt số điều ước trở thành khuôn mẫu cho các điều ước quốc
tế về sau, đặc biệt là các điều ước liên quan đến bảo tồn thiên
nhiên và các loại động vật hoang dã. Bên cạnh đó, một số án
lệ quốc tế cũng đóng góp quan trọng cho sự phát triển của
luật môi trường quôc tế thông qua việc ghi nhận các nguyên
tắc liên quan đến ô nhiễm xuyên biên giới (vụ Trail Sm elter
năm 1941) hay nghĩa vụ của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ
thuộc chủ quyền của mình khơng làm phương hại đến quyền
của quốc gia khác trong đó có vấn đề mơi trường (vụ Eo biển
Corfu năm 1949).
Sau Thế chiến thứ hai, những vấn đề mơi trường tồn
cầu ngày càng trở nên có tính thời sự với sự bùng nổ các hoạt
động kinh tế và phát triển công nghệ. Một số vấn đề liên
quan tới mơi trường địi hỏi cần được điều chỉnh như các sự
cố tràn dầu, việc phát triển và sử dụng năng lượng hạt nhân
và nguy cơ nhiễm phóng xạ, việc khai thác quá mức dẫn đến
tài nguyên sinh vật có nguy cơ bị cạn kiệt, viêc sử dụng hóa
chất và các chê phâm công nghiệp độc hại trong nông nghiệp
và sự mât cân đôi về phát triển kinh tế giữa các nước giàu và
nghèo... Trong bối cảnh đó, Hội nghị về môi trường được
triệu tập tại Stockholm năm 1972 dưới sự bảo trợ của LHQ.
Bên cạnh sự tham gia và thể hiện quan điểm của các quốc gia
đang phát triên, ý nghĩa quan trọng của Hội nghị Stockholm
là việc thông qua Tuyên bố Stockholm về môi trường và con
người cùng với một kế hoạch hành động bao gồm 109
nhiễm; Công ước về bảo tồn các loài động thực vật trong tình trạng thiên
nhiên cùa chúng năm 1933 (áp dụng cho các thuộc địa châu Phi và châu Phi
nói chung) và Công ước về bảo vệ thiên nhiên và bâo tồn hoang dã ở Tây bán
cầu năm 1940.
205
khuyến nghị và một nghị quyết về cam kết tài chính và tổ
chức. Đây được coi là những văn kiện quan trọng tồn cầu
đầu tiên có tính tồn diện về bảo vệ môi trư ờ n g .10 N hững
nguyên tắc quan trọng của Tuyên bố Stockholm có thể chia
thành 3 nhóm:
- Nguyên tắc thứ nhất: tuyên bố các quyền cơ bản của con
người và gắn chúng với việc bảo vệ và phát triển môi trường;
- N guyên tắc từ 2 đến 7: tuyên bố các thành phần của
tài nguyên thiên nhiên, nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ cho các thế
hệ tương lai, sự cần thiết phải quản lý đầy đủ về môi trường
và sự cần thiết phải hợp tác quốc tế và phối hợp hành động vì
mơi trường;
- Các nguyên tắc từ 21 đến 26: đề cập các nguyên tắc
của luật môi trường quốc tế, kêu gọi các quốc gia hợp tác phát
triển luật quốc tế về trách nhiệm và bồi thường đổi với ô
nhiễm và sự thiệt hại liên quốc gia.
1.2.2. Từ H ội nghị Stockholm đến H ội nghị Rio
Những kết quả của Hội nghị Stockholm có ý nghĩa quan
trọng đối với sự phát triển của luật môi trường quốc tế ở
những thập niên tiếp theo. Các điều ước quốc tế trong thời kỳ
này tập trung bảo vệ những lĩnh vực cụ thể của môi trường
như biển và các nguồn nước ngọt, khí quyền và khơng gian,
động thực vật hoang dã. Mặc dù vậy, cho đến những năm
1980, việc điều chỉnh những vấn đề môi trường một cách
riêng lẻ hoặc chỉ giải quyêt phân ngọn tỏ ra khơng có hiệu
quả trong việc chống lại sự suy thối mơi trường ngày m ột gia
tăng. Ngồi ra, các tơ chức qc tê cho thấy sự hạn chê của
mình trong việc giải quyết các vân đề môi trường. Điều đó
địi hỏi cộng đồng quốc tế phải có những nỗ lực hơn nữa cũng
như có cách tiếp cận một cách tổng thể nhằm giải quyết triệt *206
10 Alexandre Kiss and Dinah Shelton, sđd, tr. 35.
206
để nguồn ảnh hưởng cũng như nguy cơ dẫn đến thiệt hại cho
mơi trường.
Bên cạnh đó, kể từ những năm 1980 đã xuất hiện những
vấn đề môi trường mới chưa được nghiên cứu và điều chỉnh
trước đó như ơ nhiễm khơng khí tầm xa hay sự suy giảm của
tầng ozone, nguy cơ rị rỉ vả nhiễm phóng xạ từ các nhà m áy
điện nguyên tử, nhu cầu điều chỉnh đối với các hóa chất, chất
thải độc hại và quy trình có khả năng gây thiệt hại cho m ơi
trường. K ết quả là một loạt các điều ước quốc tế đã được ký
kết như Cơng ước tồn cầu về bảo vệ tầng ozone năm 1985 và
Nghị định thư M ontreal năm 1987, Công ước về thông báo
sớm về sự cố hạt nhân và Công ước về trợ giúp trong trường
hợp tai nạn hạt nhân hoặc sự cố phóng xạ năm 1986, C ông
ước Basel về vận chuyển các chất độc hại và việc xử lý và
một số điều ước quốc tế khu vực liên quan.
N goài ra trên cơ sờ nguyên tắc 21 của Hội nghị
Stockholm , một số nguyên tắc của luật mơi trường quốc tế
cũng đã được hình thành trong giai đoạn này. M ột ví dụ là các
nguyên tắc dưới hình thức các văn kiện được đưa ra bởi Tổ
chức hợp tác và phát triển (O rganisation fo r Econom ic C o
operation and D evelopm ent, OECD) sau đó được thơng qua
tại các văn kiện của UNEP, chẳng hạn như “Các nguyên tắc
ứng xử trong lĩnh vực môi trường hướng dẫn các quốc gia
trong việc bảo tồn và sử dụng hài hòa nguồn tài nguyên thiên
nhiên chia sẻ giữa hai hoặc nhiều quốc gia” năm 1978. Bên
cạnh đó, có thể kể đến một số nguyên tắc tập quán như công
nhận chủ quyền quốc gia đối với tài nguyên thiên nhiên,
nghĩa vụ đảm bảo giới hạn các hoạt động về môi trường trong
phạm vi tài phán quốc gia và không làm ảnh hưởng việc thực
hiện chủ quyền của quốc gia khác, nghĩa vụ thông báo và tư
vấn về các hoạt động có khả năng ảnh hưởng đến môi trường
cho các quốc gia liên quan hay nghĩa vụ đảm bảo sự tiếp cận
207
đối với các quy định về hành chính và tố tụng cho công dân
của những nước khác...
Sự phát triển mạnh mẽ của luật môi trường quốc tế thể
hiện ở việc gắn kết vấn đề bảo vệ môi trường với phát triển
kinh tế, đây là cách tiếp cận chủ đạo của luật môi trường quôc
tế trong giai đoạn này. M ột số cơ quan thúc đẩy việc xây
dựng luật môi trường theo hướng này như ủ y ban Thế giới về
m ôi trường và phát triển ( W orld Com mission on E nvironm ent
a n d D evelopm ent), sau đó gọi là ủ y ban B rundtland.11 Báo
cáo của ủ y ban Brundtland năm 1987 nhấn m ạnh sự cần thiết
của việc kết hợp chặt chẽ giữa các chính sách phát triển với
vấn đề m ôi trường, đặc biệt là đưa ra khái niệm “phát triển
bền vững” (sustainable developm ent). Đây là m ột tiền đề
quan trọng dẫn đến sự triệu tập Hội nghị của LHQ về môi
trường và phát triển tổ chức tại Rio de Janeiro, B razil tháng 6
năm 1992 (Hội nghị Rio).
1,2.3. Từ H ội nghị Rio đến nay
Hội nghị Rio đánh dấu sự chuyển biến quan trọng của
luật môi trường quôc tê kê từ sau Hội nghị Stockholm năm
1972. Đáng chú ý là hai công ước quan trọng: Công ước
khung của LHQ về biến đổi khí hậu và Cơng ước về đa dạng
sinh học. Bên cạnh đó là việc thơng qua Tun bố về mơi
trường và phát triển (Tuyên bố Rio) và Chương trình nghị sự
21 (A genda 21) cùng Tuyên bô các nguyên tắc về rừng.
Tuyên bố Rio bao gồm 27 nguyên tắc, cụ thể hóa sự kết
hợp giữa mơi trường và phát triển và khái niệm “phát triển
bền vững” nêu ra tại Báo cáo Brundtland. Trong đó, nguyên
tắc thứ 4 có ý nghĩa quan trọng nhất, theo đó, để đạt được sự
phát triển bền vững, bảo vệ môi trường phải trở thành m ột
phần khơng thể tách rời của tiên trình phát triển và không thể
11 ũ y ban này lấy theo tên của Thủ tướng Na Uy Gro Harlem Brundtland
được Đại Hội đồng LHỌ ùy nhiệm đứng đầu vào năm 1984.
208
xem xét một cách độc lập với tiến trình đó. Các nguyên tắc
khác nêu ra tại Tuyên bố Rio khẳng định lại những nguyên
tắc của Hội nghị Stockholm, chẳng hạn như những nguyên
tắc số 2 (về những tác động xuyên biên giới); nguyên tắc số
10 (về quyền thông tin của công chúng); nguyên tắc số 13
(kêu gọi sự phát triển của các quy định về trách nhiệm).
Đồng thời chúng trở thành những ngun tắc có tính pháp lý
bắt buộc đối với các quốc gia và chủ thể khác của luật môi
trường quốc tế thông qua việc được ghi nhận trong các cơng
ước quốc tế sau đó về mơi trường, chẳng hạn như các nguyên
tắc phòng ngừa (nguyên tắc 15), bên gây thiệt hại phải đền
bù (nguyên tắc 16) hay yêu cầu thực hiện đánh giá tác động
môi trường đối với các hoạt động đã lên kế hoạch (nguyên
tắc 17) hay đảm bảo sự tham gia của công chúng và tiếp cận
thông tin .12 Tuyên bố Rio và các nguyên tắc của nó ảnh
hưởng đáng kể đến sự phát triển của luật môi trường quốc tế,
đặc biệt là đến việc định hình hệ thống các nguyên tắc và quy
phạm điều chỉnh vấn đề môi trường, mặc dù một số nguyên
tắc và quy phạm chưa được làm rõ thông qua các cơ chế tài
phán quốc tế .13
Chương trình nghị sự 21 đặc biệt chú trọng vấn đề môi
trường và phát triển. Đây là một chương trình hành động bao
gồm 40 chương, đề cập 115 chủ đề cụ thể. Nội dung cơ bản
của Chương trình nghị sự 21 đề cập 4 vấn đề sau:
12 Những nguyên tắc nêu ra tại Hội nghị Rio đã được các quốc gia đưa vào các
Công ước quốc tế đa phương và trở thành những nguyên tắc có tính quy phạm
như Cơng ước của LHQ về việc sử dụng không định hướng các nguồn nước
quốc tế (the 1997 UN Convention on the Non-Navigational Uses o f
International Watercourses); Nghị định thư về an toận sinh học cùa Công ước
năm 1992 về đa dạng sinh học năm 2000; Công ước năm 1992 về bảo vệ môi
trường biển ờ Đông Bắc Đại Tây Dương (the 1992 Convention for the
Protection o f the Marine Environment o f the North-East Atlantic). Xem thêm
Alexandre Kiss and Dinah Shelton, Sild, tr. 39-40.
13 Gillian Triggs, International Law: Contemporary Principles and Practices,
LexisNexis Butterworth, 2011, tr. 906.
209
- Các khía cạnh kinh tế - xã hội của vấn đề mơi trường,
ví dụ như mơi trường số, sức khỏe, dân số học, tiêu dùng và
các mơ hình sản xuất;
- Bảo tồn và quản trị tài nguyên (khí quyển, rừng, nước,
chất thải, hóa ch ất...);
- Tăng cường vai trị của các tổ chức phi chính phủ và các
nhóm hoạt động xã hội như cơng đồn, hội phụ nữ, thanh niên;
- Các biện pháp thực thi, ví dụ như tài chính, thể chế...
Một số chương của Chương trình nghị sự 21 có ý nghĩa
quan trọng đơi với sự phát triển của luật môi trường quốc tế .14
Đặc biệt, các lĩnh vực khác của luật quốc tế cũng bắt
đầu gắn kết với vấn đề môi trường, nhiều điều ước quốc tế ra
đời sau Hội nghị Rio đều nhấn mạnh đến bảo vệ môi trường
như là mục tiêu chung của các quốc gia. Môi trường, bảo vệ
môi trường và hợp tác vê môi trường xuất hiện trong các lĩnh
vực truyền thống của luật quốc tế, những nội dung mới được
hình thành như thương mại và môi trường, môi trường và
quyền con người...
Kể từ sau Hội nghị Rio, các hội nghị thượng đỉnh lần
lượt được tổ chức, thể hiện sự quan tâm ngày càng cao của
14 Ví dụ, chương 39 về các,văn kiện pháp lý quốc tế và cơ chế nhấn mạnh yếu
tố pháp lý cùa sự phát triển bền vững và việc ấn định các tiêu chuẩn môi
trương keu gọi sự pháp điển hóa thống nhất các chính sách về mơi trường và
phát triển vào các điều ước quốc te, nhấn mạnh sự tham gia và đóng góp của
các quốc gia trong việc làm sáng tỏ luật môi trường quốc tế trong bối cảnh
phát triển bền vững và kêu gọi việc hoàn thiện các cơ chế và thủ tục nhăm
tăng cương hiệu quả cùa luật mội trường quốc tế. Chương 8 vệ gắn kết môi
trương va phat trien với việc quyết định chính sách nhấn mạrih tầm quan trọng
cua pháp lu ạt mơi trường quốc gia trong việc đưa các chính sách môi trường
và phát triển vào hành động, kẹu gọi ap dụng các phương thưc co tinh quy
phạm trong các chính sách vê kinh te kê hoạch và thị trương nham thực hiẹn
các nghĩa vụ quốc tế vê môi trương va nhân mạnh vai tro cua cac chinh phu
trong việc thực thi chính sách mơi trường và phát triên.
210
cộng đồng quốc tế về vấn đề môi trường. Các hội nghị này
đã kêu gọi sự hợp tác và nô lực hơn nữa của các quôc gia
trong việc tham gia giải quyết vấn đề môi trường, cụ thể như
chống sự suy thối mơi trường, phát triển bền vững và biến
đổi khí hậu.
Năm 2002, một hội nghị thế giới được tổ chức ở
Johanesburg nhằm khẳng định lại các cam kết đối với những
nguyên tắc nêu ra tại Hội nghị Rio và thực hiện triệt đê
chương trình nghị sự 21. Trong hội nghị này, các quốc gia đã
thông qua Tuyên bố về sự phát triển bền vững. Tuyên bô
khẳng định mong muốn của các quốc gia theo đuổi phát triên
môi trường bền vững.15
Tiếp theo đó, Hội nghị LHQ về biến đổi khí hậu diễn ra
tại Bali (Indonesia) tháng 12/2007 bao gồm 190 quốc gia
tham dự. Hội nghị mở đầu cho các đàm phán và thỏa thuận vê
ứng phó đối với biến đổi khí hậu tồn cầu. Các khuyến nghị
của Hội nghị Bali bao gồm việc xây dựng chương trình hợp
tác đa phương để tránh sự biến đổi khí hậu nguy hiểm sau
2012 trên cơ sờ Nghị định thư Kyoto16 cùng lộ trình cho đên
15 Điệu này thể hiện ở những điểm chính sau cùa tuyên bố:
- Tiếp tục phát triển và cũng cổ việc tuân thủ một cách độc lập và trên cơ sờ
qua lại các chủ đề chính của phát triển bền vững: phát triển kinh tế, phát triên
xã hội và bào vệ môi trường ờ các câp độ địa phương, quốc gia và tồn câu;
- Nhấn mạnh mơi trường tồn cầu đang tiếp tục bị ảnh hương và những biêu
hiện cụ thể như việc mất đa dạng sinh học, suy giảm các đàn cá, sa mạc hóa,
biến đỗi khí hậu và ơ nhiễm khơng khí, nước và đại dương;
- Khuyến khích các nền kinh tế lớn trở thành “đối tác” cho việc tăng cường
phát triển bền vững;
- Khẳng định giá trị cùa Chương trình nghị sự 21 đổi với việc giải quyết các
vân đề môi trường;
- Kêu gọi sự lưu tâm hàng đầu đối với việc thực hiện và tuân thủ các hiệp định
quôc tế về môi trường mà các bên đã ký kết và sự hợp tác giữa ban thư ký các
hiệp định đa phương về môi trường.
Nghị định thư Kyoto bao gồm các cam kẹt dược tiến hành dựa trên các
nguyên tắc của Chương trình khung vê biên đơi khí hậu của với mục tiêu chù
211
2020; xây dựng và triển khai các chính sách lập ngân quỹ
carbon ở các quốc gia m ang tính bền vững; tăng cường sự hợp
tác quốc tế và nêu vấn đề thích ứng với biến đổi khí hậu.
Gần đây nhất, Hội nghị thượng đỉnh của LHQ về biến đổi
khí hậu (COP15) diễn ra tại Copenhagen (Đan M ạch) tháng 12
năm 2009. Hội nghị nhắm đến mục tiêu cắt giảm khí thải gây
hiệu ứng nhà kính cũng như việc hỗ trợ tài chính cho việc cắt
giảm và khắc phục sự biến đổi khí hậu tại các quốc gia đang
phát triển. Tuy nhiên, hội nghị này không đạt được sự đồng
thuận về những vấn đề liên quan như mục tiêu cắt giảm cụ thể,
cơ chế giám sát, quản lý tài chính, tương lai của Nghị định thư
Kyoto và việc cứu rừng nhiệt đới.
1.3. Chủ thể của luật môi trường quốc tế
Chủ thể trước tiên và chủ yếu của luật môi trường quốc
tế chính là các quốc gia. Đ iều này được lý giải bởi các vấn đề
môi trường liên quan trực tiếp đến các quốc gia. Việc giải
quyêt ô nhiêm môi trường, chia sẻ và sử dụng chung các
nguôn tài nguyên thiên nhiên cũng như bảo tơn và gìn giữ hệ
sinh thái... là những vấn đề có tính chất “xun biên giới”
hoặc “ liên quốc gia” . Bên cạnh đó, việc giải quyết những vấn
đề tồn cầu về mơi trường ngày nay rất cần đến sự hợp tác
của các quốc gia, những chủ thể cơ bản của luật quốc tế.
yếu là cắt giảm lượng khí thài gây hiệu ứng nhà kính. Bản dự thảo của Nghị
định thư được kí kêt vào ngày 11 tháng 12 năm 1997 tại Kyoto, và chính thức
có hiệu lực vào ngày 16 tháng 2 năm 2005. Những quốc gia tham gia kí kết
phải châp nhận việc căt giảm khí C 0 2 và năm loại khí gây hiệu ứng nhà kính
khác, cũng như tiến hành biện pháp thay thê như khác nếu không muốn đáp
ứng yêu cầu đó. Theo Nghị định thư Kyoto, các nước phát triển được xếp vào
nhóm Annex / và phải tuân theo các cam kết nhằm cắt giảm khí gây hiệu ứng
nhà kính đồng thời phái có bàn đệ trình thường niên về các hành động cắt
giảm khí thài. Các nước đang phát triên được xếp vào nhóm Non-Annex / và
khơng chịu ràng buộc bới các nguyên tăc ứng xù như các nước nhóm Annex I
nhưng có quyền tham gia vào Chương trình cơ câu phát triên sạch.
212
Chủ thể tiếp theo của luật môi trường quốc tế là những
tơ chức quốc tế liên chính phủ hoạt động trong lĩnh vực mơi
trường. Tổ chức quốc tế liên chính phủ tồn cầu quan trọng
nhất là LHQ có vai trị tích cực trong việc đề xuất thảo luận,
đàm phán và ký kết các điều ước quốc tế về môi trường. Các
tô chức quốc tế khu vực như Liên m inh châu Âu {European
Union, EU) cũng hoạt động khá tích cực trong việc cho ra đời
các văn kiện quốc tế giải quyết những vấn đề liên quan đến
môi trường trong phạm vi khu vực. Ngoài ra, các tổ chức này
tham gia vào các công ước quốc tế về môi trường với tư cách
thành viên như trường hợp của Liên minh châu Âu ELI là
thành viên của Công ước về biển đổi khí hậu 1992 và Nghị
định thư Kyoto 1997.
Ngồi ra, các chủ thể đặc biệt trong quan hệ quốc tế
(vùng lãnh thổ, các dân tộc đang đẩu tranh giành quyền tự
quyêt) vê nguyên tắc cũng có thê tham gia giải quyêt các vân
đề mơi trường quốc tế.
Bên cạnh đó, trong việc tham gia giải quyết các vấn đề
môi trường quốc tế, tuy không được coi là những chủ thể của
luật quôc tê, các tơ chức phi chính phủ cũng đóng vai trị rât
tích cực. Các tổ chức này hoạt động tích cực trong việc thúc
đây quá trình đàm phán và ký kêt các điêu ước quôc tê đa
phương về môi trường cũng như thúc đẩy quá trình thực thi
các điều ước đ ó.17 Ngồi ra, đỏng vai trị là Ban thư ký của
Công ước năm 1971 về những vùng đất ngập nước có tâm
quan trọng quốc tế (RAMSAR) là Liên minh Quốc tê vê bảo
tồn thiên nhiên {International Union fo r the Conservation o f
17 Chẳng hạn, Hội đồng quốc tế về bàc tồn chinV {International Council for
Bird Preservation, ICBP) và Văn phòng nghiên cứu vê chim bơi dưới nước và
đất ngập mặn quốc tế ( International Waterfowl and Wetlands Research
Bureau, IWRB) có vai trị rất tích cực trong q trình ký kết và thực hiện
Công ước về tầm quan trọng cùa những vùng đầm lầy (Công trớc Ramsar
1971). Xem Catherine Redwell, sđd, tr. 692.
213
Naíure IU C N ),n là một cơ quan phối họp giữa các chính phủ
và tơ chức phi chính phủ.1819 Hiện nay, sự tham gia của các tơ
chức phi chính phủ trong quá trình đàm phán và ký kết các
điều ước quốc tế về môi trường ngày càng được mờ rộng. Đây
là một khuynh hướng mở rộng sự tham gia vào việc giải qut
các vấn đề mơi trường tồn cầu, phù hợp với việc coi các vấn
đề môi trường là mối quan tâm chung của toàn nhân loại. Tuy
nhiên, mặc dù sự đóng góp ngày càng lớn của các tổ chức phi
chính phủ vào sự phát triển của luật mơi trường quốc tế là
không thể phủ nhận, lý luận về chủ thể của luật quốc tế hiện
nay không coi những tổ chức này là chủ thể của luật môi
trường quốc tế.
Ỉ.4. Nguồn của luật môi trường quốc tế
về mặt lý luận, luật mơi trường quốc tế có nguồn điều
chỉnh là các nguôn cơ bản của luật quôc tê và các nguôn bô
trợ.20 Cụ thể, các nguồn cơ bản của luật môi trường quôc tê là
các điều ước quốc tế về môi trường và các tập quán quốc tê.
Các nguồn bổ trợ chính của luật mơi trường quốc tế lậ các
ngun tắc pháp luật chung, phán quyết của Tòa án Quốc tê,
các học thuyêt pháp lý của những học giả hàng đầu vê luật
quốc tế và nghị quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ
liên quan đến vấn đề môi trường.
1.4.1. Điều ước quốc tế về m ôi trường
Các điều ước quốc tế là nguồn cơ bản và quan trọng
nhất của luật mơi trường quốc tế trong đó ghi nhận các thỏa
thuận, cam kết của các quốc gia và các chủ thể khác của luật
quốc tế liên quan đến lĩnh vực môi trường. Chúng trở thành
nguồn luật quan trọng điều chỉnh hành vi của các chủ thê luật
18 Xem IUCN website />19 Xem thêm Alexandre Kiss and Dinah Shelton, sđd, tr. 70.
,
20 Các loại nguồn này được liệt kê tại Điều 38 Quy chế tịa án qc tê.
214
quốc tế trong lĩnh vực này thông qua tuân thủ ở phạm vi quốc
gia.
Những thỏa thuận mang tính chất đồng thuận
(,consensus) và chấp thuận cả gói (packơge deal) trong các
điều ước về mơi trường có ý nghĩa quan trọng cho phép các
quốc gia giải quyết các vấn đề cụ thể như ơ nhiễm tầm xa
xun biên giới, biến đổi khí hậu và bảo tôn sự đa dạng sinh
học... ngay cả khi giữa các quốc gia cịn có khác biệt vê
những vấn đề phát sinh và cách thức xử lý.
Các điều ước quốc tế về mơi trường hiện nay thường đóng
vai trò như những điều ước khung ựramework) quy định những
vấn đề cơ bản mang tính nguyên tắc cũng như cơ cấu tổ chức của
các cơ quan được thành lập trên cơ sở điều ước (treaty bodỉes)
như ban thư ký, các ủy ban kỹ thuật... Những vấn đề liên quan
đên việc thực thi, ân định những tiêu chuân kỹ thuật cụ thê và
sừa đổi bổ sung điều ước thường sẽ được thông qua bởi các nghị
định thư hoặc văn kiện kèm theo và các văn bản đó được xem
như là một bộ phận cấu thành của điều ước này. Cách tiếp cận
như vậy cho phép các điều ước quốc tế có thể được điều chinh
kịp thời và thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của vân đê
mơi trường trên thực tế.21
Ngoài cách tiếp cận “khung” như trên, các điều ước
quốc tế về mơi trường cịn có tính chất mềm dẻo cho phép
công nhận một số khác biệt trong việc thực thi các nghĩa vụ
điều ước. Ví dụ, Điều 3(1) của Cơng ước về biến đổi khí hậu
cơng nhận trách nhiệm chung nhưng có sự khác biệt do khả 21
21 Ví dụ như Cơng ước khu vực năm 1979 về Ơ nhiễm khơng khí tầm xa xun
biên giới có 8 Nghị định thư kèm theo. Nghị định-thư Kyoto năm 1997 kèm
theo Cơng ước cùa LHQ năm 1992 về Biến đổi khí hậu. Công ước vê Ngăn
ngừa các ô nhiễm từ tàu thuyền (MARPOL) số 1973/78 trong khuôn khô Tô
chức Hàng hải quốc tế hiện nay có 6 văn bản đính kèm. Công ước về bảo vệ
■nôi trường Đông Bắc Đại Tây Dưong năm 1992 (OSPAR) hiện tại có 5 văn
bàn kèm theo và 3 phụ lục.
215
năng khác nhau của các quốc gia trong việc thực hiện nghĩa
vụ bảo vệ và gìn giữ hệ thống khí hậu toàn cầu. v ấ n đề này
được thê hiện ờ việc kêu gọi các quốc gia phát triển có trách
nhiệm tiên phong trong việc chống lại sự biến đổi khí hậu và
những tác hại của nó. Sau đó, Nghị định thư Kyoto năm 1997
có quy đinh chỉ những qc gia phát triển mới là đối tượng
của những mục tiêu cụ thể và thời gian biểu cho việc cắt giảm
khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Tại Cơng ước của LHQ về
biên đơi khí hậu năm 1992, các quốc gia thành viên sẽ thực
hiện nghĩa vụ của mình tùy theo khả năng và điều kiện thực tê
của quốc gia mình.
Nhìn chung, các điều ước quốc tế về môi trường hiện
nay thường không ân định một cách chi tiết các nghĩa vụ pháp
lý đôi với các bên cũng như vấn đề thực hiện chúng. Các điều
ước thường mang tính chất định hướng và kêu gọi sự hợp tác
và tuân thủ một cách có thiện chí của các quốc gia thành viên.
Những vân đê cụ thê và việc thực thi thông thường sẽ được
giải quyết bởi nhiều điều ước quốc tế ký kết tiếp theo dưới
hình thức nghị định thư hoặc văn bản kèm theo có giá trị pháp
lý ràng buộc.
1.4.2. Tập quán quốc tể về môi trường
Tập quán quốc tế về môi trường là một loại nguồn
không thành văn của luật mơi trường quốc tế. Mặc dù vậy,
chúng có giá trị pháp lý ràng buộc đối với tất cả các quốc gia
và chủ thê khác của luật quôc tê. Nhiêu tập quán quôc tê đã
được thừa nhận rộng rãi và được áp dụng như là những
nguyên tắc chuyên biệt của luật mơi trường quốc tế. Chẳng
hạn, các ngun tắc địi hỏi bên gây ơ nhiễm phải gánh chịu
chi phí cho việc ô nhiễm, nguyên tắc tiến hành các hành động
phòng ngừa hoặc nguyên tăc vê việc sử dụng chung các
nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguyên tăc phát triên bên
vững... được ghi nhận trong nhiêu điều ước quôc tê vê môi
trường hiện nay phát sinh từ những nguyên tắc tập quán hình
216
thành từ thực tiễn quan hệ quốc tế và được cơng nhận như là
những ngun tắc có giá trị pháp lý bắt buộc.
Bên cạnh việc được khẳng định trong các điều ước quốc
tế, các tập quán quốc tế trong luật mơi trường quốc tê cịn
được sử dụng trong các phán qut của tịa án qc tê và cơ
quan giải qut tranh chấp như một nguôn luật đê giải quyêt
các vụ tranh chấp về môi trường. Các tập quán quốc tế mới có
thể được hình thành trên cơ sở giải thích và vận dụng các
phán quyết của tòa án trong những vụ việc cụ thể.
Các tập quán quốc tế về môi trường thơng thường được
hình thành từ thực tiễn quan hệ giữa các quốc gia. Chẳng hạn
như các nguyên tắc về “khơng gây hại” hay cịn gọi là tập
qn vê “láng giềng tốt” vốn được hình thành từ thực tiễn giải
quyết các vân đê ô nhiễm xuyên biên giới mà tiêu biêu là vụ
Trail Sm elter giữa Mỹ và Canada. Trên cơ sở đó, nguyên tăc
này được áp dụng một cách rộng rãi, buộc các quốc gia phải
ngăn chặn, giảm thiểu và kiểm sốt ơ nhiễm cũng như gây hại
cho mơi trường, thông báo và tham vấn về các nguy cơ gây
thiệt hại cho môi trường.
1.4.3. Các nguồn bổ trơ của luật m ôi trường quổc tê
Lý luận về nguồn của luật quốc tế cho phép phân biệt
giữa các nguyên tắc pháp luật chung được đề cập tại Điêu 38
của Quy chê Tòa án quốc tế và các nguyên tắc nền tảng của
luật môi trường được thể hiện trong tinh thần của các văn
kiện thông qua tại các hội nghị quốc tế về môi trường quan
trọng như Hội nghị Stockholm và Rio de Janeiro.
Các phán quyết của Tịa án Cơng lv quốc tế của LHQ
cũng như các thiết chế tài phán đóng vai trị như những ngn
bổ trợ bởi lẽ tự bản thân nó khơng sinh ra các quy phạm pháp
lý có giá trị bắt buộc các chủ thể phải tuân theo. Tuy nhiên,
chúng có vai trị quan trọng đơi vói sự hình thành và phát
217
triển của luật mơi trường quốc tế. Trong q trình xét xử,
phân tích và lập luận, các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế
nói chung và các nguyên tắc của luật mơi trường được làm
sáng tỏ, từ đó có thể được viện dẫn để áp dụng cho những vụ
việc khác. Các phán quyết của tòa án là cơ sở để hình thành
những quy phạm tập qn của luật mơi trường quốc tế. Ví dụ
tiêu biểu là các phán quyết của Tịa án Cơng lý quốc té trong
vụ G abcikovo - Nagym aros (Hungary và Slovakia);22 Pulp
M ills (A rgentina và U rugoay);23 Tòa Trọng tài thường trực
(Perm anent Court o f A rbitration, PCA) trong vụ M O X p la n t
giữa Ireland và A nh,24 Iron Rhine (Bỉ và Hà Lan),25 phán
quyết của Tòa án Quốc tế về luật biển (International Tribunal
fo r the Law o f the Sea, ITLOS) trong vụ M O X (Ireland và
A nh);26 phán quyết của Trung tâm Quốc tế về giải quyết các
tranh chấp về đầu tư (International Centre fo r the Settlem ent
o f Investm ent Disputes, ICSID) trong các vụ Trail Sm elter
(Mỹ và C anada)27 hay M etaclad (M etalclad Corporation và
M exico).28
22 Gabcikovo - Ncgymaros Project {Hungary v Slovakia), Judgment, ICJ
Reports 1997.
23 Case Concerning Pulp Mills on the River Uruguay (Argentina v. Uruguay),
Judgment of 20 April 2010.
24 MOX Plant Case {Irelandv United Kingdom), “Dispute Concerning the
MOX Plant, International Movements o f Radioactive Materials, and the
Protection o f the Marine Environment o f the Irish Sea” (Perm. Ct. Arb.,
decision pending as o f January 2007.
25 Arbitration regarding the Iron Rhine (“Ijzeren Rijn”) Railway between the
Kingdom o f Belgium and the Kingdom o f the Netherlands, 2005.
26 MOX Plant case, Request for Provisional Measures Order (Ireland v the
United Kingdom) (3 December 2001) International Tribunal for the Law o f
the Sea, ILR vol. 126 (2005).
27 Trail Smelter, UNRIAA, vol. Ill (Sales No. 1949.V.2).
28 Metalclad Corporation v. The United Mexican States (ICSID Case No.
A R B(A B )/97/l).
218
1.4.4. L u ật mềm (soft law)
Trong khoa học luật quốc tế hiện nay, vai trò của các
“luật m ềm ” đang được ghi nhận như là m ột loại nguồn đặc
biệt.29 N hững văn kiện loại này không ấn định nghĩa vụ pháp
lý cho các bên và do đó không dẫn đến trách nhiệm pháp lý
quốc tế trong trường hợp có sự vi phạm.
Trong lĩnh vực mơi trường, hàng loạt văn kiện quốc tế
không quy định ràng buộc pháp lý đối với các bên như quy
tắc ứng xử, hướng dẫn, nghị quyết hoặc tuyên bố vẫn được áp
dụng bời các quốc gia cũng như các chủ thể khác của luật
quốc tế. Chúng đóng vai trị khẳng định và tăng cường sự hợp
tác giải quyết các vấn đề môi trường quốc tế, đồng thời làm
cơ sở để các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế đi đến
những cam kết có tính chất ràng buộc về m ặt pháp lý sau này.
1.5.
quốc tế
M ột số nguyên tắc cơ bản của luật mơi trường
Với tính chất là một ngành của luật quốc tế, ngành luật
môi trường quốc tế cũng chịu sự điều chỉnh của những
nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. N hững ngun tắc này
đóng vai trị là nền tảng cho hoạt động của các chủ thê luật
quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề về mơi trường. Nổi
bật trong số đó là các ngun tắc về sự hợp tác giữa các quôc
gia và chủ thể khác của luật quốc tế, nguyên tắc bình đăng vê
chủ quyền giữa các quốc gia... Bên cạnh đó, luật mơi trường
quốc tế có hệ thống các nguyên tắc đặc thù của nó. Hệ thơng
các ngun tắc này có ý nghĩa hết sức quan trọng, đóng vai
trị là cơ sở cho việc xây dựng các chế tài và quy phạm quôc
tế và điều chỉnh các vấn đề môi trường.
29 Xem them Alexandre Kiss and Dinah Shelton, sdd, tr. 8-9. Alexandre Kiss
and Dinah Shelton, International Environmental Law (Transnational
Publishers, 1991), tr. 100; Catherine Redwell, thld, tr, 696.
219
So với các ngành khác của luật quốc tế, trong luật môi
trường quôc tê các nguyên tăc tương đối mới, chúng là kết
quả của sự công nhận của các quốc gia trong việc điều chỉnh
những vân đề môi trường kể từ giữa thế kỷ 20, đặc biệt là
những nguyên tắc được đưa ra trong Tuyên bố Rio 1992. Mặc
dù được thừa nhận rộng rãi trong nhiều điều ước quốc tế về
môi trường cũng như được áp dụng cho nhiều lĩnh vực môi
trường cụ thê, nội hàm của những nguyên tăc này vân chưa
nhận được sự thơng nhất hồn tồn của các chủ thể của luật
quốc tế. Ngoài ra, những nguyên tắc này vẫn mang nặng tính
chính trị, kêu gọi và việc tuân thủ chúng chủ yếu dựa vào sự
tự giác và việc giải thích, áp dụng cụ thể trong pháp luật môi
trường của các quốc gia.
Căn cứ vào tầm quan trọng và tính chất của chúng, hệ
thống các nguyên tắc của luật mơi trường quốc tể có thể được
phân chia thành các nhóm sau đây:30
- Các ngun tắc có tính chất nền tảng;
- Các nguyên tắc áp dụng trong quá trình thực hiện;
- Các ngun tắc đảm bảo sự cơng bàng.
1.5.1. Các ngun tắc có tính chất nền tảng
Đây là những nguyên tắc hình thành trong quá trình
phát triển cùa luật môi trường quốc tế và hiện nay đang được
thừa nhận chung bởi các quốc gia và các chủ thể khác của luật
quốc tế.31 Những nguyên tắc này có nguồn gốc từ các nguyên
tắc cơ bản của luật quôc tê và có tính phơ biên trong khoa học
pháp lý quốc tế. Mặc dù vậy, những nguyên tắc này phần lớn
có tính chính trị, thể hiện chủ yếu qua việc kêu gọi thực hiện
30 Xem Alexandre Kiss and Dinah Shelton, sđd, tr. 89-110.
31 Các nguyên tắc này được ghi nhận trong các văn kiện quôc tê đa phương
về môi trường tiêu biểu là hai Tuyên Bô Stockholm 1972 và Tuyên bô Rio
năm 1992.
220
một cách tận tâm, thiện chí và trên tinh thần hợp tác. Điều
quan trọng là chúng không được coi như ràng buộc pháp lý
đối với các quốc gia. Ngoài ra, nội hàm của những nguyên tăc
này vẫn chưa được xác định đầy đủ. Tuy nhiên, chúng đóng
vai trổ là kim chỉ nam đối với hoạt động của các chủ thể của
luật môi trường quốc tế. Điều này được thể hiện ở việc chúng
đươc đề cập đến trong hầu hết các điều ước quốc tế vê mơi
trường và chương trình nghị sự của các quốc gia, đồng thời
còn được viện dẫn trong các án lệ quốc tế về môi trường.
1.5.1.1.
N guyên lẳc môi trường là mối quan tăm
chung của nhân loại
Từ giữa thế kỷ 20, cùng với sự công nhận quốc tế các
quyền tự do cơ bản của con người, việc bảo vệ môi trường
sống đã dần dần được coi là mối quan tâm chung của nhân
loại.32 Cộng đồng quốc tế đã nhìn nhận việc giải quyết ở quy
mơ tồn cầu các vấn đề xun biên giới về mơi trường địi hỏi
phải có sự tham gia của tất cả các quốc gia. Trong bối cảnh
đó, khái niệm về “lợi ích chung” của cộng đồng quốc tê đã
xuất hiện trong các điều ước quốc tế liên quan đến việc khai
thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên.33
Nguyên tắc này nhấn mạnh tầm quan trọng của mơi
trường đối với sự sống cịn và phát triển của tồn nhân loại và
vì thế mọi quốc gia và chủ thể của luật quốc tế càn phải nô
lực hợp tác nhằm giải quyết các vân đê môi trường toàn câu.
32 Alexandre Kiss and Dinah Shelton, tlđd, tr. 16.
33 Ví dụ như Lời nói đầu của Cơng ước Quốc tế về điều chinh hoạt động đánh
băt cá voi (International Convention for the Regulation of Whaling,
Whasington 02/12/1946); Công ước về đánh bát cá trên vùng biển cả thuộc
Băc Thái Bình Dưcrng ký tại Tokyo ngày 9/5/1952. Gần đây, khái niệm “sụ
quan tâm chung cùa nhân loại” về môi trường được ghi nhận tại Công ư ớ c vê
đa dạng sinh học 1992 (khẳng định bảo tồn đa dạng sinh học lắ mối quan tâm
chung cùa nhân loại) và Công ước khung cùa LHQ về biến đổi khí hậu (tuyên
bổ sự thay đơi về khí hậu cùa trái đất và những tác động xấu cùa nó là sự quan
tâm chung cùa nhân loại).
221
Mặc dù, nguyên tắc về sự quan tâm chung của nhân loại
đối với môi trường không hàm chứa những quy định và nghĩa
vụ pháp lý cụ thể, nguyên tắc này tạo ra cơ sở pháp lý chung
cho hoạt động của cộng đồng quốc tế. v ấ n đề môi trường trở
thành vấn đề chung của cộng đồng quốc tế, theo đó cộng đồng
quốc tế có trách nhiệm bảo tồn các loài động thực vật đang
biến m ất hoặc tuyệt chủng, các hệ sinh thái và các nguồn tài
nguyên đang bị đe dọa. Bảo vệ môi trường đã được thể hiện
thống nhất trong nội hàm của khái niệm về sự phát triển bền
vững hiện đang được thừa nhận là mối quan tâm chung của
toàn nhân loại.34
Ý nghĩa của nguyên tắc này còn được thể hiện qua việc
ghi nhận quyền hợp pháp của tất cả các quốc gia được khởi
kiện đối với những thiệt hại do một quốc gia đã có hành vi vi
phạm pháp luật quốc tế làm phương hại đến lợi ích chung của
nhân loại liên quan đến mơi trường.35 Tịa án Quốc tế trong
các bản án của mình đã công nhận trách nhiệm bảo đảm sự
cân bàng về sinh thái của trái đất là một lợi ích thiết yếu của
34 Alexandre Kiss and Dinah Shelton tlđd, tr. 14.
35 Luật quốc tế ghi nhận quyền của quốc gia bị thiệt hại khởi kiện một quốc
gia khác do có hành vi vi,phạm pháp luật quốc tế. Quyền khởi kiện hiện nay
được thừạ nhận không chi' chọ quốc gia bị thiệt hại mà còn được thừa nhận
đối với tât cả các quốc gia nếu sự vi phạm đó làm phương hại đến lợi ích
chung cùa nhân loại. Đây được coi là một nghĩa vụ chung cùa mọi quốc gia
{erga omnes). vấn đề này được khẳng định tại phán quyết của Tòa án Quốc tế
trong vụ Barcelona Traction, Light and Power Company giữa Bi và Tây Ban
Nha năm 1972 như sau: "Cân thiêt phải có sự phân biệt giữa nghĩa vụ của các
quác gia đổi với cộng đồng quốc tế nói chung và những nghĩa vụ phát sinh
đôi với một quôc gia khác trong lĩnh vực báo hộ ngoại giao. Bởi bán chát cùa
chúng, những nghĩa vụ chung đôi với cộng đồng quốc tế là mối quan tâm cùa
tất cá các quôc gia. vẻ tâm quan trọng cùa các quyền Hen quan, tất cả các
qc gia được coi là đêu có một lợi ích pháp lv trong sự bào vệ cùa họ, chúng
là những nghĩa vụ chung (erga omnes)".
222
mọi quốc gia và mục đích của chúng chính là sự bảo vệ cộng
đồng quốc tế nói chung.36
1.5.1.2. N guyên tắc m ôi trư ờng là di sản ch u n g của
nhân loại
Khái niệm “di sản chung của nhân loại” xuất hiện vào
cuối những năm 1960 thay thế cho hai cách tiếp cận việc sừ
dụng các nguồn tài nguyên chung.37 K hái niệm này là nền
tảng cho sự ra đời của nguyên tắc khẳng định quyền sở hữu
của cả cộng đồng quốc tế đối với những lĩnh vực ngoài phạm
vi chiếm hữu của các quốc gia.
Trên cơ sở nguyên tắc này, những chế độ pháp lý đặc
biệt được tạo ra nhằm thiết lập sự quản lý quốc tế đối với
vùng đáy đại dương và lòng đất dưới đáy đại dương, Nam
Cực và mặt trăng. N guyên tắc “di sản chung của nhân loại”
đối với những khu vực ngoài sự tài phán của quốc gia tạo cơ
sờ cho việc sử dụng những khu vực đó bảo đảm tính hịa bình,
hợp lý và khoa học trên tinh thần bảo tồn di sản chung của
nhân loại để chuyển giao cho các thế hệ sau.
1.5.1.3. N guyên tắc ngăn ngừa sự g â y hại (prevention
o f harm)
Luật quốc tế thừa nhận thẩm quyền tuyệt đối của mỗi
quốc gia trên phần lãnh thổ của mình. Tuy nhiên, những hoạt
động được phép thực hiện hoặc có ngn gơc từ lãnh thơ của
một quốc gia vẫn có thể gây hại hoặc xâm phạm đến chủ
36 Ví dụ vụ kiện Gabcikovo-Nagymaros giữa Hungary và Slovakia năm 1997.
37 Alexandre Kiss and Dinah Shelton, tlđd, tr. 15. Cách tiếp cận thứ nhât (res
nulliiis) cho rằng các loài động thực vật hoang dã không thuộc về bắt kỳ ai và
vì vậy chúng có thể được tự do sử dụng và chiếm hữu. Cách tiếp cận thứ hai
ịres commtmis) ghi nhận quyền sờ hữu chung cùa cộng đồng đồng thời thừa
nhận quyền sử dụng chung đối với những nguồn tài nguyên chung cũng như
việc khai thác những khu vực chung và quyền tự do hàng hải trong vùng biên
quốc tế.
223
quyền của quốc gia khác. Đ iều này dẫn đến xung đột về
quyền lợi giữa các quốc gia liên quan. Đ ây chính là tiên đê
cho sự ra đời của nguyên tăc vê ngăn ngừa sự gây hại. V ân đê
đầu tiên liên quan tới việc ngăn ngừa những nguy hại cho
quốc gia khác là ô nhiễm xuyên biên g iớ i.38 Từ án lệ Traỉỉ
Sm elter (M ỹ và Canada), nghĩa vụ ngăn chặn sự gây hại cho
m ôi trường có tính chất liên quốc gia đã đặt nền m óng cho
việc thừa nhận nguyên tắc này tại Tuyên bố Stockholm năm
1972 (N guyên tắc 21).39 N guyên tắc này được khẳng định lại
trong những điều ước quốc tế về môi trường như Công ước về
đa dạng sinh học (Đ iều 2) và Công ước của LHQ về biến đổi
khí hậu và được Tịa án Cơng lý quốc tế xem như là m ột tập
quán quốc tế về môi trường.40
N gun tắc địi hỏi các quốc gia có nghĩa vụ ngăn chặn
các ô nhiễm xuyên biên giới yêu cầu mồi quốc gia phải hành
động một cách hợp lý và trên tinh thần thiện chí nhàm điều
chỉnh các hoạt động cơng và tư trong phạm vi thẩm quyền của
m ình cũng như kiểm soát các nguy cơ gây thiệt hại cho môi
trường. Mặc dù không đê cập nghĩa vụ ngăn chặn triệt để tất
cả các nguồn gây hại, nguyên tắc này yêu cầu các quốc gia
phải câm những hành vi có khả năng gây nguy hại đáng kể
cho mơi trường (như việc trút bỏ các chất thải độc hại vào các
hồ biên giới) và loại trừ khả năng gây hại cho môi trường từ
những hành vi hợp pháp (như việc đưa ra những giới hạn
38 Vấn đề ngăn ngừa ô nhiễm xuyên biên giới được các quốc gia nêu ra tại
Khuyên nghị cùa OECD năm 1974 (OECD Council Recommendation c (72)
219 14/11/1974).
39 Nguyên tắc số 21 của Tuyên bố Stockholm nêu rõ “Cức quốc gia, trên cơ sờ
phù hợp với Hiên chirơng LHQ và những nguyên tắc cùa luật quốc tế, có
quyển chú quvền trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên theo những chính
sách cùa riêng mình, và có trách nhiệm đàm báo rằng những hoạt động trong
phạm vi lài phán hoặc kiêm sốt cùa họ là khơng gây thiệt hại cho môi trường
cùa cúc quốc gia khác hoặc những vùng nam ngoài phạm vi quyền tài phán
quốc gia".
')0 Alexandre Kiss and Dinah Shelton, llđd, tr. 91.
224