CK.0000066591
Minn quftNii
TS.ĐÔN XN ĨHỦY
(Đổng chủ biên)
13. nbUTcra
CHÍNH SÁCH
UNG PHĨ
KHỦNG HOẢNG
KINH TÊ
x
CU1#
VIỆT NAM
■
CHÍNH SÁCH
ỨNG PHĨ
KHỦNG H0ẢN6
KINH TÉ
CÙA
VIỆT NAM
Mã SCK
3.33 (V)
CTQG - 2010
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Hồ CHÍ MINH
VIỆN KINH TÊ
TS. NGUYỄN MINH QUANG
TS. AỐN XN THỦY
(Đống chù biên)
CHÍNH SÁCH
ỨNG PHĨ
KHỦNG HOẢNG
KINH TÊ
CỦA
VIỆT NAM
(S ách tham k h ả o )__
NHÀ XUẮĨ BÀN CHÍNH ĨR Ị QUOC GIA
Hi Nội - 2010
Tập th ể tác giả:
TS. Nguyễn Minh Quang (đồng chủ biên)
TS. Đoàn Xuân Thuỷ (đồng chủ biên)
PGS.TS. Nguyễn Thị Như Hà
PGS.TS. Nguyễn Đình Kháng
PGS.TS. Nguyễn Văn Hậu
PGS.TS. Hồng Thị Bích Loan
TS. Phạm Thị Tuý
Th.s. Ngô Tuấn Nghĩa
CN. Trần M inh Ngọc
4
CHÚ DẨN CỦA NHÀ XUẤT BẢN
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra từ những
tháng cuối năm 2008 và đầu năm 2009 bắt đầu từ Mỹ và lan
nhanh sang các nưốc lớn như Nhật, Pháp, Đức... diễn biến
rất phức tạp, bùng nổ mạnh mẽ trong các ngành, lĩnh vực
như tài chính, ngân hàng, bất động sản V.V.. Trước bối cảnh
tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới đến Việt Nam,
Chính phủ đã ban hành hệ thống các chính sách ứng phó
nhằm duy trì ổn định kinh tế vĩ mơ, điểu đó thể íiiện sự linh
hoạt của Chính phủ trong điểu hành kinh tế mặc dù chúng
ta chưa có nhiều kinh nghiệm vê ứng phó với tác động của
khủng hoảng kinh tế thế giói.
Đáp ứng nhu cầu của bạn đọc có được tư liệu tham khảo
trong việc tìm hiểu các nội dung cơ bản vể chính sách ứng
phó với khủng hoảng kinh tế của Nhà nước ta, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách: Chính sách ủng
phó với kh ủ n g hoảng kinh tế của Việt Nam. Cuốn sách
do tập thể tác giả của Viện Kinh tế, Học viện Chính trị và
hành chính qc gia Hồ Chí Minh biên soạn dựa trên CƯ sỏ
nguồn sơ' liệu, tư liệu chính thức đã được cơng bố, có sự phân
tích, kế thừa, bổ sung nhằm bưốc đầu đánh giá thành cơng
của những chính sách ứng phó khủng hoảng kinh tế của Việt
Nam và chỉ ra những vấn để cần tiếp tục hoàn thiện và
5
những nguyên nhân, giải pháp khắc phục. Trong quá trinh
biên soạn và xuất bản, mặc dù các tác giả và Nhà xuất bản
đã hết sức cô' gắng nhưng cuốn sách có thể cịn có những
khiếm khuyết nhất định. Vì vậy, rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của bạn đọc để trong lần tái bản sau cuốn
sách được hoàn chỉnh hơn.
'Xin giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Tháng 3 năm 2010
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ Q uốc GIA
6
MỞ ĐẦU
Khủng hoảng kinh tê là căn bệnh luôn tồn tại và đi
kèm với sự vận động, và phát triển của chủ nghĩa tư
bản. Lịch sử đã chứng minh điều đó. Ngày nay, trong
điêu kiện của thê giới hiện đại, khủng hoảng kinh tế
được biểu hiện dưói nhiều hình thức khác nhau: khủng
hoảng kinh tê khu vực; khủng hoảng dầu mỏ; khủng
hoảng tài chính tiền tệ; khủng hoảng mơi trường V.V..
Diỗn biến các cuộc khủng hoảng ngày càng khốc liệt, sức
lan toả nhanh và vùng chịu ảnh hưởng ngày càng lớn.
Cuộc khủng hoảng kinh tế th ế giới diễn ra từ những
tháng cuối năm 2008 và đầu năm 2009, b ắ t đầu từ Mỹ,
sau đó lan nhanh sang các nước lớn như N hật, Pháp,
Đức... và các nền kinh tế khác. Diễn biến của khủng
hoảng kinh tế lần này r ấ t phức tạp, bùng nổ m ạnh mẽ
trong các ngành, lĩnh vực: tài chính, ngân hàng, bất
động sản và công nghiệp chê tạo ô tô v.v. vốn được coi là
nhạy rảm, siêu lợi nhuận, tưởng như có thể trụ vững
trong mọi hoàn cảnh b ất lợi nhất. Điều đó đã và đang
dặt ra nhiều câu hỏi cần lịi giải đáp.
Các lý thuyết kinh tế học hiện đại trước đây thường
đưa ra những kết luận khẳng định vị thê của các tập
7
đồn kinh tế siêu cường, về khả năng thích nghi và
phát triển trong điều kiện của cách m ạng khoa học công nghệ hiện đại V.V.. Sự đổ vỡ quá bất ngờ và to lỏn
đối với chính những chủ th ể kinh tế có lịch sử phát
triển ổn định hàng th ế kỷ, v.v. đã đặt ra vấn để cần
kiểm chứng lại những lý th u y ết trên.
Để đối phó vói khủng hoảng, các quốc gia, các tổ
chức kinh tế th ế giới và khu vực, từ những mức độ khác
nhau đều đã thực hiện hàng loạt các biện pháp, chính
sách m ạnh để giải cứu nền kinh tế. Nhưng tựu trung
lại, những biện pháp chính sách chủ yếu là dùng ngân
sách nhà nước để hỗ trợ cho các ngành, các lĩnh vực
kinh tế duy trì sự ổn định và p h át triển.
Về m ặt lý thuyết, các trường phái kinh tế, các học
giả kinh tế trên th ế giới cũng nhìn nhận và xem xét lại
các lý thuyết kinh tế đặt trong bối cảnh lịch sử mới của
th ế giới, nhằm luận giải một cách thuyết phục nguyên
nhân của khủng hoảng tài chính th ế giới lần này, từ đó
đề xuất phương hướng và giải pháp khắc phục.
Việt Nam chịu tác động của khủng hoảng kinh tê
không nhỏ khi nền kinh tế nưốc ta đang hội nhập sâu,
rộng vào nển kinh tê toàn cầu, n h ất là các lĩnh vực đầu
tư, xuất nhập khẩu, tài chính và lan toả sang các lĩnh
vực khác. Nhằm ứng phó vói khủng hoảng, từ kinh
nghiệm lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Chính phủ đã thực
hiện các biện pháp, chính sách thiết thực và quyết liệt,
tập trung vào các vấn đề kinh tế vĩ mơ: chính sách đầu
8
tư, chính sách thuế, chính sách tiền tệ tín dụng, chính
sách an sinh xã hội v.v. và thực hiện ngay trong năm
2009. Các chính sách, biện pháp mà Chính phủ thực
hiện đã phát huy hiệu quả, nhận được sự ủng hộ và đồng
th u ận xã hội cao. Để tổng kết đánh giá những chính
sách trên, nghiêm túc chỉ ra những kết quả đ ạt được và
những vấn đê đặt ra cần tiếp tục bổ sung hồn thiện, đã
có rấ t nhiều hội thảo khoa học, các chuyên đê và đề tài
nghiên cứu về vấn này ở các cấp độ khác nhau. Trong
khung khổ cho phép, tập thể tác giả Ban Kinh tế chính
trị - Viện Kinh tế - Học viện Chính trị - H ành chính quốc
gia Hồ Chí Minh tập trung nghiên cứu phân tích đánh
giá chính sách ứng phó khủng hoảng kinh tế của Việt
Nam dưới cách tiếp cận phân tích từ kinh tế chính trị.
Trên cơ sở nguồn sơ" liệu, tư liệu chính thức đã được cơng
bơ', có sự phân tích k ế thừa, bổ sung nhằm bước đầu
đánh giá th àn h công của những chính sách ứng phó
khủng hoảng kinh tế của Việt Nam và chỉ ra những vấn
đê cần tiếp tục hoàn thiện và nguyên nhân.
Với tấ t cả những cố gắng của tập th ể tác giả, nhưng
do yêu cầu về thời gian và tín h thịi sự của cuốn sách
cũng như cách tiếp cận và nguồn tư liệu... nên nội dung
cuốn sách mới chỉ là những suy nghĩ phác thảo đánh
giá ban đầu và BÕ rịn nhiểu t.hiếu sót.
Tập thể tác giả rấ t mong n hận được ý kiến đóng góp,
chia sẻ của các nhà khoa học và những người quan tâm
đến những vấn đê này.
Tập th ể tá c giả
9
P h ầ n th ứ n h ấ t
KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THÊ' GIỚI VÀ CHÍNH
SÁCH CỦA VIỆT NAM
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỂ
KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI
NĂM 2008-2009
1. Sự bùng nổ của khủng hoảng
Cuộc khủng hoảng kinh tê th ế giới những tháng cuối
năm 2008 đầu năm 2009 ở Mỹ, bắt nguồn từ chính sách
cho vay tín dụng dưới chuẩn (Subprime, hay cịn gọi là
tín dụng th ế chấp rủi ro cao đổi với thị trường bất động
sản), với chính sách tiền tệ nới lỏng, "đồng USD rẻ" duy
trì trong thời gian dài của Chính phủ Mỹ, trong khi
thiếu cơ chê giám sá t chặt chẽ của Chính phủ, đã dẫn
đến sự hình thành "siêu bong bóng" tài chính và bất
động sản. Cùng với sự phát triển rủa nhiều dịch vụ và
sản phẩm tài chính mới trong lĩnh vực tài chính ngân
hàng, những biến đổi các khoản cho vay thành công cụ
đầu tư, tạo điều kiện cho thị trường tín dụng phục vụ
cho thị trường bất động sản và đã trở thành sân chơi
11
cho nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Sự phá sản
của các tập đồn tài chính như “Fannie Mae” và
“Freddie Mac” và các ngân hàng lớn như “Lehm an
Brothers” (ngân hàng đầu tư lớn thứ năm của Mỹ),
“City Bank Group” đã dẫn đến sự đổ vỡ dây chuyền. Đã
có gần 1.200 ngân hàng Mỹ nộp đơn xin trợ cấp từ
Chương trình hỗ trợ của Chính phủ để trán h lâm vào
khủng hoảng. Tình hình hai tháng đầu năm 2009 đã có
16 ngân hàng Mỹ bị giải thể. Và theo Tập đoàn Bảo
hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ (FDIC) báo cáo vê' thực
trạng ngành Ngân hàng Mỹ ngày 26-02-2009: sô" ngân
hàng đối m ặt với khả năng bị giải thể tính tới quý IV
năm 2008 đã lên tối mức cao nhất trong vòng 15 năm
trở lại đây; gồm 252 ngân hàng, tăng dần gấp rưỡi so
với con sô' 171 ngân hàng trong bản danh sách công bố
vào cuối quý III-2008. Đây là sô" ngân hàng Mỹ bên bờ
vực đổ vỡ cao nhất kể từ năm 1995 trở lại đây, chiếm
khoảng 3% trong tổng số khoảng 8.500 ngân hàng và tổ
chức tiết kiệm mà FDIC đang đứng ra bảo hiểm.
Tình trạng khó khăn, đổ vỡ trong lĩnh vực tài chính ngân hàng đã lan toả sang các ngành sản xuất kinh
doanh như công nghiệp ô tô, xây dựng V.V.. Kinh tế Mỹ
lâm vào tình trạng suy thối với tốc độ nhanh, tăng
trưởng kinh tê quý III-2008 ở mức 0,3%, quý TV-2008 là
6,2% (ước tính ban đầu là 3,8%). Mức chi tiêu của người
tiêu dùng, là khoản đóng góp tối hai phần ba vào sự tăng
trưởng kinh tế Mỹ bị suy giảm m ạnh nhất kể từ năm
1980 đến nay. Thâm hụt ngân sách liên bang trong nám
12
tài khoá 2008 tăng mạnh tới mức kỷ lục 454,8 tỷ USD,
cao gấp ba lần mức thâm hụt 161,5 tỷ USD trong năm
tài khoá 2007. Theo dự báo của Văn phòng Ngân sách
Quốc hội Mỹ (CBO), ngân sách Liên bang tủ a Mỹ trong
năm tài khoá 2008 - 2009 sẽ bị thâm hụt 1.200 tỷ USD,
tương đương khoảng 8,3% GDP của Mỹ.
Sự bùng nổ của khủng hoảng lan nhanh sang nền
kinh tê lớn thứ hai th ế giới: N hật Bản đã chính thức
cơng bơ' lâm vào suy thối kinh tế ngày 18-11-2008.
Đây là lần đầu tiên kể từ năm 2001 kinh tế N hật Bản
rơi vào suy thoái. Và trước đó, khu vực đồng tiển chung
Euro cũng lần đầu tiên rơi vào suy thối kể từ khi hình
thành năm 1999. Theo số liệu thống kê cho thấy GDP
của 15 nước sử dụng đồng tiền chung Euro đã tăng
trưởng âm liên tiếp trong quý II và quý III năm 2008.
Đặc biệt trầm trọng đối với những nền kinh tế lớn trong
khối như Đức là nền kinh tế lớn nhất châu Âu và đứng
thứ ba th ế giới chính thức rơi vào cuộc suy thối lớn
n h ất trong vịng 12 năm qua. Kinh tế Anh cũng lâm vào
suy thoái, theo dự báo năm 2009 sẽ chịu mức sút giảm
m ạnh n h ấ t kể từ gần hai thập niên qua, số người th ấ t
nghiệp có thể lên tới ba triệu người vào năm 2010. Sô"
liệu thống kê của Italia cho biết nền kinh tế nước này
cũng đang rơi vào suy thoái, đây là cuộc suy thoái nặng
nề n h ấ t kê từ năm 1992. Trong khi đó, tốc độ tãng
trưởng kinh tế bình quân của các nước Trung và Đơng
Âu năm 2008 chỉ cịn 3,2% so với mức 5,4% năm 2007.
Đồng tiền của nhiều quốc gia ở đây vì th ế đã sụt giảm
13
m ạnh tỷ giá so với Euro, khiến lượng nợ Euro mà các
nước này đang m ang càng thêm khổng lồ. Chẳng hạn,
đồng Zloty của Ba Lan đã m ất giá 48% so vối đồng Euro
từ mức đỉnh ở mùa hè năm ngoái. Bất ổn xã hội tại
T rung và Đơng Âu vì th ế cũng leo thang m ạnh mẽ.
Cuộc khủng hoảng buộc các chính phủ phải cắt giảm
các dịch vụ công cộng, khiến sự b ấ t đồng trong xã hội
tăng theo.
Dưới tác động của khủng hoảng tài chính tồn cầu,
kinh tế Trung Quốc vốn được coi là một động lực tăng
trưởng của kinh tê thê giới, sau nhiều năm tăn g trưởng
ở mức hai con sô", cũng đã giảm chỉ còn 9% trong quý III
năm 2008. Ngân hàng T hế giới (WB) dự báo tăng
trưởng GDP của Trung Quốc chỉ tăn g 7,5% trong năm
2008, mức thấp n h ất trong vòng 19 năm qua. Tốc độ
tăng trưởng công nghiệp đã giảm sú t nghiêm trọng từ
16% tháng 6 xucíng cịn 8,2% tháng 10, thấp n h ấ t trong
bảy năm qua. Xuất khẩu suy giảm do khủng hoảng tài
chính, theo dự báo sẽ cịn khó k hăn hơn trong năm
2009, kéo theo sự sụt giảm nhiều ngành sản xuất khác
và làm tăng tỷ lệ th ấ t nghiệp.
ở Nga, khủng hoảng tài chính đang ngày càng trầm
trọng khi đồng Rúp m ất giá m ạnh, Chính phủ đã phải
chi tới 58 tỷ USD giữ giá đồng tiền này. Trong khi đó,
nguy cơ thâm hụt ngân sách của Nga rấ t lớn và kinh tê
khó khăn, bởi thời kỳ thịnh vượng nhò giá dầu lửa cao
đã chấm dứt. Nền kinh tế Nga vốn ổn định và m ạnh lên
trong thòi gian khá dài nhờ xuất khẩu dầu lửa được
14
giá, nhưng hiện đứng trước nhiều khó khăn do khủng
hoảng tài chính và giá dầu thê giới giảm mạnh, xuống
dưới 50 ƯSD/thùng - đây là mức thấp nhất trong bôn
năm qua. Nga đã chi khoảng 190 tỷ USD nhằm hỗ trợ
hệ thơng tài chính và ngân hàng, các ngành kinh tê
then chốt cũng như cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đây được coi là giải pháp m ạnh nhằm đưa nền kinh tê
thốt khỏi khủng hoảng.
0 Địng - Nam A, hầu hết các nền kinh tế lón phát
triển dựa vào xuất khẩu, thương mại quốic tê và đầu tư
nước ngoài. Do vậy, dù ở mức độ khác nhau các nước
trong khu vực Đông Nam Á đểu bị tác động của xu
hướng JÌảm sút thương mại và đầu tư trên thê giới hiện
nay. Trước mắt, lĩnh vực xuất khẩu, thị trường chứng
khoán và thị trường tiền tệ khu vực đang chịu ảnh
hưởng m ạnh của cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu.
Xingapo là qũc gia đầu tiên ở Đơng Nam Á rơi vào suy
thoái trong năm 2008, ba lĩnh vực trụ cột của kinh tê
nước này là: xuâ't khẩu hàng công nghiệp chê tạo, dịch
vụ tài chính ngân hàng và du lịch đểu bị ảnh hưởng
nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu, dự
báo tơc độ tăng trưởng kinh tế cả năm khoảng 3%.
Chính phủ đã phải tạm thời đình chỉ kế hoạch từng
bưốc tăng giá đồng nội tệ SGD. Các biện pháp kích
thích cả gói có thê làm cho thâm hụt ngân sách nam
2008 tăng lên gấp ba lần. Ở những mức độ khác nhau,
Thái Lan và Hàn Quốc cũng chịu ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng này. Trong bơi cảnh đó, Pakixtan là nước
15
châu Á đầu tiên kêu gọi Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) trợ
giúp 6,5 tỷ USD...
Tóm lại, bắt đầu từ Mỹ sự bùng nổ của khủng hoảng
kinh tê đã lan sang các nền kinh tê lớn và bao trùm gần
khắp các nước trên th ế giới. Các ngành kinh tê như
ngân hàng, tài chính, cơng nghiệp chế tạo ơ tơ và bất
động sản vốn được coi là siêu lợi nhuận trong thời đại
ngày nay đã bị gục ngã khi mà phát triển liên tục qua
nhiều thập kỷ và tưởng như không thể th ấ t bại. Điểu
này đang đặt ra nhiều câu hỏi cần tìm lời giải đáp.
2.
N hữ ng phân tích bước đầu về n gu yên nhân
củ a k h ủ n g h oản g kinh tế
a) Tiếp cận từ góc độ các lý thuyết kinh tế
Chủ nghĩa tư bản hiện đại mà trường hợp điển hình
là Mỹ như một trậ t tự kinh tế và xã hội bị thống trị bởi
các công ty đồ sộ, độc quyển (hoặc độc quyển nhóm) sản phẩm của tích tụ và tập trung sản xuất được Mác
trìn h bày trong bộ Tư bản. Đặc điểm chính của hệ
thống này là khuynh hướng gia tăng giá trị thặng dư một hiện tượng được thực thi bằng việc cấm đoán một
cách hiệu quả việc cạnh tran h giá thực tế trong những
ngành nghê chín muồi và có sự độc quyền, cùng với
hiệu su ất khơng ngừng tăng lên. Trong nhửng điều
kiện đó, thúc bách kinh tế chủ yếu khơng cịn là sự tạo
ra giá trị thặng dư, mà là sự sáp nhập nó, nghĩa là có
một tìrih trạn g thiếu hụt nhu cầu hữu hiệu mang tính
16
ch ất chu kỳ. Trong những phân tích thường thấy về chi
tiêu tư bản chủ nghĩa, thặng dư có thể có được chủ yếu
nhờ hai cách: (1) tiêu dùng tư bản chủ nghĩa, và (2) đầu
tư. Tiêu dùng tư bản thực ra đi' ngược lại với động lực
bên trong của bản thân tư bản, trong khi đó, các cơng
ty khơng tiến h àn h đầu tư mới nếu lợi nhuận dự kiến
trong dự án đầu tư là thấp. N hững đoán định như vậy
chịu ảnh hưởng của mức độ hiện có trong việc huy động
năng lực của ngành (năng lực yếu kém có xu hướng
ngàn trở đầu tư). Trong điêu kiện tư bản độc quyền, xu
hướng tăn g trưởng diễn ra chậm chạp, được đặc trư ng
bởi lỗ hổng th iếu việc làm sâu, thậm chí là rộng. Nền
kinh tê tụ t xa so với tỷ lệ tăng trưởng tiêm năng của nó,
với sự huy động kém hiệu quả hàng hố lao động và
vốn. Do đó, tìn h trạ n g thông thường của nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa độc quyền, theo họ, là sự đình trệ. Hệ
thơng này được tin là có th ể được giải cứu bằng sự hiện
diện của những cách tân trọng đại như máy hơi nước,
đường sắt, ơ tơ xét từ góc độ những ảnh hưởng kinh tế địa lý.
Sự phồn th ịn h kinh tế thời hậu Chiến tra n h th ế giới
th ứ hai (cái gọi là "Thời kỳ hoàng kim"), một giai đoạn
dường như được tách rời xa khung cảnh đình trệ. Sự
phồn vinh rủ a hệ thống, là nhri nhimi yếu tố. Một số
yếu tơ' trong đó là tạm thời, và một số khác thì ổn định
nhiêu hoặc ít. Trong số những yếu tcí ổn định nhiều
hoặc ít đó là sự tăn g trưởng phí phạm dưới dạng những
nỗ lực bán hàng hoặc tiếp thị quy mô lớn. Chúng đã
DẬi HỘC TỉĩẮi MGƯYẾr: I
TRuaa TÁM HOC LIỀU
17
thâm nhập vào bản th ân quá trìn h sản xuất, cùng với
chi tiêu quân sự, và tăn g trưởng của tài chính, bảo
hiểm, và bất động sản. Chủ nghĩa quân phiệt và chủ
nghĩa đ ế quốíc, dưới dạng Chiến tra n h lạnh và các cuộc
chiến ở Triều Tiên và Việt Nam, đóng vai trị thúc đẩy
nền kinh tế tư bản độc quyền bằng cách xốc dậy năng
lực sản xuất n h à n rỗi. Chi tiêu của chính quyền dân sự
với tư cách là m ột phần của GDP tại Mỹ. Một hệ thống
mà trong đó những yếu tô" bù lại không đủ, trong dài
hạn, để giữ cho nó khỏi chìm vê sự đình trệ.
Một cuộc k h ủ n g hoảng nghiêm trọng đã tấn công thê
giới tư bản hiện đại vào đầu và giữa những năm 1970,
chứ khơng phải là một hiện tượng đình trệ dễ hiểu lạm p h át đình đốn (có nghĩa là nền kinh tế trì trệ cộng
với lạm phát). Cách giải thích chiếm ưu th ế áp đảo cho
rằng, lạm p h át là th ủ phạm thực sự, và do đó chiến lược
này trở th àn h m ột trong cách tái cơ cấu kinh tê được cụ
thể trong các cái tên: chủ nghĩa tiền tệ, kinh tế trọng
cung, chủ nghĩa tự do mới. Thời đại Hayek thay thê
thời đại Keynes. Cơn sốc lãi su ấ t của Volckler cuối
những năm 1970 mở m àn cuộc khủng hoảng nợ của th ế
giới thứ ba, là m ột phần của bước chuyển thơ bạo nói
chung này. Tại Mỹ, một làn sóng chi tiêu qn sự và
chủ nghĩa ngăn chặn có tín h đê quốc đã đi kèm với
những nỗ lực c ắ t xén th u nhập của công nhân, và phân
phối lại th u n h ập và của cải từ người nghèo vào tay
người giàu. T rên bình diện quốic tế, nó xuất hiện dưới
dạng tái cơ cấu tồn cầu đối với khoản nợ của th ế giới
thứ ba VỚI tư cách là địn bẩy của nó, mở m àn một thời
kỳ của tồn cầu hố theo chủ nghĩa tự do mới.
Sweezy và Magdoff tiếp tục biện luận rằng, sự đình
trệ là khuynh hướng cơ bản của nền kinh tê độc quyền tư bản chủ nghĩa, và cho rằng, những k huyết tậ t đang
gia tăn g trong nền sản xuất hoặc trong nền kinh tế
thực tê được "che giấu" dưới sự phình trướng trong lĩnh
vực tài chính. Trong những năm 1980, họ viết tác phẩm
"Sự đình trệ và Khủng hoảng tài chính" và một số tác
phẩm khác tập tru n g vào sự bùng nổ trong siêu cấu
trúc tài chính của nền kinh tê tư bản trê n đầu một nền
sản x u ất đang ngày càng đình trệ. Tổng số nợ tư nhân
trong nền kinh tế Mỹ tăng từ 110% GDP vào năm 1970
lên tới 293% GDP trong năm 2007. Điêu này nêu bật
câu hỏi vê tính bâ't ổn của lĩnh vực tài chính, và nó càng
rõ hơn trong các cuộc khủng hoảng tài chính tái diễn.
Tăng trưởng nợ, tạp chí "Monthly Review" cho rằng, nó
như m ột sự nghiện ma tuý, theo cái nghĩa là nhiều và
nhiều hơn nữa thuốíc (trong trường hợp này là các
khoản nợ) cần được sử dụng để tạo ra cơn phê như
trước, và do đó dẫn tối sự biên dạng dần của chủ thể.
Trong những năm 1970, tăng trưởng GDP của Mỹ là
khoảng 60 cent cho m ột đôla nợ mới. Trước những năm
đầu Thê kỷ XXI, tỷ lệ này giảm xuống cịn khoảng 20
cent cho một đơla nợ mới. Nên kinh tê Mỹ (và nền kinh
tê thê giới nói chung, cho dù có tăng trưởng nhanh ở
một số phần ở châu Á) tiếp tục chậm lại. Tỷ lệ tăng
trưỏng (tính cả lạm phát) của nền kinh tê Mỹ chậm hơn
19
trong những năm 1970 so với những năm 1960, chậm
hơn trong năm 1980, 1990 so với những năm 1970, và
chậm hơn trong giai đoạn 2000-2007 so với trong những
năm 1980, 1990. Các chỉ số cho biết sự đình trệ bao
gồm sự teo lại của đầu tư ròng và tiên lương thực tê
dẫm chân tại chỗ. Tiền công theo giờ thực tế ở Mỹ lên
đến đỉnh vào năm 1972, và trước năm 2006 thì rớt trở
lại mức năm 1967. Các khoản chi cho tiền công và
lương với tư cách là một phần của GDP rớt thẳng từ
khoảng 54% năm 1970 xuống cịn 46% năm 2006.
b) Tài chính hóa nền kinh tê th ế giới
Trước cuối những năm của thập kỷ 80 và 90 Thê kỷ XX,
Sweezy đấu tra n h với khái niệm tà i chính hóa (một
th u ậ t ngữ được nêu trong tạp chí "M onthly Review"
vào những năm của th ập kỷ 90 Thê kỷ XX để giải
thích tìn h hình kinh tế đang diễn ra). Tài chính hóa có
th ể được xác định như một sự chuyển dịch tru n g tâm
trọng lực của nền kinh tế tư bản từ lĩnh vực sản xuất
sang lĩnh vực tài chính. K hủng hoảng và sự bất ổn
trong lĩnh vực tài chính đã ln là một phần nằm ở
đỉnh của chu kỳ k inh doanh. N hưng chúng ta giải
thích như th ế nào về sự p h át triể n của tài chính hóa
với tư cách là một xu hướng dài hạn, nảy sinh không
chỉ ở đỉnh cao của chu kỳ kinh doanh, mà còn trong cả
những điều kiện đình trệ, và dường như tiếp sức cho
sự đình trệ? Rõ ràn g là, các công ty và các nhà đầu tư
giàu có với sơ" tư bản th ừ a có th ể tùy ý sử dụng có xu
20
hưống bảo toàn và gia tăn g tiên vốn trước nguy cơ các
cơ hội đầu tư đang m ất đi bằng cách bơm tiền đầu cơ
các tài sản có giá trị. Vê phần mình, các tổ chức tài
chính lại có khả năng chào mời các cơng cụ tài chính
lai căng và kém thơng minh với nguồn cung dưịng
như khơng giới hạn. N hưng sự tiếp diễn tình hình này
m ấy th ập kỷ qua, dầu rằng có bị gián đoạn bởi các
khủng hoảng tín dụng vối các ngân hàng tru n g ương
can thiệp vào với tư cách là những người cho vay
chung cuộc để giữ cho cuộc chơi sôi động, thì vẫn dẫn
tới sự chuyển biến định tính trong nền kinh tế. Như
Sweezy đánh giá trong một dịp kỷ niệm 25 năm dành
cho tác phẩm "Tư bản độc quyển": Theo thói quen của
cả các nền kinh tê chủ lực và các nền kinh tê mácxít,
chúng ta coi tích tụ tư bản về cơ bản như chuyện bổ
sung vào kho hàng hố tư bản hiện có. N hưng trên
thực tế, đây chỉ là một khía cạnh của q trìn h . Tích
tụ cũng cịn là chuyện bổ sung vào kho lưu trữ các tài
sản tài chính. Hai khía cạnh này đương nhiên liên
quan đến nhau, nhưng bản chất của sự liên quan này
chí ít cũng là một vấn đề cịn phải bàn.
Một số điều đã rõ nét hơn: (1) Tài chính hố có thể
giúp nâng dậy một nền kinh tê đình trệ, thơng qua nhu
cầu được tạo rn trong khu vực tài rhính. hảo hiểm và
bâ't động sản và thơng qua mọi loại ảnh hưởng tài sản.
(2) Tài chính hóa khơng thể sửa chữa vấn đề cơ bản là
tìn h trạn g đình trệ trong lĩnh vực sản xuất, và theo một
sơ' cách nào đó thậm chí cịn làm nó trầm trọng hơn.
21
(3) Sự tăng trưởng của lĩnh vực tài chính trong tưđng
quan với nền kinh tế hiện vật cũng cho thấy sự hiện
diện của bong bóng tài chính với nguy cơ vỡ tung. (4)
Điều này có nghĩa là kinh tê tư bản độc quyển ngày
càng phụ thuộc vào các ngân hàng trung ương với tư
cách là những người cho vay chung cuộc cung cấp khả
năng th an h toán tiền m ặt và tư bản trong trường hợp
xảy ra khủng hoảng tài chính. (5) Các ngân hàng T rung
ương càng hữu hiệu trong việc ngăn hệ thống tài chính
sụp đổ, thì họ càng hình thành nên các cuộc khủng
hoảng lón hơn trong tương lai. (6) Nếu các bong bóng
tài chính đủ lớn chúng có thể vượt quá năng lực của các
ngân hàng Trung ương và các Bộ Tài chính của các
quổc gia trong q trình đương đầu, trong trường hợp
đó, giảm phát nợ có thể dự báo được. (7) Quyền lực kinh
tế đang chuyển dịch từ phòng họp ban giám đốc của các
cơng ty ra thị trường tài chính, và điều này đang tác
động đến toàn bộ nền kinh tế th ế giới tư bản chủ nghĩa
theo những cách khó lường, thơng qua q trìn h tồn
cầu hố tài chính. (8) Tài chính hóa là lực lượng mới,
chủ yếu trong q trình tồn cầu hố dài hạn hơn
nhiều những năm thuộc thập kỷ 80, 90 Thê kỷ XX và là
th àn h tổ' đặc th ù của cả thòi kỳ chạy theo chính sách
kinh tế tự do chủ nghĩa mới. (9) Tài chính hóa đang
ngày càng gắn kết theo những cách phức tạp với các
khoản nợ Chính phủ làm biến đổi vai trò của các khoản
thâm hụt, đặc biệt là ở Mỹ, trung tâm của tài chính hóa
tồn cầu. (10) Do những xu hướng đình trệ ăn sâu, nên
22
khơng có giải pháp cho nền kinh tê tư bản chủ nghĩa,
ngoại trừ việc tiếp tục tài chính hóa.
Một năm sau khi nảy sinh khủng hoảng kinh tế, rõ
ràng là, chiến lược chủ yếu của các nhà nưóc tư bản
hiện đại diễn biến từ việc cứu trợ lập tức cho hệ thống
tài chính với hàng chục nghìn tỷ đơla, đến nỗ lực phục
hồi hoạt động tài chính hố như một động lực của hệ
thông. Sự phục hồi của lĩnh vực tài chính phản ánh sự
chuyển dịch quyền lực từ các phịng họp ban giám đốíc
của các cơng ty phi tài chính vào tay các tổ chức và các
thị trường tài chính, những thực thể vẫn gia tăng kể cả
trong bối cảnh khủng hoảng tài chính.
Trong năm 1990, mười tổ chức tài chính lớn nhất ở
Mỹ chiếm 10% tổng số tài sản tài chính. Vào năm 2008,
tỷ lệ này lên tới trên 60% tổng tài sản tài chính (Thịi
báo Niu c sô' ra ngày 30-01-2009). Cho dù nền kinh
tế Mỹ đang cho thấy những dấu hiệu phục hồi, nhưng
đó là sự phục hồi mà nhà phân tích tài chính Đavi
Rosenberg gọi là "Sự phục hồi Houdini [tên một nhà ảo
th u ậ t Mỹ]". Tròn 80% tổng tăng trưởng lợi nhuận tại
Mỷ trong quý IV năm 2009 được tạo ra bởi lĩnh vực tài
chính (một lĩnh vực chỉ tương ứng với một phần tư nền
kinh tê). Trong khi đó, tổng giá trị trong khu vực các
cơng ty phi tài chính rớt liên tiếp trong quý III và quý rv.
Người tiêu dùng dè xẻn trong chi tiêu. Đầu tư vẫn yếu
ớt. Những khoản lợi nhuận tăng lên trong "sự phục hồi"
danh nghĩa là sản phẩm của đồng đơla yếu (nhờ đó gia
tăn g các khoản thu từ nước ngoài), giá lao động không
23