KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MƠN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
...............o0o...............
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
CHẾ ĐỊNH VỀ PHỊNG VỆ CHÍNH ĐÁNG THEO
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Mã mơn học: GELA220405
Thực hiện: Nhóm 4B
Lớp: Thứ 4 tiết 1-3
GVHD: Th.S Võ Thị Mỹ Hương
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2021
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN HỌC KÌ 3 NĂM
HỌC 2020 – 2021 Nhóm: 4B (Lớp thứ 4, tiết 1-3)
Tên đề tài: Chế định về phòng vệ chính đáng theo quy định của
bộ luật hình sự Việt Nam Lý luận và thực tiễn.
STT
Họ và Tên
1
Nguyễn Thị Bích Trâm
2
Nguyễn Thị Cẩm Tú
3
Nguyễn Phước Thạnh
4
Đoàn Thị Vân Khánh
5
Trần Thị Huyền Trân
6
Võ Hoàng Nguyên
MSSV Tỉ lệ % hoàn
2013616
2
2012523
7
2014572
2
2013609
4
2012903
5
2013307
5
Ghi chú:
Tỷ lệ % = 100%: Mức độ phần trăm của từng sinh viên tham
gia. Trưởng nhóm: Nguyễn Thị Bích Trâm (SĐT: 0835800308)
Nhận xét của giáo viên
…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………….
100%
100%
100%
100%
100%
100%
…………………………………………………………………………………….
Tháng 7 năm 2021
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
TAND: Tịa án Nhân dân
MỤC LỤC
A.PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................................3
1. Lí do chọn đề tài..............................................................................................................3
2.Mục tiêu nghiên cứu.......................................................................................................4
3.Phương pháp nghiên cứu............................................................................................4
4.Bố cục đề tài.......................................................................................................................4
B.NỘI DUNG.............................................................................................................................5
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHỊNG VỆ CHÍNH ĐÁNG
......................................................................................................................................................5
1.1 Lý luận chung về phịng vệ chính đáng........................................................5
1.1.1 Khái niệm chung về phịng đề chính đáng..........................................5
1.1.2Bản chất và ý nghĩa của phịng vệ chính đáng...................................5
1.2 Điều kiện của phịng vệ chính đáng...............................................................6
1.3 Các yếu tố tác động đến việc xác định phịng vệ chính đáng ...........7
1.3.1 Chất lượng của quy phạm pháp luật hình sự về phịng vệ chính đáng
...............................................................................................................................................7
1.3.2 Năng lực chuyên môn và ý thức trách nhiệm của những người áp dụng pháp
luật........................................................................................................................................8
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ PHỊNG
VỆ CHÍNH ĐÁNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG.....................................................9
2.1 Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về phịng vệ chính đáng tại điều 22 Bộ
luật Hình sự năm 2015..................................................................................................9
2.2 Dấu hiệu pháp lí của phịng vệ chính đáng..............................................10
2.2.1 Mặt khách quan của phịng vệ chính đáng........................................10
2.2.2 Mặt chủ quan của phịng vệ chính đáng............................................11
1
2.3
Đối tượng tác động:............................................................................................... 12
2.3.1
Về phía nạn nhân (người bị chết hoặc bị thương tích):................................... 12
2.3.2
Về phía người phịng vệ:................................................................................. 13
2.4 Phân biệt giữa phịng vệ chính đáng và vượt q phịng vệ chính đáng:..............
14
CHƯƠNG 3: U CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ PHỊNG VỆ CHÍNH ĐÁNG.................. 15
3.1. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về phịng vệ chính
đáng.............................................................................................................................. 15
3.1.1
Quy định về các trường hợp vượt q phịng vệ chính đáng.......................... 15
3.1.2
Áp dụng tình tiết giảm nhẹ vào phịng vệ chính đáng..................................... 16
3.2 Những bất cập trong việc áp dụng quy định của pháp luật hình sự về phịng vệ
chính đáng.................................................................................................................... 17
3.3
Một số vụ án thực tế.............................................................................................. 18
3.4 Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về phịng vệ
chính............................................................................................................................ 21
C. KẾT LUẬN.................................................................................................................. 22
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH..................................................................................................... 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................... 24
2
A.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong thời gian qua, tình trạng chống người thi hành cơng vụ xảy ra khá phổ biến
ở
nhiều nơi, nhất là trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm; nhiều cán bộ, chiến sĩ làm
nhiệm vụ bị người phạm tội tấn công, mặc dù trong tay có súng, có các phương tiện hỗ trợ nhưng vì “sợ”
phạm tội nên đã khơng chống trả dẫn đến hy sinh hoặc bị thương tích nặng. Mặt khác, khi có sự việc
người thi hành cơng vụ làm chết người phạm tội, nhưng do không am hiểu chế định phịng vệ chính đáng
nên một số phương tiện thơng tin đại chúng khi đưa tin thường “bênh” người có hành vi trái pháp luật
chống lại người thi hành công vụ làm cho dư luận hiểu không đúng về những người thi hành cơng vụ.
Ngồi ra, trong cuộc sống khơng ít trường hợp phạm tội trong trường hợp phòng vệ chính đáng hoặc
vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng nhưng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử do sức ép của dư
luận hoặc phía nạn nhân nên các cơ quan tiến hành tố tụng thường lúng túng khi xác định trường hợp
phạm tội có phải là phịng vệ chính đáng hoặc vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng hay khơng ?
Thực tiễn xét xử có nhiều vụ án Cơ quan điều tra đã khởi tố, Viện kiểm sát đã truy tố
nhưng khi xét xử Toà án đã tun bị cáo khơng phạm tội vì xác định đó là trường hợp phịng
vệ chính đáng; có trường hợp Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đã kết án bị
cáo phạm tội nhưng cấp giám đốc thẩm đã tuyên bố bị cáo không phạm tội vì xác định đó là
trường hợp phịng vệ chính đáng; có trường hợp lẽ ra chỉ kết án bị cáo về tội giết người
hoặc cố ý gây thương tích “do vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng” nhưng lại kết án bị
cáo về phạm tội khơng có tình tiết “do vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng”.v.v...làm cho
việc áp dụng không thống nhất; đồng thời cũng làm ảnh hưởng đến tâm lý của những người
khi cần phải “phòng vệ” đối với hành vi xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của xã hội
hoặc lợi ích của chính mình. Do đó, nhóm chúng em đã thống nhất chọn đề tài: “Chế định về
phịng vệ chính đáng theo quy định của bộ luật hình sự
3
Việt Nam-Lý luận và thực tiễn.” để phân tích rõ hơn về phịng vệ chính đáng
được quy định trong pháp luật, từ đó tránh để các trường hợp đáng tiếc xảy ra.
2.Mục tiêu nghiên cứu
Nắm rõ các khái niệm cơ bản liên quan đến phịng vệ chính đáng, những
giới hạn trong phịng vệ chính đáng để giúp người dân hiểu rõ và nâng
cao hiệu quả của việc phòng vệ. Tránh trường hợp phịng vệ chính đáng
bị coi là phạm tội và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
3.Phương pháp nghiên cứu
Tra cứu tài liệu, tổng hợp và phân tích thơng tin, nghiên cứu và đưa ra
những nhận xét, đánh giá.
Vận dụng quan điểm toàn diện và hệ thống, kết hợp khái qt và mơ tả,
phân tích và tổng hợp, các phương pháp liên ngành xã hội và nhân văn.
4.Bố cục đề tài
Tiểu luận được trình bày với nội dung gồm 3 chương chính:
Chương 1: Những vấn đề chung về phịng vệ chính đáng.
Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về phịng vệ chính
đáng và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của
pháp luật hình sự về sự phịng vệ chính đáng.
4
B.NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG
1.1 Lý luận chung về phịng vệ chính đáng
1.1.1 Khái niệm chung về phịng đề chính đáng
Điều 22 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy
định về phịng vệ chính đáng như sau:
Phịng vệ chính đáng là hành vi của một người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
của tổ chức, bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình hoặc của người khác mà chống trả
lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phịng vệ chính đáng khơng phải là tội phạm.
1.1.2Bản chất và ý nghĩa của phịng vệ chính đáng
Về bản chất của phịng vệ chính đáng
Thứ nhất, phịng vệ chính đáng khơng phải là tội phạm. Mặc dù trong
phịng vệ chính đáng có đầy đủ dấu hiệu của một cấu thành tội phạm,
nhưng vì được pháp luật hình sự cho phép một con người thực hiện khi có
những hành vi khác xâm hại đến quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Thứ hai, phịng vệ chính đáng được coi là quyền của mọi công dân chứ không
phải là nghĩa vụ pháp lý ( bắt buộc phải thực hiện khi rơi vào điều kiện, hồn cảnh cụ
thể), nếu có thì chỉ là “nghĩa vụ đạo đức” khi thấy người khác bị tấn công thì giúp đỡ.
Thứ ba, chỉ được xem là phịng vệ chính đáng khi hành vi phịng
vệ vẫn cịn trong giới hạn cho phép của luật hình sự.
5
Về ý nghĩa của phịng vệ chính đáng
Dựa theo những quy định của pháp luật hình sự và thực tiễn áp
dụng pháp luật về chế định phịng vệ chính đáng :
Một là, thể hiện mặt lập pháp nước ta ngày càng phát triển bắt kịp
với xu hướng pháp luật trên thế giới.
Hai là, giúp cho việc xử lý người có hành vi gây thiệt hại cho các chủ thể khác, qua
đó trừng trị nhằm ngăn ngừa, hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật; là điều kiện loại trừ
tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật của hành vi có đầy đủ các dấu hiệu mà pháp
luật quy định, đồng thời góp phần đảm bảo cơng lý, công bằng trong xã hội.
Ba là, xác định được rõ ràng ranh giới giữa hành vi phạm tội với
hành vi không phải là tội phạm, giữa trường hợp phải chịu trách nhiệm
hình sự với trường hợp khơng phải chịu trách nhiệm hình sự.
Bốn là, thể hiện được tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam.
1.2 Điều kiện của phòng vệ chính đáng
Đối với hành vi tấn cơng là cơ sở làm phát sinh hành vi phòng vệ:
.
Về nguồn của hành vi tấn công: Hành vi tấn công phải là của con người (bao gồm
cả hành vi tấn công của trẻ em hoặc người mắc bệnh tâm thần).
.
Về tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi tấn công: Hành vi tấn cơng phải có
nguy cơ gây ra một thiệt hại ở mức độ đáng kể cho xã hội cần được bảo vệ.
.
Về thời điểm của hành vi tấn công: Hành vi tấn công phải đang hiện tại. Được coi là hành
vi tấn cơng đang hiện tại có thể thuộc một trong các trường hợp sau: Hành vi tấn công đã bắt đầu nhưng chưa
kết thúc; Hành vi tấn cơng chưa xảy ra nhưng có nguy cơ sẽ xảy ra ngay tức khắc; Hành vi tấn công đã kết
thúc nhưng nếu hành vi phòng vệ đi liền ngay sau hành vi tấn công và khắc phục được hậu quả của hành vi
tấn công gây ra.
6
Nếu hành vi tấn công mới ở mức độ đe doạ mà chưa có nguy cơ xảy ra ngay tức khắc
mà đã thực hiện hành vi phòng vệ chống trả để gây thiệt hại cho người đe doạ được gọi là
“ phòng vệ quá sớm ”. Người thực hiện hành vi phịng vệ q sớm phải chịu trách
nhiệm hình sự bình thường. Nếu hành vi tấn cơng đã kết thúc mà việc thực hiện hành vi
phịng vệ khơng đi liền sau hành vi tấn công và không khắc phục được hậu quả của
hành vi tấn công mà thực hiện hành vi phòng vệ chống trả để gây thiệt hại cho người đã
thực hiện hành vi tấn công được gọi là “phòng vệ quá muộn”. Người thực hiện hành vi
phòng vệ quá muộn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của mình.
Đối với hành vi phịng vệ:
.
Về nội dung: Hành vi phịng vệ phải nhằm vào chính người có hành vi tấn
cơng và thiệt hại cũng gây ra cho chính người có hành vi tấn cơng.
.
Về phạm vi: Hành vi phòng vệ phải là “cần thiết”.
1.3 Các yếu tố tác động đến việc xác định phịng vệ chính đáng
1.3.1 Chất lượng của quy phạm pháp luật hình sự về phịng vệ chính đáng Đối
với hình thức, Quy phạm pháp luật về phịng vệ chính đáng phải được xây
dựng đúng thẩm quyền, có tên gọi phù hợp với nội dung thể hiện, hình thức rõ ràng, dễ
thực hiện, trình độ kỹ thuật pháp lý cao, có kết cấu chặt chẽ, logic; các thuật ngữ pháp
lý phải được sử dụng chính xác, một nghĩa, lời văn trong sáng, ngắn gọn, dễ hiểu, phù
hợp với khả năng nhận thức của quảng đại quần chúng nhân dân.
Đối với nội dung, quy phạm pháp luật về phịng vệ chính đáng cần
phải phù hợp với sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội của đất
nước và quan trọng hơn là nhu cầu khách quan của sự phát triển xã hội.
Chất lượng của quy phạm pháp luật về phịng vệ chính đáng là rất quan trọng, góp
phần lớn trong việc xác định chính xác quyền của con người, giúp người áp dụng pháp luật
khơng bị mâu thuẫn trong q trình giải quyết vụ án có liên quan đến phịng vệ chính
7
đáng, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và đạt được
những nhiệm vụ mà bộ luật hình sự đưa ra.
1.3.2 Năng lực chun mơn và ý thức trách nhiệm của những
người áp dụng pháp luật
Trong thực tiễn đấu tranh phịng chống tội phạm cịn có nhiều quan điểm nhận
thức chưa đồng nhất về Chế định phòng vệ chính đáng cả lý luận cũng như thực tiễn, vì
vậy mà việc áp dụng Chế định phịng vệ chính đáng trong một số trường hợp cụ thể cịn
có những quan điểm vận dụng khác nhau chưa đảm bảo nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng chống tội phạm, cũng như việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân.
Để áp dụng đúng pháp luật người áp dụng pháp luật cần được
trang bị những kiến thức chuyên môn nhất định và những kỹ năng cần
thiết, nhưng quan trọng hơn hết là ý thức trách nhiệm.
Tiếc rằng hiện nay vẫn còn một số cán bộ áp dụng pháp luật nhận thức chưa đầy
đủ, chưa chính xác về các quy định pháp luật hình sự dẫn đến vận dụng đánh giá chưa
chính xác tính chất và mức độ của hành vi nguy hiểm cho xã hội, không phân biệt được
ranh giới giữa tội phạm và không phải là tội phạm, giữa phịng vệ chính đáng hay vượt
q phịng vệ chính đáng. Mặc dù hiện nay trình độ của các cán bộ áp dụng pháp luật
đã được nâng cao một cách đáng kể, song, trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền, bảo vệ pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cơng dân, địi hỏi
người áp dụng pháp luật tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn và lý luận, đáp ứng các
tiêu chuẩn và quy định để có thể xây dựng cơ sở pháp lý, tuyển chọn được đội ngũ cán
bộ áp dụng pháp luật tốt để có thể hồn thành tốt chức trách của mình và bảo vệ được
quyền và nghĩa vụ hợp pháp của cơng dân trong lĩnh vực pháp luật hình sự nói chung
và chế định phịng vệ chính đáng nói riêng.
8
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
PHỊNG VỆ CHÍNH ĐÁNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1 Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về phịng vệ chính đáng tại
điều 22 Bộ luật Hình sự năm 2015
Điều 22 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về phịng vệ chính đáng:
1.
Phịng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của
mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan tổ chức mà chống trả lại một cách cần
thiết, người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phịng vệ chính đáng khơng phải là tội phạm.
2.
Vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết,
khơng phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng phải chịu
trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.
Một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng phải có đủ các dấu hiệu sau:
Hành vi xâm hại các lợi ích cần phải bảo vệ là hành vi phạm tội
hoặc rõ ràng có tính chất nguy hiểm cho xã hội.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích cần phải bảo vệ.
Phịng vệ chính đáng khơng chỉ gạt bỏ sự đe dọa, đẩy lùi sự tấn công mà cịn
có thể tích cực chống lại sự xâm hại, gây thiệt hại cho chính người bị xâm hại.
Để xem xét hành vi chống trả có cần thiết hay khơng, có rõ ràng là q đáng hay
khơng thì phải xem xét tồn diện những tình tiết liên quan đến hành vi xâm hại và hành vi
phòng vệ như: Khách thể cần bảo vệ, mức độ thiệt hại do hành vi xâm hại đó có thể gây ra
hoặc đã gây ra và do hành vi phịng vệ gây ra, vũ khí, phương tiện, phương pháp mà
9
hai bên đã sử dụng, nhân thân của người xâm hại, cường độ của người
tấn cơng và của sự phịng vệ, hoàn cảnh và nơi xảy ra sự việc…
Như vậy để xem xét một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng
phải: căn cứ vào sự tấn cơng.
Sự tấn cơng đó phải trái pháp luật: Hành vi xâm hại tới những khách thể được
luật hình sự bảo vệ, hành vi trái pháp luật phải là một hành vi nghiêm trọng.
Sự tấn công phải đang diễn ra trong thực tế hoặc chưa xảy ra
nhưng có sự đe dọa xảy ra ngay tức khắc. Trường hợp hành vi xảy
ra sau sự tấn cơng đã kết thúc vẫn được coi là phịng vệ chính
đáng nếu sự phịng vệ đó liền ngay sau sự tấn cơng đã xảy ra.
2.2 Dấu hiệu pháp lí của phịng vệ chính đáng
2.2.1 Mặt khách quan của phịng vệ chính đáng
Hành vi khách quan của tội phạm là giết người do vượt q giới hạn phịng
vệ chính đáng. Có nghĩa là, nạn nhân chính là người có hành vi tấn cơng, xâm hại
lợi ích hợp pháp và hành vi giết người là hành vi người phạm tội lựa chọn thực hiện
để ngăn chặn hành vi tấn công, bảo vệ lợi ích hợp pháp đang bị xâm hại.
Hành vi chống trả có tương xứng hay khơng, có rõ ràng là q đáng hay
khơng, thì phải xem xét tồn diện những tình tiết có liên quan đến hành vi xâm hại
và hành vi phòng vệ như: khách thể cần bảo vệ (thí dụ: bảo vệ địa điểm thuộc bí
mật quốc gia, bảo vệ tính mạng); mức độ thiệt hại do hành vi xâm hại có thể gây ra
hoặc đã gây ra và do hành vi phòng vệ gây ra; vũ khí, phương tiện, v.v…
Khi xem xét một cách đầy đủ, khách quan tất cả các mặt nói trên mà nhận thấy rõ
ràng là trong hoàn cảnh sự việc xảy ra, người phòng vệ đã sử dụng những phương tiện,
phương pháp rõ ràng quá đáng và gây thiệt hại rõ ràng quá mức (như: gây thương tích
nặng, làm chết người) đối với người có hành vi xâm hại thì coi hành vi chống trả là không
10
tương xứng và là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Ngược lại,
nếu hành vi chống trả là tương xứng thì đó là phịng vệ chính đáng.
Một hành vi được coi là phịng vệ chính đáng phải hội tụ đủ các yếu tố sau:
Thứ nhất: Hành vi nguy hiểm cho xã hội đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích cần phải bảo vệ.
Trước hết nạn nhân phải là người đang có hành vi xâm phạm đến các lợi
ích của Nhà nước, của tổ chức, của cá nhân người phòng vệ hoặc của người
khác (người thứ ba). Đang có hành vi xâm phạm là hành vi đã bắt đầu và chưa
kết thúc. Nếu hành vi chưa bắt đầu, thì mọi hành vi chống trả khơng được coi là
hành vi phịng vệ chính đáng. Trường hợp hành vi xâm phạm đã kết thúc thì
mọi hành vi chống trả cũng khơng được coi là hành vi phịng vệ.
Thứ hai: Phịng vệ chính đáng là hành vi chống trả lại một cách cần thiết
người đang có hành vi nguy hiểm cho xã hội đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích cần phải bảo vệ.
Hành vi chống trả phải là biện pháp “cần thiết” để ngăn chặn và đẩy lùi
hành vi tấn cơng. Điều này có nghĩa, trong những điều kiện, hồn cảnh cụ thể,
người phịng vệ trên cơ sở tự đánh giá tính chất của quan hệ xã hội bị xâm hại,
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi tấn công và những yếu tố khác để quyết
định biện pháp chống trả mà người đó cho là “cần thiết” nhằm ngăn chặn và đẩy
lùi hành vi xâm hại đến các khách thể được Luật Hình sự bảo vệ.
2.2.2 Mặt chủ quan của phịng vệ chính đáng
Gồm lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp:
•Lỗi cố ý trực tiếp: Người phạm tội thấy trước hậu quả của hành vi phịng vệ sẽ dẫn đến
chết người, nhưng vì mong muốn hậu quả đó xảy ra nên đã thực hiện hành vi phạm tội.
•
Lỗi cố ý gián tiếp: Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình có thể gây
11
nguy hiểm đến tính mạng của người khác, thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra,
nhưng để đạt được mục đích của mình nên đã có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
2.3 Đối tượng tác động:
2.3.1 Về phía nạn nhân (người bị chết hoặc bị thương tích):
Nạn nhân phải là người đang có hành vi xâm phạm đến các lợi ích của Nhà nước,
của tổ chức, của cá nhân người phòng vệ hoặc của người khác (người thứ ba).
Đang có hành vi xâm phạm là hành vi đã bắt đầu và chưa kết thúc.
Ví dụ: A đang cầm dao đuổi chém B hoặc C đang dí súng vào đầu
Đ để buộc Đ phải đưa tài sản cho mình.
Nếu hành vi chưa bắt đầu, thì mọi hành vi chống trả khơng được coi là
hành vi phịng vệ. Ví dụ: Trần Tuấn Anh thấy Nguyễn Văn Hùng đi chơi
với người u của mình nên nói với Hùng: “Tao sẽ giết mày!” Mới nghe
Tuấn Anh nói vậy, Hùng đã rút dao trong người ra đâm Tuấn Anh chết.
Trường hợp hành vi xâm phạm đã kết thúc thì mọi hành vi chống trả cũng không
được coi là hành vi phịng vệ. Ví dụ: A đánh B bị thương vào đầu, được mọi người
can ngăn, A đã bỏ đi, nhưng do bực tức B đã lấy dao đuổi theo A, đâm A chết.
Khi xét hành vi xâm phạm trong trường hợp phịng vệ chính đáng phải xét trong mối
tương quan với hành vi chống trả, không phải bất cứ hành vi phạm tội nào xảy ra, người có
hành vi chống trả gây chết người hoặc gây thương tích cho người có hành vi xâm phạm đều
là phịng vệ chính đáng. Ví dụ: A thị tay vào túi B để trộm cắp, nhưng B phát hiện được liền
rút dao ra đâm A một nhát vào bụng làm A chết. Hành vi của B khơng được coi là phịng vệ
chính đáng mặc dù hành vi xâm phạm của A là hành vi phạm tội (tội trộm cắp tài sản).
Ngược lại, có những hành vi xâm phạm chưa phải là hành vi phạm tội, nhưng vì nó xâm
phạm nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, của tổ chức và của công dân nên hành vi
chống trả vẫn được coi là phòng vệ chính đáng. Như vậy, khi xem xét hành vi của người
đang xâm phạm đến các lợi ích cần bảo vệ, khơng nhất thiết chỉ căn cứ vào tính chất nguy
hiểm của hành vi xâm phạm mà phải chú ý đến lợi ích cần bảo vệ,
12
đồng thời phải xét nó trong mối quan hệ với hành vi chống trả để xác định sự chống trả
trong trường hợp cụ thể đó có được coi là phịng vệ chính đáng hay khơng?
Pháp luật các nước nói chung và nước ta nói riêng khơng coi hành vi tấn
cơng của người mắc bệnh tâm thần là hành vi trái pháp luật. Tuy nhiên, nếu một
người bị người mắc bệnh tâm thần tấn cơng, họ vẫn có quyền chống trả để bảo vệ
mình, nhưng nếu cịn có thể bỏ chạy mà không chạy lại chống trả gây thiệt hại cho
người bị tâm thần thì khơng được coi là phịng vệ. Nhưng nếu bị người say rượu
tấn cơng mình hoặc tấn cơng người khác thì hành vi gây thiệt hại cho người say
rượu lại được coi là hành vi phòng vệ, vì người say rượu nếu xâm phạm đến các lợi
ích cần bảo vệ, theo pháp luật nước ta vần bị coi là hành vi trái pháp luật.
2.3.2 Về phía người phịng vệ:
Nếu thiệt hại do người có hành vi xâm phạm gây ra có thể là thiệt hại về tính mạng,
sức khoẻ, có thể là thiệt hại về tài sản, nhân phẩm, danh dự hoặc các lợi ích xã hội khác, thì
thiệt hại do người có hành vi phịng vệ gây ra chỉ có thể là thiệt hại về tính mạng hoặc sức
khoẻ cho người có hành vi xâm phạm. Ví dụ: A đi làm về thấy hai tên thanh niên đang hãm
hiếp con gái mình, tiện có chiếc cuốc trên tay, A đã dùng cuốc bổ vào đầu một tên làm cho
tên này bị trọng thương. Hành vi của A được coi là hành vi phòng vệ trong trường hợp bảo
vệ lợi ích chính đáng của người khác (con gái) đang bị xâm phạm.
Nếu người phịng vệ khơng gây thiệt hại cho chính người có hành
vi xâm phạm mà gây thiệt hại cho người khác (thường là người thân của
người có hành vi xâm phạm), thì khơng được coi là hành vi phịng vệ. Ví
dụ: Q bị B đánh, nhưng Q không đánh B mà lại đánh H (con của B) bị
thương tích nặng. Hành vi của Q khơng được coi là hành vi phịng vệ.
Khơng coi là phịng vệ chính đáng trong trường hợp người có hành
vi xâm phạm gây thiệt hại đến tài sản của người khác, rồi người khác
cũng gây thiệt hại lại cũng về tài sản cho người có hành vi xâm phạm.
13
Ngoài ra, hành vi chống trả phải là cần thiết: Cần thiết khơng có nghĩa là ngang bằng
theo cách xác định của tốn học mà trong hồn cảnh cụ thể người có hành vi xâm phạm có
thể chỉ mới đe dọa gây thiệt hại ngay tức khắc cho người phòng vệ hoặc cho người khác
nhưng người phịng vệ có thể gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ cho người xâm hại
cũng được coi là cần thiết. Ví dụ: A đang dùng súng uy hiếp những người trên xe
ô
tô để cướp tài sản thì bị một chiến sĩ cảnh sát được trang bị vũ khí (Súng
K54) là một trong những hành khách trên xe nổ súng bắn chết tên cướp thì hành vi bắn
chết tên cướp được coi là chống trả cần thiết.
2.4 Phân biệt giữa phịng vệ chính đáng và vượt q phịng vệ chính đáng:
Theo Điều 22 Bộ luật hình sự hiện hành thì phịng vệ chính đáng là hành vi của
người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích
của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có
hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phịng vệ chính đáng khơng phải là tội phạm. Ví
dụ: Anh B bị nhóm người lạ đánh bằng gậy nên anh đáp trả bằng tay chân.
Vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức
cần thiết, khơng phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
xâm hại. Người có hành vi vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng phải chịu trách
nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này. Ví dụ: Bị đuổi chém, sau q trình
giằng co, bị cáo đã nằm trên bị hại và cầm dao chém nhiều nhát vào người bị hại.
Phịng vệ chính đáng không phải là tội phạm, nhưng nếu hành vi chống trả rõ ràng
quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi
xâm hại thì là vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng. Việc đánh giá một
hành vi chống trả lại sự xâm hại là phịng vệ chính đáng hay vượt q giới hạn phịng
vệ chính đáng là rất phức tạp trong các vụ án cụ thể vì khơng có một cơng thức nào
đúng cho mọi trường hợp.
Tóm lại, việc phân định giới hạn của phịng vệ chính đáng và vượt q giới hạn
phịng vệ chính đáng là rất quan trọng, căn cứ vào đó để có thể truy cứu trách nhiệm hình
14
sự với người có hành vi này. Khi phân biệt ranh giới giữa phịng vệ chính đáng với
vượt q giới hạn phịng vệ chính đáng, trong một vụ án cụ thể, cần xem xét:
Tính chất quan trọng của lợi ích bị xâm hại, tính chất và mức độ
nguy hiểm của hành vi xâm hại và hành vi phòng vệ.
Tương quan sức lực giữa bên xâm hại và bên phòng vệ (bao gồm cả
phương tiện, phương pháp mà hai bên đã dùng) trong một hoàn cảnh cụ thể.
CHƯƠNG 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ PHỊNG VỆ CHÍNH ĐÁNG
3.1. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
phịng vệ chính đáng
3.1.1 Quy định về các trường hợp vượt q phịng vệ chính đáng
Thứ nhất, về vấn đề định tội danh:
Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự
mà cụ thể là Điều 102, khoản 4 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 (tương
ứng là Điều 96 và 106 Bộ luật hình sự năm 1999), cũng như căn cứ vào các
dấu hiệu thuộc cấu thành tội phạm của hai tội phạm cụ thể nêu trên ta sẽ
đánh giá và đưa ra kết luật hành vi vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng
đó sẽ là tội gì và được quy định tại điều nào của Bộ luật hình sự hiện hành.
Thứ hai, về vấn đề quyết định hình phạt:
Bộ luật hình sự năm 1999 quy định "Tội giết người do vượt q giới hạn phịng vệ
chính đáng" (Điều 96) như sau: "Người nào giết người trong trường hợp vượt q giới hạn
phịng vệ chính đáng thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc bị phạt tù từ 3 tháng
đến 2 năm " và "Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do
vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng" (Điều 106) như sau: "Người nào cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên hoặc dẫn
đến chết người do vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo
không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm...".
15
Khi lượng hình cần chú ý vận dụng tổng hợp các tình tiết sau đây:
Mức độ vượt quá giới hạn phịng vệ nhiều hay ít ? Ví dụ: Nếu hành vi tấn cơng
của nạn nhân là yếu ớt, ít nguy hiểm như chỉ xô đẩy, tát tai mà bị cáo bắn chết
họ thì mức độ vượt quá là lớn, cần xử phạt nặng hơn. Nếu ngược lại, hành vi tấn
công tương đối nguy hiểm (như dùng gậy đánh... thì mức hình phạt là nhẹ).
Hành vi là cố ý trực tiếp hay cố ý gián tiếp làm chết người? Nếu là
cố ý trực tiếp thì cần xử nặng hơn là cố ý gián tiếp làm chết người.
Mức độ thiệt hại (hậu quả): làm chết người hoặc bị thương nhiều
người hay một người.
Động cơ của can phạm: Bên cạnh động cơ muốn bảo vệ lợi ích xã
hội, muốn thi hành nhiệm vụ cịn có động cơ khác như sỹ diện, tự
ái cá nhân, hống hách, mệnh lệnh... Nếu có động cơ xấu thì cần xử
nặng hơn, nếu khơng có thì có thể xử nhẹ hơn.
Con người can phạm tốt hay xấu? (nhân thân bị cáo).
3.1.2 Áp dụng tình tiết giảm nhẹ vào phịng vệ chính đáng
Điều 13 của Bộ luật hình sự quy định: Hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức
khỏe của người khác được coi là phịng vệ chính đáng khi có đủ các điều kiện sau đây:
Hành vi xâm hại những lợi ích cần phải bảo vệ là hành vi phạm tội
hoặc rõ ràng là có tính chất nguy hiểm cho xã hội.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích cần phải bảo vệ.
Phịng vệ chính đáng khơng chỉ gạt bỏ sự đe dọa, đẩy lùi sự tấn cơng, mà cịn có
thể tích cực chống lại sự xâm hại, gây thiệt hại cho chính người xâm hại.
Hành vi phịng vệ phải tương xứng với hành vi xâm hại, tức là
khơng có sự chênh lệch quá đáng giữa hành vi phòng vệ với tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại.
16