Tải bản đầy đủ (.pdf) (463 trang)

Quản lý đấu thầu thực trạng ở việt nam và kinh nghiệm quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.58 MB, 463 trang )

VIỆN NGHIÊN CỬU QUẢN LÝ KINH TÉ TRUNG ƯƠNG

THỤC TRẠNG ở VIỆT NAM VÀ
KINH NGHIỆM QUỐC TÊ


QUẢN LÝ BẤU THẦU
THỰC TRẠNG d VIỆT NAM VÀ
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ


TS. NGÔ M IN H HẢI

QUÂN L f ĐẤU 1HẨU
THỰC TRẠNG ở VIỆT NAM VÀ
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

NHÀ XUẤT BẢN GIAO THÔNG VẬN TẢI


LỜI NÓI ĐẦU
Cơ ché kinh tê kinh tê thị trường xuất hiện cùng với công
cuộc cải cách kinh tế ờ Việt Nam đã được trên 10 năm. Nhờ đó
nền kinh tế Việt Nam đã thu được những thành tựu bước đầu
quan trọng, tốc độ tăng trưởng được duy trì ở mức độ tương đối
cao trong một thời gian dài. Hoạt động đấu thầu mới được áp
dụng rộng rãi trong thời gian vài năm qua, nhưng đã đóng góp
một phần khơng nhỏ vào những thành tích này. Tuy vậy, đấu
thầu là một lĩnh vực tương đối mới đối với Việt Nam, trong q
trình thực hiện khơng tránh khỏi những lúng túng, thậm chí sai
lầm gây thất thốt tài lực của Nhà nước, địi hỏi Nhà nước phải


có sự nghiên cứu, cập nhật, đổi mới phương thức phù hợp trong
quản lý và điều hành cơng tác đấu thầu nói chung.
Đại hội đảng lần thứ IX đã thông qua một số văn kiện quan
trọng và đề ra các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội trong những
năm đầu của thiên niên kỷ mới, thực hiện ' chiến lược đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hoá theo định hướng XH CN, xây
dựng nền tảng đ ể đến nám 2020 nước ta cơ bản thành một
nước công nghiệp,,iU.
1 Văn kiện Đại hội IX , "Phươnsi luróTis, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh
tế, xã hội 5 năm 2001-2005”

5


Để đạt được mục tiêu này, Nhà nước cần xây dựng và thực
hiện một hệ thống biện pháp cơ chế chính sách nhằm phát huy
nội lực của dân tộc Việt Nam đồng thời phù hợp với các cam kết
quốc tế của nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
Cơng việc này địi hỏi q trình cải cách kinh tế Việt Nam phải
có những đổi mới cơ bản về chất, thay đổi phương thức điều
hành nền kinh tế nhằm đáp ứng với những thách thức mới, thích
ứng một cách linh hoạt những biến động của môi trường trong
nước cũng như môi trường quốc tế.
Đâu thầu là phạm trù kinh tế tồn tại một cách khách quan
trong nền kinh tế thị trường, đòi hỏi Nhà nước phải nắm bắt và
vận dụng có hiệu quả trong q trình quản lý và điều hành nền
kinh tế quốc dàn. Trong cơ chế kinh tế thị trường, hoạt động đấu
thầu là một mắt xích vơ cùng quan trọng trong tồn bộ q trình
mua sắm của Chính phủ nói chung và trong việc thực hiện các
dự án đầu tư nói riêng. Vì vậy, nghiên cứu hồn thiện chính sách

về đấu thầu là việc làm hết sức cần thiết nhằm thúc đẩy q trình
cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
Trong thời gian qua đã có một số cơng trình nghiên cứu với
các hình thức khác nhau (đề tài, dự án) về việc khảo sát, đánh
giá, xày dựng cơ chế chính sách về đấu thầu ở Việt Nam. Đáng
chú ý nhất là các dự án xây dựng Quy chế Đấu thầu và Pháp lệnh
Đấu thầu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì (hiện đang thực
hiện). Ngồi ra cịn có một số luận án, chuyên đề nghiên cứu về
eôns tác đấu thầu ở một số ngành và địa phương.
Tuv nhiên chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách toàn diện
và tổns thể với mục tiêu đánh giá một cách khách quan tình hình

6


thực hiện công tác đấu thầu trong thời gian qua để xây dựng một
chính sách tương đối hồn chỉnh và đồng bộ cho công tác này.
Mục tiêu của đề tài này là nghiên cứu thực trạng công tác đấu
thầu ở Việt Nam hiện nay, cũng như kinh nghiệm đấu thầu của
một số tổ chức và quốc gia trên thế giới để từ đó đề xuất một số
giải pháp nhằm hồn thiện một bước cơ chế quản lý đấu thầu
phục vụ cho q trình hội nhập, đồng thời góp phần lành mạnh
hố mơi trường đầu tư, chống thất thốt vốn Nhà nước.
Nội dung đề tài gồm 3 phần:
Phần 1 bao gồm những nội dung mang tính lý thuyết về cơng
tác đấu thầu và nội dung kinh tế của công tác đấu thầu như: Các
khái niệm, thuật ngữ liên quan đến công tác đấu thầu, phân loại
đấu thầu và vai trò quản lý nhà nước về đấu thầu của Chính phủ.
Phần 2 mô tả thực trạng công tác đấu thầu ở Việt Nam hiện
nay, những vướng mắc thường gặp, một số bài học kinh nghiệm

quốc tế, bao gồm các nội dung sau:
- Sự ra đời và hình thành hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật về đấu thầu ở Việt Nam hiện nay.
- Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đấu thầu, quy
trình đấu thầu chung.
- Thực trạng hoạt động đấu thầu ở Việt Nam, kết quả và
những tồn tại thực tế.
- Một số vấn đề phát sinh thường gặp trong công tác đấu
thầu. Những vướng mắc cơ bản và phổ biến trong công tác đấu
thầu ỏi Việt Nam.
- Kinh nghiệm quản lý đấu thầu ở một số tổ chức và quốc gia
trên thế giới.
7


Phần 3 bao gồm các ý kiến đề xuất nhằm tăng cường hiệu quả
quản lý trong công tác đấu thầu ờ Việt Nam, gồm các nội dung
cụ thể như sau:
- Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý về đấu thầu (các quy
định mang tính pháp lý).
- Cải cách bộ máy quản lý nhà nước về đấu thầu.
- Nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ điều
hành trực tiếp công tác đấu thầu.
Phần kết luận nhắc lại những nội dung hết sức cơ bản của đề
tài, đó là:
- Tầm quan trọng của công tác đấu thầu trong nền kinh tế thị
trường. Những đóng góp của việc áp dụng các hình thức lựa
chọn nhà thầu trong cơng cuộc phát triển kinh tế xã hội của đất
nước.
- Những bài học thực tế trong công tác đấu thầu ở Việt Nam

cũng như còng tác quản lý đấu thầu ở một số tổ chức và quốc gia
trên thế giới để từ đó để xuất những biện pháp thiết thực cho
cơng việc quản lý đấu thầu mua sắm cồng.
Đề tài có sử dụng thông tin trong các báo cáo về công tác đấu
thầu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong các năm từ 1998 đến
2002 và bài viết của Tiến sỹ Nguyễn Việt Hùng, Vụ trưởng Vụ
Quản lý đấu thầu, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

8


CHƯƠNG 1
S ự CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA ĐẤU THẦU TRONG NÊN KINH TÊ
THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRỊ CỦA CHÍNH PHỦ TRONG VIỆC QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ ĐÂU THẦU

1.1. Một sô khái niệm về đấu thầu và nội dung công tác
đấu thầu
1.1.1. Đấu thầu (trường họp cung > cầu)
Trong nền kinh tế hàng hố, hầu như khơng tồn tại sự độc
quyền cung cấp cho bất kỳ một loại hàng hoá hay dịch vụ nào đó
(trừ một vài loại hàng hố đặc biệt dùng cho các dịch vụ công,
chẳng hạn như phịng thủ đất nước). Có nhiều nhà sản xuất, nhà
cung cấp cho cùng một loại hàng hoá và dịch vụ. Trong cơ chế
kinh tế thị trường người tiêu dùng (bao gồm các nhà đầu tư - sau
đây gọi chung là người mua) ln mong muốn có được hàng hố
và dịch vụ tốt nhất với chi phí thấp nhất. Vì vậy, mỗi khi có nhu
cầu mua sẳm một hàng hố hay dịch vụ nào đó, họ thường tổ
chức các cuộc đấu thầu để các nhà thầu (bao gồm các nhà cung
cấp hàng hoá và dịch vụ) cạnh tranh nhau về kỹ thuật, công

nghệ, chất lượng và giá cả. Trong các cuộc đấu như vậy, nhà
thầu nào đưa ra được mẫu hàng hoá và dịch vụ phù hợp với yêu
cầu của người mua và với giá cả thấp nhất sẽ được người mua
chấp nhận trao hợp đồng. Không phải lúc nào người mua cũng
yêu cầu chất lượng hàng hoá và dịch vụ tốt nhất. Tuỳ theo nhu
9


cầu sử dụng, người mua sẽ đưa ra các thông tin cơ bản về yêu
cầu chất lượng hàng hoá, điều kiện thanh toán và các yêu cầu
khác của hợp đồng. Nhà thầu căn cứ vào nội dung yêu cầu ghi
trong đề nghị chào hàng để gửi hồ sơ dự thầu đến cho người
mua. Trong trường hợp có 2 hoặc nhiều đơn dự thầu đều có chất
lượng chào hàng đáp ứng các yêu cẳu của người mua, thì nhà
thầu nào (trong số các chào hàng đáp ứng các yêu cầu về chất
lượng) có giá dự thầu thấp nhất sẽ được chọn trao hợp đồng. Như
vậy, đấu thầu là cuộc chơi do người mua tổ chức và người chơi là
những nhà thầu. Nếu có luật chơi tốt (cơng bằng và minh bạch)
sẽ thu hút được nhiều người chơi, làm cho tính cạnh tranh cao
hơn. Trong trường hợp đó, người mua sẽ có nhiều cơ hội chọn
mua được hàng hoá và dịch vụ thoả mãn yêu cầu của mình với
giá cả thấp nhất có thể.
Tóm lại, Đấu thầu là phạm trù kinh tế tồn tại trong nền kinh
tể thị trường. Trong đó, người mua đóng vai trị tổ chức đ ể các
nhà thầu (những người bán) cạnh tranh nhau. Mục tiêu của
người mita là có được hàng hố và dịch vụ thoả mãn các yêu cẩu
của mình vê kỹ thuật, chất lượng với chi ph í thấp nhất. Mục tiêu
của nhà thầu là giành được quyền cung cấp hàng hố hoặc dịch
vụ đó với giá cả đủ bù đắp các chi p h í đẩu vào đồng thời đảm
bảo mức lợi nhuận cao nhất có thể.

1.1.2. Đấu giá (trường hợp cung < cầu)
Ngược với đấu thầu, đấu giá là cuộc đấu do người bán đứng ra
tổ chức. Có những loại hàng hố ngồi giá trị về vật chất còn
chứa đựng các giá trị tiềm tàng khác, nhiều khi không thể đo
đếm được, hoặc có những loại hàr.ơ hố do có số lượng ít mà
10


nhu cầu của người mua lại lớn hơn nhiều. Trong trường hợp này
người bán phải tổ chức cho những ngưòi có nhu cầu mua đấu giá
với nhau. Tại thời điểm cuộc chơi có hiệu lực, người nào trả giá
cao nhất sẽ mua được hàng hố đó.
Như vậy, Đấu giá là phạm trù kinh t ể tồn tại trong nền kinh
t ể thị trường. Trong đó, người hán đóng vai trị tổ chức đ ể những
người mua cạnh tranh với nhau vê giá một cách công khai tại
m ột thời điểm nhất định. Người mua nào có giá đ ề nghi cao nhất
s ẽ là người chiến thắng vù giành được quyền mua hàng hố đó.
1.1.3. N hà thầu (trong đấu thầu)
Tất cả các tổ chức, cá nhân khi tham gia đấu thầu để giành
quyền ký kết và thực hiện hợp đồng đầu tư, cung cấp hàng hoá
và dịch vụ (bao gồm cả dịch vụ tư vấn, xây lắp...) cho bên mời
thầu hoặc chủ đầu tư đều gọi là nhà thầu. Tuỳ theo tính chất của
nguồn vốn, người ta có thể quy định tư cách hợp lệ của nhà thầu
theo các chỉ tiêu cụ thể khác nhau. Nhưng nhà thầu đều phải
đảm bảo đáp ứng các nguyên tắc tối thiểu có tính pháp lý. Nhà
thầu có thể tham gia dự thầu độc lập hoặc liên danh với một
hoặc nhiều nhà thầu khác để liên danh dự thầu.
Như vậy, Nhà thầu là các tổ chức kinh tế, cá nhân độc lập về
tài chính có năng lực pháp luật dân sự (nếu là tổ chức) hoặc
năng lực hành vi dân sự (nếu là cá nhân) đ ể ký kết và thực hiện

hợp đồng theo các quy định của pháp luật.
1.1.4. Bên mời thầu
Theo nghĩa thông thường, bên mời thầu là bên đứng ra tổ
chức đấu thầu. Các chủ dự án, chủ đầu tư hoặc đại diện của họ tổ
11


chức đấu thầu để lựa chọn nhà thầu thực hiện một phần hoặc
toàn bộ dự án. Bên mời thầu thường là chủ sở hữu vốn (nguồn để
chi trả cho nhà thầu theo giá trị hợp đồng) và là một bên đứng ra
ký kết hợp đồng với nhà thầu. Tuy nhiên, trong trường hợp đại
diện của chủ dự án, chủ đầu tư đứng ra tổ chức đấu thầu, thì họ
có thể không phải là một bên đứng ra ký kết hợp đồng với nhà
thầu. Trong trường hợp đấu thầu để lựa chọn đối tác đầu tư, bên
mời thầu chỉ đóng vai trị chủ dự án, khi đó nhà thầu trúng thầu
sẽ là chủ đầu tư.
Như vậy, Bên mời thầu là chủ dự án, chủ đầu tư hoặc đụi diện
hợp pháp của chủ dự án, chủ đầu tưđíùìg ra tổ chức đấu thầu.
1.1.5. Hồ sơ mời thầu
Trước khi tổ chức đấu thầu, bên mời thầu phải tập hợp toàn
bộ các yêu cầu của gói thầu (về chất lượng, số lượng, kỹ thuật,
các điều kiện hợp đồng, tài chính, thương mại...) thành một bộ
tài liệu thống nhất và không thay đổi trong suốt quá trình đấu
thầu để làm căn cứ cho nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự thầu, đồng
thời làm cơ sở để bên mòi thầu đánh giá các hồ sơ dự thầu và
xem xét, quyết dịnh nhà thầu trúng thầu. Hồ sơ mời thầu là toàn
bộ tài liệu do bên mời thầu lập, bao gồm các yêu cầu cho một
gói thầu được dùng làm căn cứ đ ể nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự
thầu và bên mòi thầu đánh giá hồ sơ dự thầu.
1.1.6. H ồ sơ dự tháu

Trên cơ sở nghiên cứu các yêu cầu của bên mời thầu nêu
trong hồ sơ mời thầu, cũng như kết quả khảo sát thực địa và các
thons tin liên quan khác, nhà thầu lập bộ hồ sơ dự thầu bao gồm
12


tồn bộ các tài liệu về kỹ thuật, tài chính, thưorng mại liên quan
đến gói thầu để nộp cho bên mời thầu trong thời gian có hiệu lực
(trước thời điểm đóng thầu). Nhà thầu có hồ sơ dự thầu hợp lệ,
đáp ứng các yêu cầu của hồ sơ mời thầu và có giá đánh giá thấp
nhất sẽ được xem xét, đề nghị trúng thầu.
HỒ sơ dự thầu lả các tài liệu do nhà thầu lập theo yêu cầu
của Ì1Ồ sơ mời thầu.
1.1.7. Đấu thầu rộng rãi
Đấu thầu rộng rãi là hình thức lựa chọn nhà thầu phổ biến được
áp dụng cho mọi lĩnh vực (lựa chọn đối tác, mua sắm hàng hóá,
chọn nhà thầu xây lắp, chọn nhà tư vấn và nhà cung cấp các dịch
vụ khác). Đây là hình thức tận dụng triệt để học thuyết bàn, tay vơ
hình trong cơ chế kinh tế thị trường. Để cuộc cạnh tranh giữa các
nhà thầu được bình đẳng, cơng khai, minh bạch, bên mời thầu
phải thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng
về các điều kiện, thời gian tổ chức đấu thầu và tham dự thầu. Tuỳ
theo tính chất và quy mơ của gói thầu, việc thơng báo phải được
thực hiện trước khi tổ chức đấu thầu một thời gian thích hợp đủ để
cặc nhà thầu tiếp nhận đủ thông tin và kịp xử lý các thông tin cần
thiết cho việc quyết định tham già dự thầu.
Đấu thầu rộng rãi lã hình thức khơng hạn c h ế sô' lượng nhà
thầu tham gia.
1.1.8. Đấu thầu hạn chê'
Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu chỉ

cho phép một số lượn2 nhất định các nhà thầu tham dự thầu. Đây
là hình thức được sử dụng khi cân tranh thủ thời gian đánh giá
13


hồ sơ dự thầu, bởi vì người ta đã biết chắc chắn rằng chỉ có một
số nhà thầu cụ thể có khả năng thực hiện gói thầu. Vì vậy bên
mời thầu chỉ mời các nhà thầu được coi là có đủ nãng lực tham
gia dự thầu. Tuy nhiên, cần cân nhắc kỹ các trường hợp phải áp
dụng hình thức này, vì rằng càng hạn chế số lượng nhà thầu
tham gia, tính cạnh tranh càng giảm, làm cho tính hiệu quả của
công tác đấu thầu sẽ giảm theo.
Đấu thầu hạn c h ế là hình thức lựa chọn nhà thầu thơng qua
sự cạnh tranh của một s ố nhà thầu nhất định được bên mời thầu
cho phép tham dự thầu.
1.1.9. Hiệu quả trong đấu thầu
Thực hiện đấu thầu nhằm tận dụng lợi thế của các quy luật
kinh tế khách quan trong cơ chế kinh tế thị trường là việc làm
mà không một nhà đầu tư nào được phép bỏ qua. Bởi vì, thơng
qua đấu thầu, chủ đầu tư sẽ có nhiều cơ hội hơn hết để'chọn
được hàng hoá và dịch vụ đảm bảo chất lượng mong muốn với
giá cả hợp lý nhất có thể. M ặt khác, cũng thơng qua đấu thầu mà
các nhà thầu phải ln tìm tịi, sáng tạo để khơng ngừng cải tiến
quy trình, cơng nghệ sản xuất, nâng cao nắng lực cạnh tranh.
Như vậy, đấu thầu không những đem lại lợi ích kinh tế cho các
bên tham gia, mà cịn có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển,
đồng thời ngày càng hoàn thiện về pháp lý một sân chơi cơng
bằng, bình đẳng cho các nhà thầu.
Hiệu quả của đấu thầu là đem lại lợi ích kinh t ế cho bên mời
thầu, đồng thời không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh clio

các nhà thầu trong sự hoàn thiện về pháp lý của các quy định
trong đấu thầu.
14


1.1.10. Nội dung của công túc đấu thầu
Công tác đấu thầu ở nước ta thực chất là hoạt động lựa chọn
nhà thầu (lựa chọn người bán) trong công việc mua sắm trên cơ sở
tuân theo 1 quy định chung. Quy định m ua sắm được ban hành
dưói dạng văn bản quy phạm pháp luật theo các hình thức khác
nhau, có thể là hình thức kiểu như Nghị định do Chính phủ ban
hành như ở nưóe ta hoặc thơng thường nhất là ban hành dưới hình
thức Luật Đấu thầu. Trên cơ sở quy định pháp luật, người mua
-

(Bên mời thầu) tổ chức các cuộc lựa chọn ngưòi bán (là các nhà
thầu) phù hợp nhất đáp ứng các yêu cầu của mình, dưới sự giám
sát của các cơ quan có trách nhiệm liên quan và của cơng luận.
Như vậy, nói một cách tổng quát, hoạt động đấu thầu (công
tác lựa chọn nhà thầu trong mua sẳm cơng) được hình thành từ 4
thành tố sau:
1.1.10.1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu
Một hệ thống văn bản hồn chỉnh có thể sẽ bao gồm từ Luật,
Pháp lệnh, cho đến Nghị định hướng dẫn hoặc là một Bộ luật
thống nhất và các mẫu chuẩn về đấu thầu (bao gồm mẫu hồ sơ
mời thầu, mẫu hợp đồng...). Hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật về đấu thầu là cơ sở pháp lý để thực hiện hoạt động đấu
thầu, nó quy định các đối tượng phải áp dụng, quy định về quy
trình, thủ tục thực hiện quá trình lựa chọn nhà thầu. Đồng thời
đây cũng là cơ sở để xử lý các sai phạm trong q trình thực hiện

đấu thầu từ phía người mua đến các nhà thầu cũng như các cá
nhân và tổ chức liên quan. Thông qua việc thực hiện theo các
quy định pháp luật về đấu thầu, các mục tiêu cơ bản của hoạt
15


động đấu thầu là sự cạnh tranh công bằng, công khai, minh bạch
và hiệu quả kinh tế sẽ có cơ hội cao nhất để đạt được.
1.1.10.2. Đơn vị thực hiện mua sắm (Bên mòi thầu) và các cơ
quan liên quan của Chính phủ:
Các đơn vị thực hiện việc mua sắm là các đơn vị được Chính
phủ giao cho trách nhiệm thực hiện công việc của Bên mời thầu
trong việc sử dụng các nguồn tiền của Nhà nước sao cho đạt
được các yêu cầu đặt ra với chi phí thấp nhất. Các đơn vị này là
đối tượng đầu tiên, trực tiếp cần thông hiểu và quán triệt các quy
định pháp luật về đấu thầu. Họ cần phải có đủ năng lực và trách
nhiệm trước cơng việc được giao. Bởi vì các đơn vị này tham gia
vào tất cả các khâu của quá trình đấu thầu, bắt đầu từ khi xây
dựng kế hoạch đấu thầu mua sắm, xây dựng các yêu cầu trong
hồ sơ mời thầu (bao gồm cả tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu),
đánh giá hồ sơ dự thầu và trình duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu.
Tiếp đó, đơn vị thực hiện mua sắm cịn có trách nhiệm thương
thảo hoàn thiện hợp đồng với nhà thầu trúng thầu. Sự thành cơng
của một cuộc đấu thầu đứng về phía người mua là phụ thuộc vào
chất lượng của đơn vị thực hiện mua sắm. Tính khách quan
(khơng thiên vị) của đơn vị này (nói đúng hơn là các thành viên
của đơn vị mua sắm) cũng là 1 yếu tố cấu thành chất lượng của
đơn vị mua sắm.
1.1.10.3. Các nhà thầu:
Nếu các đơn vị thực hiện mua sắm là đối tượng đầu tiên

chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động đấu thầu thì các nhà
thầu được coi là đối tượng quan trọng thứ 2. Thiếu sự tham gia
của các nhà thầu thì sẽ khơng có các cuộc đấu thầu. Sự cạnh
16


tranh của các nhà thầu trong các cuộc đấu thầu là yếu tố quan
trọng nhất mang lại hiệu quả kinh tế cho chủ thể thực hiện mua
sắm, đồng thời là động lực phát triển của toàn xã hội. Tuỳ từng
lĩnh vực mua sắm mà sự cạnh tranh của các nhà thầu có những
đặc điểm riêng.
1.1.10.4. Cộng đồng xã hội:
Hoạt động đấu thầu không chỉ dành cho các đorn vị mua sắm
và các nhà thầu, mà bởi vì nó liên quan tới việc sử dụng các
nguồn tiền của Nhà nước, của tồn xã hội, nó-ici5,âhải tn thủ
các quy định pháp luật về đấu th ầ Ị^ » ê ĩf^ ộ \ỉ^ rig Ịựệ\tách rời sự
giám sát cuả cộng đồng xã hÁp lực của cộng đồng x ã Y ^ ^ ^ ^ ũ « g ^ ĩ à m cho các đối
tượng tham gia trong các hoạt ằ ậ ữ ^ đ m thầu phải thực hiện theo
đúng những điều đã quy định. Với hệ thống các phương tiện
thông tin đại chúng như: Các tờ báo của Trung ương, địa phương,
các tạp chí chun ngành, các chương trình phát thanh, truyền
hình... luôn phản ảnh đầy đủ các thắc mắc, khiếu nại của cơng dân
trong hoạt động đấu thầu. Điều đó có tác dụng rất lớn trong việc
hướng các công việc diễn ra trong quậ trình đấu thầu được thể
hiện một cách rõ ràng, minh bạch và theo đúng quy định.
Trong một số trường hợp, thực tế do công luận nêu ra chính là
cơ sở để hồn thiện các quy định pháp luật về đấu thầu. Vì vậy,
việc hồn thiện, sửa đổi, bổ sung, nâng cấp một quy định pháp
luật về đấu thầu ln ln là u cầu khách quan và chính đáng.

1.2.

Sự cần thiết khách quan của đấu thầu trong nền kinh

tê thị trường
17


Ngay từ năm 1776 Adam Smith đã nói rằng “bàn tay vơ
hình ” sẽ .xác định việc sản xuất cúi gì, như th ể nào, cho ai.
“Bàn tay vơ hình ” như Atlam Smith nói chính là biểu thị đục
điểm phương thức hoạt động của thị tntịiig.
Trên đất nước có nền kinh tế thị trường hồn hảo, khơng có
một cá nhân, tổ chức cụ thể nào quyết định được việc phải sản
xuất bao nhiêu sản phẩm hàng hoá cụ thể nào đó, mà chính thị
trường sẽ quyết định điều đó. Chẳng hạn mặt hàng ô tô, hàng
triệu cá nhân phát đi tín hiệu về ước muốn có một chiếc ơ tô của
họ qua các cuộc viếng thăm các gian trưng bày và việc mua ô tô.
của họ sẽ bặt đèn xanh cho các nhà sản xuất, những người thấy
được tiềm năng thu được lợi nhuận nhiều hơn. Làm như vậy họ
sẽ tăng được sản lượng ô tô. Nếu khách hàng khơng cịn tiếp tục
mua ơ tơ thì sẽ khơng có lợi nhuận nữa. Các nhà sản xuất sẽ
phản ứng bằng cách giảm sản lượng, sa thải cơng nhân và thậm
chí sẽ đóng cửa xí nghiệp. Mối liên hệ tương hỗ giữa khách hàng
và nhà sản xuất rút cục sẽ quyết định vấn đề sản xuất bao nhiêu
ô tô. Nếu khách hàng yêu cầu thêm ô tô, hỗn hợp sản lượng sẽ
gồm nhiều ơ tơ và ít hàng hố khác hơn. Nếu sản xuất ô tô giảm
xuống, các công nhân sản xuất ô tô bị sa thải sẽ chuyển sang sản
xuất hàng hố và dịch vụ khác. Tình huống đó sẽ thay đổi hỗn
hợp sản lượng theo hướng ngược lại.

Bàn tay vơ hình của Adam Smith ngày nay được gọi là cơ chế
thị trường. Cơ chế thị trường khơng địi hỏi bất kỳ một sự tiếp
xúc trực tiếp nào giữa khách hàng và nhà sản xuất. Sự tiếp xúc
giữa họ là gián tiếp thông qua giá cả thị trường và việc bán hàng.
Bởi vì đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường là tín hiệu giá cả.
18


Một khi bạn muốn gì và nếu bạn có thu nhập vira đủ, bạn có thể
mua nó. Nếu có đủ dân cư cùng hành động như vậy, tổng sản
phẩm bán ra sẽ tăng lên và có lẽ giá cả cũng tăng theo. Các nhà
sản xuất khi nhận thấy việc mua bán và giá cả tăng lên, sẽ muốn
khai thác tiềm nãng lợi nhuận này. Đê làm được điều này, họ sẽ
cố gắng giành được phần lớn hơn các nguồn lực sẵn có và sử
dụng chúng đê sản xuất các hàng hố mà xã hội mong muốn.
Hồn tồn khơng cần có sự tiếp xúc trực tiếp giữa khách hàng và
nhà sản xuất. Việc bán hàng và giá cả thị trưòng sẽ phát tín hiệu
và định hướng cho thị trường, giống như một bàn tay vơ hình.
Cơ chế thị trường cũng giải quyết vấn đề sản xuất cho ai. Thị
trường sẽ phân phối hiệu quả hàng hoá ted người chào giá cao
nhất. Các cá nhân sẵn sàng và có năng lực trả tiền nhiều nhất cho
một hàng hố sẽ có xu hướng tham gia vào một nền kinh tế thị
trường thuần nhất.
Tính tối ưu của kết quả trên thị trường là một lý lẽ rất thuyết
phục cho việc thả nổi thị trường. Thực chất học thuyết thả nổi thị
trường công nhận rằng các thị trường riêng rẽ không chỉ hoạt
động hiệu quả, mà cịn giúp mỗi người có thể đạt được sự hài
lòng tối đa. Trong khung cảnh này,'sự can thiệp của Chính phủ
được xem như một sự đe doạ cho việc đạt được hỗn hợp sản
lượng đúng và những mục đích kinh tế khác. Tính hiệu quả rõ

ràng của cơ chế thị trường trong việc phân phối số nguồn lực
hiếm hoi có vẻ phủ nhận sự can thiệp của Chính phủ. Kể từ khi
Adam Smith phát triển khái niệm thả nổi thị trường (năm 1776),
học thuyết này đã có ảnh hưởng sâu sắc đến cách hoạt động của
nền kinh tế và đến những quyết định của Chính phủ.
19


Cơ chế thị trường sẽ hoạt động tốt nhất trong hồn cảnh khi
có sự co lại của lợi nhuận và giá cả. Việc tồn tại lợi nhuận kinh
tế chỉ ra rằng người tiêu dùnạ đánh giá cao một sản phẩm nào đó
và sẽ sẵn lịng trả một 2Ĩá tương đối cao để có thứ sản phẩm đó.
Giá và lợi nhuận cao gửi thông tin này đến các nhà doanh nghiệp
háo lợi nhất và họ sẽ nhanh chóng thoả mãn nhu cầu của người
tiêu dùng. Như vậy, lợi nhuận cao ở một ngành cụ thể chỉ ra rằng
người tiêu dùng muốn có một sự thay đổi trong tỷ trọng sản
lượng (nhiều thêm sản phẩm của ngành đó). Việc lợi nhuận co
lại một cách tương đối chỉ ra rằng nhỮỊ^g nguồn lực đang được
bố trí lại để cho ra một tỷ trọng mong muốn. Trong một thị
trường cạnh tranh, người tiêu dùng sẽ được một số hàng hoá
nhiều hơn với giá hạ hơn.
Khi sức ép cạnh tranh lên giá cả đạt đỉnh điểm, sản phẩm
được làm ra với mức chi phí sản xuất thấp nhất, đó là một khía
cạnh khác của hiệu quả kinh tế. Điều này có thể được chứng
minh thơng qua quá trình chuyển từ cân bằng ngắn hạn sang cân
bằng dài hạn. Một khi cân bằng dài hạn được xác lập, xã hội sẽ
nhận được nhiều nhất từ những nguồn lực (khan hiếm) sẵn có.
Với cân bằng dài hạn, tất cả các lợi nhuận kinh tế bị thủ tiêu.
Điều đó khơng có nghĩa là các nhà sản xuất sẽ trắng tay. Lý do
thứ nhất là tình trạng lợi nhuận bằng khơng hiếm khi xảy ra bởi vì

các sản phẩm mới được đưa vào thị trường một cách liên tiếp, nhu
cầu người tiêu dùng thay đổi và các quy trình sản xuất hữu hiệu
hơn được phát hiện. Thực tế, quá trình cạnh tranh tạo ra một áp
lực lớn cho việc đổi mới sản phẩm và công nghệ. Trong thị trường
cạnh tranh câu châm ngôn “trâu chậm uống nước đục” thật là xác


đáng. Chẳng hạn, trong thị trường máy tính, những hãng đầu tiên
nhận biết và đáp ứng cái lợi tiềm năng của việc sản xuất máy tính
chính là nhũng người kiếm được nhiều lợi nhuận nhất.
Thứ tự các sự kiện thường xảy ra trong thị trưòng cạnh tranh
bao gồm:
- Giá cả và lợi nhuận cao đánh tín hiệu về nhu cầu có một sản
lượng lớn hơn từ phía người tiêu dùng.
- Lợi nhuận kinh tế hấp dẫn thêm các nhà cung cấp.
- M ột cân bằng mới đạt được trong đó sản lượng của sản
phẩm có nhu cầu gia tăng và giá giảm đi. Chi phí sản xuất trung
bình nằm tại điểm tối thiểu (hay gần đó), sản phẩm được sản
xuất và tiêu thụ nhiều hơn và lợi nhuận kinh tế tiến gần đến
khơng.
- Trong suốt q trình, các nhà sản xuất ln phải đối phó vói
áp lực của việc suy giảm lợi nhuận bằng cách giảm chi phí sản
xuất đổi mới sản phẩm và đổi mới công nghệ.
Một điều cốt yếu cần lưu ý về quá trình cạnh tranh là mối đe
đọa tiềm tàng của việc mở rộng sản xuất của những hãng đã có
mặt và sự tham gia của các hãng-mới làm cho các hãng trong thị
trường luôn phải cảnh giác. Thậm chí những hãng thành đạt
cũng khơng thể tự mãn. Để tiếp tục tham gia trò chơi, các hãng
cạnh tranh phải thường xuyên cải tiến công nghệ, sản phẩm và
giảm chi phí.

Tuy nhiên, khơng thể để cho cơ chế thị trường ra mọi quyết
định. Một trong những điều mà Karl Marx kĩu ý là những người
giàu sẽ nắm phân lớn sản phẩm xã hội khi cơ chế thị trường xử
21


lý các vấn đề sản xuất cho ai. Karl Marx cho rằng Chính phủ
phải can thiệp để uốn nắn sự bất cơng này. Bởi vì, trong khi bàn
tay vơ hình xây dựng lâu đài cho các triệu phú nhưng đã bỏ mặc
hàng ngàn người vô gia cư. Thị trường phân phối phần lớn các
nguồn lực cho tiêu dùng hữu hình, trong khi lại bỏ qua các nhu
cầu xã hội về cán bộ và vốn. Marx cho rằng các nhà lập kế
hoạch trung ương có thể sản xuất ra một hỗn họp sản phẩm đáng
mong muốn hơn.
Như vậy, có thể nói bàn tay vơ hình của Adam Smith và bàn
tay hữu hình của cơ chế kế hoạch hố tập trung là hai cách giải
quyết kinh tế cơ bản khác nhau. Không có quốc gia nào chỉ dựa
hồn tồn vào một cơ chế. Thay vào đó, hầu hết các nền kinh tế
đều sử dụng một sự phối hợp giữa các tín hiệu thị trường và sự
điều tiết của Chính phủ để lựa chọn hiệu quả kinh tế. Những thoả
hiệp do đó được gọi là các nền kinh tế hỗn họp.
Có những sự khác biệt lớn trong những hỗn họp cụ thể được
lựa chọn. Chẳng hạn Hoa Kỳ dựa vào các tín hiệu thị trường
nhiều hơn so với Vương quốc Anh. Ở Nga, cơ chế thị trường mới
chỉ thay thế được một phần cơ chế. kế hoạch hoá tập trung. Điều
tiết tập trung vẫn còn bộc lộ rõ trong khi giải quyết các vấn đề
sản xuất gì? Như thế nào? Và cho ai? Singapore là một nền kinh
tế thị trường đang lên, nhưng Chính phủ cũng điều tiết nhiều ứng
xử của người tiêu dùng (chẳng hạn như cấm kẹo cao su). Ở Châu
Mỹ Latinh, các xí nghiệp Nhà nưóc vẫn kiểm sốt những ngành

công nghiệp then chốt ở nhiều quốc gia cho dù các thị trường tư
nhân khá phát triển.
22


Việc các nước trên thế giới không muốn dựa hẳn vào hoặc là
các tín hiệu thị trường hoặc là sự điều tiết của Chính phủ là do
nhận thức được cả hai loại cơ chế này đều tiềm ẩn sự thất bại bất
cứ lúc nào.
Mục đích của mọi xã hội là đạt được hiệu quả kinh tế tối ưu
nhất có thể, một lỗn hợp sản phẩm đáng mong muốn nhất và một
sự phân phối thu nhập công bằng. Như chúng ta đã thấy, các tín
hiộu của thị trường có khả năng trả lcd cơ bản câu hỏi này.
Nhưng những câu trả lời này không thể là tối ưu nhất. Nếu điều
d ó sảy ra thì chúng ta nói rằng cơ chế thị trường đã thất bại. Nói
một cách cụ thể hơn thì sự thất bại của thị trường có nghĩa là bàn
tay vơ hình đã khơng đạt được hiệu quả tối ưu. Nếu thị trường
thất bại, chúng ta sẽ không thu được một hỗn hợp sản phẩm tối
ưu. Vì sẽ có q nhiều ngưịd thất nghiệp, khơng khí bị ơ nhiễm,
hoặc phân phối thu nhập không công bằng.
Chẳng hạn, trong một nền kinh tế theo định hướng thị trường,
các nhà sản xuất sẽ lựa chọn các phương pháp sản xuất dựa trên
cơ sờ chi phí. Song các quyết định sản xuất dựa vào chi phí có
thể dẫn một xí nghiệp tód việc làm môi trường ô nhiễm hơn là sử
dụng những phương thức sản xuất sạch nhưng lại tốn kém hơn.
Hậu quả của ơ nhiễm có thể xấu tới mức xã hội phải trả giá đắt
do sản xuất quá mức. Trong trường hợp này chúng ta cần đến sự
can thiệp của Chính phủ để buộc phải có những giải pháp tốt hơn
cho các vấn đề sản xuất cái gì và như thế nào.
Sự can thiệp của Chính phủ có thể dẫn chúng ta đến gần mục

tiêu kinh tế. Như vậy thì sự hỗn hợp giữa tín các hiệu thị trường
và sự điều tiết của Chính phủ sẽ là một sự cải thiện so với một
23


nền kinh tế hướng thị trường thuần tuý. Song sự can thiệp của
Chính phủ cũng có thể thất bại. Sự thất bại của Chính phủ xảy ra
khi sự can thiệp của Chính phủ khơng cải thiện được hiệu quả thị
trường hay thực tế cịn làm cho nó xấu hơn. Sự sụp đổ của hàng
loạt quốc gia Đông Âu cho thấy sự điều tiết của Chính phủ có
thể thất bại đến mức nào. Nhưng sự thất bại của Chính phủ cũng
xảy ra theo những cách ít ngoạn mục hơn. Ví dụ, Chính phủ có
thể can thiệp để buộc ngành cơng nghiệp phải làm sạch mơi
trường. Song, sự điều tiết của Chính phủ có thể gây ra mức chi
phí cao đến mức ngành cơng nghiệp ấy phải đóng cửa và sa thải
cơng nhân. Việc cắt giảm sản lượng ở mức nhất định có thể là
thích hợp, nhưng cũng có khi là q đáng. Chính phủ cũng có
thể u cầu sử dụng nhũng cơng nghệ kiểm sốt mơi trường q
đắt hoặc thậm chí đã lỗi thời. Nếu thực tế có như vậy thì sẽ làm
cho hiệu quả kinh tế tồi tệ hơn.
Chính phủ cịn có thể thất bại nếu nó gây trở ngại cho giải
pháp của thị trường đối với vấn đề sản xuất cho ai? Nếu Chính
phủ tăng thuế đối với tầng lớp giàu để trang trải phúc lợi cho
người nghèo, thì cả người giàu lẫn người nghèo đều không nhận
thấy mục đích làm việc để làm gì. Trong trường hợp này, cố
gắng giành cho mọi người một phần công bằng trong chiếc bánh
có thể làm giảm kích thước của chiếc bánh. Nếu điều đó xảy ra,
xã hội sẽ trở nên tồi tệ hơn.
Chúng ta đều mong muốn khơng có bất kỳ thất bại nào trong
số này xảy ra, nhưng chúng vẫn có thể xảy ra. Sự thách thức đối

với xã hội là phải tối thiểu hoá những thất bại bằng cách lựa
chọn sự cân bằng hợp lý giữa các tín hiệu thị trường và sự điều
24


tiết của Chính phủ. Đây hồn tồn khơng phải là cơng việc dễ
dàng. Nó địi hỏi chúng ta là phải tìm hiểu thị trường sẽ vận
động ra sao, cũng như đơi lúc tại sao nó lại bị trục trặc. Chúng ta
cũng cần phải biết xem Chính phủ cần lựa chọn chính sách nào
và cần thực thi những chính sách ấy ra sao và khi nào.
Theo lý thuyết về thị trường, hàng hoá tư nhân là hàng hoá
hay dịch vụ được tiêu thụ loại trừ khả năng tiêu thụ nó của người
khác. Ví dụ như khi xem xét việc bạn ăn một món bánh, bạn sẽ
có sự thoả mãn với mùi vị và với cái dạ dày đã no hơn - đó là,
bạn đã có được một lợi ích cá nhân. Chẳng có ai hưởng lợi gì từ
việc bạn thưởng thức món bánh đó; món bánh mà bạn mua ở thị
trường là để bạn ăn một mình; đó là hàng hố tư nhân. Với lơ gíc
như vậy, hàng hố cơng là hàng hố và dịch vụ được một người
tiêu thụ khơng loại trừ việc tiêu thụ nó của người khác. Nếu bạn
mua tàu ngầm nguyên tử để tuần tra Thái Bình Dương, khơng có
cách nào để bạn ngăn cản khơng cho các nước láng giềng được
hưởng sự bảo vệ do tàu ngầm nguyên tử của bạn tạo nên. Hoặc
là, những kẻ-ngăn chặn tàu ngầm là những kẻ tấn công-, hoặc
không phải. Trong trường hợp đầu cả bạn và các nước láng giềng
được sống mãi trong hạnh phúc. Trong trường hợp sau tất cả đều
bị tan tành. Như vậv, bạn và các nước láng giềng của bạn được
hưởng hoặc không được hưởng lợi ích bảo vệ của tàu ngầm
nguyên tử cùng nhau. Việc sử dụng phòng thủ nguyên tử là hành
động chung khơng phụ thuộc vào Việc ai thanh tốn chúng. Do
vậy quốc phịng được coi như hàng hố cơng hay sản phẩm

cơng, trong chừng mực mà tiêu thụ hàng hố cơng cộng bởi một
người không ngăn cản việc tiêu thụ cùng loại hàng hố đó bởi
người khác.
25


Bản chất chung của hàng hố cơng cộng dẫn đến một hồn
cảnh khó xử thực sự. Nếu nói cả tơi và bạn đều hưởng lợi từ việc
phòng thủ hạt nhân, ai trong số chúng ta sẽ mua tàu ngầm
nguyên tử? Tơi thích bạn mua nó, bằng cách ấy cung cấp cho tơi
sự bảo vệ mà khơng phải trả phí trực tiếp. Do vậy tội có thể bày
tỏ một sự khơng mong muốn có tàu ngầm nguyên tử, thầm hy
vọng có được cuộc chơi miễn phí (free ride) trên việc mua sắm ở
thị trường của bạn. Nhưng thật không may mắn là bạn cũng có
một động cơ để che dấu mong muốn của bạn trong việc phòng
thủ quốc gia. Kết quả là chẳng có ai trong chúng ta đứng ra để
mua tàu ngầm nguyên tử trên thị trường.
Sự khác nhau giữa hàng hố cơng và hàng hố tư dựa trên sự
xem xét về kỹ thuật, chứ không phải là triết lý chính trị. Câu hỏi
cơ bản là liệu chúng ta có đủ khả năng kỹ thuật để loại trừ những
người không trả tiền hay khơng. Trong trường hợp quốc phịng
hoặc ngăn lũ, chúng ta đơn giản là khơng có khả năng đó.
Để liệt kê các hàng hố cơng chúng ta có thể cộng thêm việc
thực thi công lý, các quy định về buôn bán, và xử lý các quan hệ
đối ngoại. Các dịch vụ này có giá trị nhiều tỷ đơ la và sử dụng
hàng ngàn lao động - cung cấp lợi ích cho tất cả mọi người,
khơng kể đến việc ai sẽ thanh toán. Trong mọi trường hợp việc
loại trừ những người khơng thanh tốn cho các dịch vụ được
hưởng là khơng thể.
Những cuộc chơi miễn phí gắn với hàng hố cơng làm đảo

lộn thực tiễn theo thơng lệ của việc thanh tốn cái mà bạn mua.
Vì mắt xích thường gặp giữa thanh toán và tiêu dừng bị phá vỡ,
hàng hố cơng khơng thể được bán ra trên thị trưịng. Người ta
26


×