Bắt đầu từ người
thầy
Gần đây hơn các nhà tâm lý giáo dục đã đúc kết:
Chúng
ta nhớ
Những gì ta
10% Đọc
20% Nghe
30% Thấy
50% Nghe và thấy (các phương
tiện nghe nhìn)
80% Nói (đối thoại với thầy,
thảo luận nhóm )
90% Nói và làm điều chúng ta
suy nghĩ
(đóng kịch, sắm vai thực
tập trong phòng thí nghiệm
hay hiện trường để áp
dụng điều đã học )
Như th
ế với phương tiện nghe nhìn, người học nhớ được 50%
nội dung trình bày, thế cũng đã tốt. Nhưng nếu chính người học
chủ động hành động như nói hay làm thì hiệu quả còn cao hơn.
Ví dụ phương pháp sắm vai có thể chỉ chiếm 15 phút mà gây
được sự “thức tỉnh” nhớ đời.
Thảo luận nhóm, mô phỏng sắm vai có thể được thực hiện
mà không cần máy móc. Dự một lớp học ở Philippines cách
đây vài năm, tôi ngạc nhiên thấy ở một lớp cao học người ta
ghi kết quả thảo luận trên những tờ giấy dầu vàng khè. Hỏi ra
mới biết có sự cố tình dùng các phương tiện rẻ tiền để người
học có thể ứng dụng khi trở về các địa phương nghèo mà
không viện cớ thiếu phương tiện.
Các nhà giáo dục nhắc rằng các phương tiện máy móc chỉ là tr
ợ
cụ. Người học vẫn thụ động tiếp thu nội dung từ trên xuống, từ
bên ngoài vào. Vẫn thiếu điều chính yếu là sự tự học bằng cách
tham gia vào quá trình học tập. Do đó vấn đề cốt lõi của thay
đổi phương pháp giáo dục là con người chứ không phải cái
máy.
Những khó khăn gặp phải từ phía người thầy
N
ếu chỉ cần nhập ồ ạt các trang thiết bị thì chỉ cần tiền. Cái khó
xuất phát từ sự thay đổi của người thầy. Nếu thầy là sản phẩm
của giáo dục từ chương thì khó biến kiến thức thu nhận được
thành “của riêng mình”, một thứ kiến thức được thử thách từ
thực tế cuộc sống mà mình có thể “xào qua nấu lại” để ứng
dụng trong những hoàn cảnh khác nhau.
Kiến thức ấy vừa sâu vừa rộng để có thể theo dõi những tranh
luận của người học mà không sợ họ kéo mình ra ngoài đề, lại
tự tin đủ để tổng hợp, tóm lược được những gì được phát biểu
một cách lộn xộn trong lớp học. Kiến thức ấy vững chắc đủ để
ta có thể sáng tạo trong phương pháp truyền đạt từ tình hình cụ
thể của lớp học. Ví dụ thay vì giảng bài có thể đặt ra một số
câu hỏi thảo luận nhóm. (Theo kinh nghiệm bản thân thì các
nhóm nêu lên được hầu hết các khía cạnh của nội dung. Người
thầy chỉ cần thêm những gì còn thiếu, nối kết các ý kiến thành
một tổng thể logic).
Tuy nhiên, kiểu dạy này rất mệt, đòi hỏi người thầy nhiều sáng
tạo để tùy cơ ứng biến. Và nếu dựa vào trình độ và đặc điểm
của người học thì không lớp nào giống lớp nào. Người thầy
phải tập trung tư tưởng rất cao để theo dõi diễn biến của lớp
học và nắm vững phản hồi từ người học. Chính sự tiếp thu
phản hồi này khiến người học thích thú vì ý kiến của họ được
coi trọng, từ đó họ phấn khởi tham gia hơn nữa.
Cản ngại từ người học coi vậy mà không khó khắc phục
Đối với trẻ cấp I, II dễ đưa vào phương pháp giáo dục chủ
động. Đối với sinh viên và nhất là đối với người lớn tuổi thì
khó hơn nhiều. Sinh viên quen thói thụ động và nhút nhát. Họ
bám vào “cái chữ” như cái phao an toàn. Bước vào lớp là mọi
người lấy tập chép. Họ rất bỡ ngỡ khi được yêu cầu đừng ghi
chép và phải suy nghĩ. Điều này rất khó vì họ chỉ quen tiếp thu
như cái máy nhớ. Họ càng sợ phát biểu vì e bị chê cười, đánh
giá, qui kết. Mối lo dai dẳng là điểm thi. Học theo kiểu “lang
bang” này biết viết gì trong bài thi? Các buổi họp nhóm chưa
hấp dẫn vì thực hiện chưa đúng qui cách.
Nhưng r
ồi với tuổi trẻ họ cũng khám phá được sự thu hút của
tính sáng tạo, của các mối tương tác của những khám phá nhờ
cách học vui vui học. Và trên hết sự gần gũi giữa người dạy và
người học. Và từ từ họ khám phá là kiến thức thu nhận được là
của chính họ. Và họ không còn nói vẹt nữa.
Trở lại người thầy
N
ắm vững nội dung không đủ, người thầy cần một số kiến thức
và kỹ năng tâm lý xã hội, đặc biệt là “năng động nhóm” để
hướng dẫn sinh viên về tâm lý nhóm nhỏ, về cách tổ chức và
điều hành thế nào cho mọi người cùng tham gia, về cách tóm
lược và trình bày nội dung thảo luận. Người thầy cũng cần một
số kỹ năng trong học vui vui học như sắm vai, mô phỏng, thu
thập và dạy bằng tình huống.
Quan trọng nhất là cách cho bài thi để đánh giá một cách cụ thể
nhất những gì sinh viên đã thu hoạch được. Nghĩa là ngoài việc
kiểm tra kiến thức, người thầy còn đánh giá được cách sinh
viên liên hệ chúng với thực tế và với bản thân. Một bài thi mà
sinh viên không chép ở người khác được vì họ phải nói về
chính họ, nhưng họ rất thỏa mãn vì chính sinh viên sẽ đánh giá
được sự tiến bộ của bản thân.
Thầy còn phải nắm vững sự tiến bộ của sinh viên bằng những
bài tập nhỏ để kiểm tra kết quả học tập ở từng giai đoạn, những
lỗ hổng cần khỏa lấp nếu có bằng các bài tập nhỏ, nhật ký buổi
học, những thu hoạch bất chợt. Thái độ tiếp nhận ý kiến khác lạ
từ sinh viên của thầy rất quan trọng, bởi lẽ nếu thầy vội vã chê
bai hay bất đồng ý kiến thì người học mất hứng và không dám
phát biểu nữa